Phía Tây Không Có Gì Lạ - Chương 10 - Phần 1
Chương 10
Chúng
tôi vớ được món bở. Tám đứa chúng tôi nhập nhiệm vụ giữ một làng đã tản cư đi
sạch, vì bị oanh tạc dữ quá.
Việc
chính là phải trông coi kho quân lương chưa chuyển đi được hết. Cái ăn thì
chúng tôi phải lấy ở chỗ lương thực hiện có. Cử bọn tôi làm việc này là đích
đáng lắm: Cát, An be, Muynlơ, Jađơn, Lia, Đêtơrinh, cả tiểu đội ở đây. Sự thực,
Hai đã chết. Nhưng dù sao, cũng vẫn may mắn ghê gớm, vì tất cả những tiểu đội
khác đều bị thiệt hại nặng nề hơn nhiều.
Chúng
tôi chọn một cái hầm bê tông làm nơi trú ẩn, đi xuống hầm bằng một cái thang
phía ngoài. Lối vào lại có một bức tường riêng bằng bê tông che chở.
Bây
giờ, chúng tôi tha hồ mà làm mưa làm gió.
Chúng
tôi lại có dịp không những để cho cặp giò được thoải mái, mà cả trí óc nữa.
Chúng tôi không bỏ lỡ những cơ hội tốt như thế này, vì chúng tôi ở vào một hoàn
cảnh gay go quá đến nỗi không đủ thì giờ mà cảm xúc lâu nữa, việc chỉ có thể có
khi tình hình không đến nỗi bi lắm. Chúng tôi chỉ còn cách sống rất thực tế,
thực tế quá đến nỗi đôi lúc tôi rùng mình khi một ý nghĩ ngày xưa, của thời kì
trước chiến tranh thoáng qua óc tôi. Cũng phải nói rằng ý nghĩ ấy chỉ thoáng
qua thôi.
Trong
chừng mực có thể, chúng tôi cũng cần khai thác khía cạnh thuận lợi của hoàn
cảnh. Vì thế chúng tôi lợi dụng bất kì cơ hội nào để chuyển từ nỗi âu lo khủng
khiếp sang những trò quấy tếu vớ vẩn nhất, một cách thẳng thừng, thô bạo và
không đòi hỏi gì cả. Chúng tôi không nhịn được, chúng tôi nhắm mắt lao bừa vào.
Ngay lúc này, chúng tôi hăng hái bắt tay vào việc xây dựng một bản tình ca, dĩ
nhiên là bản tình ca ăn ngon và ngủ kĩ.
Trước
hết chúng tôi trang bị cho ngôi nhà của mình bằng những tấm đệm tìm được ở các nhà
trong làng. Một cái đít lính chăng nữa cũng đôi lúc muốn đặt lên một cái gì êm
ấm chứ. Chỉ có khoảng giữa gian hầm là để trống. Rồi chúng tôi lùng những chăn,
những mền, những thứ êm ấm lạ lùng. Trong làng, có đủ mọi thứ. An be và tôi lại
lùng được một cái giường bằng gỗ đào hoa tâm có thể tháo lắp được, đỉnh màn
bằng lụa xanh và riềm bằng đăng ten hẳn hoi. Lúc khiêng giường về, chúng tôi mồ
hôi mồ kê nhễ nhại, nhưng tài nào mà bỏ qua một vật như thế được, nhất là nếu
nghĩ rằng trong vài ngày nữa, đại bác nhất định sẽ phá huỷ hết tất cả.
Cát
và tôi tổ chức thi một cuộc tuần tra các nhà.
Một
lúc sau chúng tôi moi được một tá trứng gà và một cân bơ còn tươi. Trong một
phòng khách, đột nhiên có tiếng rầm rầm: một mảnh đạn rít lên, xuyên qua bức
tường ngay cạnh chúng tôi và cách đấy một thước nữa, nó lại phá một lỗ hổng
trên một bức tường khác. Thế là hai lỗ tất cả. Mảnh đạn bất ngờ này từ một quả
đại bác nã xuống ngôi nhà trước mặt. “Phúc bảy mươi đời!” Cát cười khẩy, rồi
chúng tôi lại tiếp tục cuộc lùng kiếm. Đột nhiên, chúng tôi vểnh tai lên và ba
chân bốn cẳng chạy. Rồi chúng tôi lại đứng lại ngay như bị ma làm: hai chú lợn
con đang lục sục trong một cái chuồng nhỏ. Chúng tôi dụi mắt và nhìn cẩn thận
một lần nữa về phía ấy: rõ ràng chúng nó còn sờ sờ ra đấy. Chúng tôi tóm lấy
chúng: không còn ngờ gì nữa, đúng là hai chú lợn sữa.
Một
bữa chén ngon tuyệt trần đấy! Cách hầm chúng tôi độ năm chục bước có một ngôi
nhà dùng làm chỗ ở cho sĩ quan. Trong bếp, có một cái lò thật vĩ đại với hai giàn
quay, với những chảo rán, nồi niêu, nghĩa là có đủ mọi thứ cần thiết; dưới mái
hiên lại có rất nhiều củi nhỏ chờ chúng tôi: thật là một chốn bồng lai tiên
cảnh.
Từ
sáng sớm, hai đứa trong bọn tôi đã ra ngoài đồng lùng khoai tây, cà rốt và đậu
đầu mùa. Chúng tôi ra cái điều khảnh ăn, không thích những món đồ hộp trong kho
quân lương; chúng tôi muốn chất tươi kia. Trong chạn, đã có hai cây súp lơ
rồi.
Chúng
tôi thịt hai con lợn; Cát lãnh cái nhiệm vụ ấy. Chúng tôi muốn thêm vào thịt
quay món bánh rán khoai nữa. Nhưng chúng tôi không xoay đâu được cái bàn để nạo
khoai. Chúng tôi tìm được cách thay thế ngay. Chúng tôi lấy một cái nắp hộp sắt
tây, rồi đóng đinh cho thủng lỗ chỗ khắp cả, thế là được cái bàn xát cần thiết
rồi. Ba đứa đeo găng dày để tránh đau tay, cứ việc ngồi nạo khoai, còn hai đứa
khác ngồi gọt vỏ, công việc chạy băng băng.
Cát
nấu nướng với hai con lợn, cà rốt, đậu bột và súp lơ. Anh ta lại đánh một thứ
xốt trắng rưới vào món súp lơ nữa. Còn tôi thì làm món bánh rán, mỗi lần bốn
chiếc. Cứ độ mươi phút tôi lại hất cái chảo lên một lần làm cho những chiếc
bánh đã chín một mặt, nhảy lên, quay đi một vòng rồi rơi xuống rất đúng chỗ.
Hai con lợn đã quay vàng. Mọi người quây lại như xúm quanh một cái bàn
thờ.
Dịp
này, chúng tôi lại có khách, hai chú lính vô tuyến điện thoại mà chúng tôi đã
có nhã mời đến để đánh chén. Họ ngồi ở phòng khách, ở đấy có cái đàn dương cầm.
Một cậu đánh đàn, một cậu hát bài “Trên bờ sông Vê Đơ.” Cậu ta hát đầy tình cảm
nhưng pha giọng vùng Xắc Xơ. Tuy vậy bài hát vẫn làm cho chúng tôi xúc động
trong khi chúng tôi xúm xít trước bếp lửa làm những món ngon lành này.
Dần
dần, chúng tôi nhận thấy trái phá bắt đầu dội xuống như mưa quanh chỗ chúng
tôi. Tụi khí cầu thám thính đã phát hiện ra khói bốc từ ống khói nhà chúng tôi
lên, và thế là chúng oanh tạc. Những quả đại bác hạng nhẹ chết tiệt ấy khoét
những chỗ không to lắm nhưng mảnh đạn đi rất xa và sát mặt đất.
Những
tiếng rít mỗi lúc một nhiều, nhưng dù sao chúng tôi cũng không thể đình việc
làm bếp lại được.
Cái
bọn chó má ấy hướng dẫn đường đạn. Vài mảnh đạn xuyên qua cửa sổ. Món lợn quay
chẳng mấy lúc đã xong. Nhưng rán bánh đâm ra khó. Những viên đạn rơi xuống gần
đến nỗi mảnh đạn đập chan chát vào tường và xuyên qua cửa sổ mỗi lúc một
nhiều.
Mỗi
lần nghe thấy tiếng nào gần dấy, tôi lại bê chảo bánh quỳ xuống và nép sau bức
tường có cửa sổ. Nhưng liền sau đó, tôi lại nhỏm dậy và tiếp tục rán.
Hai
anh chàng người Xắc Xơ ngừng đàn hát: một mảnh đạn đã bắn vào cái đàn dương
cầm; chúng tôi cũng đã làm xong công việc bếp núc và tính nước chuồn. Khi một
quả đại bác vừa nổ xong là hai người bê những chảo rau đậu, ù té chạy, vượt
quãng đường năm chục thước từ nhà bếp đến hẩm trú ẩn của chúng tôi. Chúng tôi
thấy họ lẩn mất hút.
Một
quả đại bác nữa. Mọi người cúi xuống, rồi hai người bê hai bình cà phê chính
cống hạng nhất, chạy lồng lên và đến được hầm trú ẩn trước khi một quả đại bác
nữa rơi xuống.
Bây
giờ đến lượt Cát và Cốp chuyển món chủ lực quân: cái chảo lớn với hai con lợn
quay vàng. Một quả đại bác gầm lên, chúng nó quỳ xuống, rồi kia, chúng nó chạy
như bay, vượt qua năm chục thước đường trống.
Tôi
đã rán xong bốn cái bánh cuối cùng; tôi đã phải nằm bẹp xuống đất hai lần,
nhưng tôi cũng được thêm bốn cái nữa, món tôi rất ưa thích.
Thế
rồi tôi bê cái mâm với đống bánh rán lù lù ở trên và đứng nép vào cửa. Một
tiếng rít, một tiếng nổ và tôi chạy như bay, hai tay ghì cái mâm vào ngực. Gần
đến nơi, lại nghe thấy một tiếng rít đinh tai mỗi lúc một to; tôi chồm lên như
một con hươu rồi ngoắt nhanh như chớp vào trong bức tường bê tông; mảnh đạn
quật chan chát vào bức tường; tôi chạy xuống thang ngầm. Hai khuỷu tay rách
toạc cả, nhưng cái mâm không bị đổ và không mất qua một cái bánh nào.
Chúng
tôi bắt đầu đánh chén vào lúc hai giờ. Kéo dài cho đến tận sáng. Từ sáu giờ đến
sáu rưỡi, chúng tôi uống cà phê, thứ cà phê và thuốc xỉa của sĩ quan, cũng lấy
ở kho. Đến đúng sáu giờ rưỡi, chúng tôi lại ăn bữa tối. Đến mười giờ đêm chúng
tôi vất xương lợn ra ngoài cửa. Rồi sau đó, có rượu cô nhắc, rượu rum cũng lấy
ở cái kho thực phẩm trời cho ấy, rồi lại đến lượt những điếu xì gà to, dài có
quấn vòng. Jađơn quả quyết rằng chỉ còn thiếu một món: ấy là cái món gái nhà
thổ của sĩ quan.
Đêm
đã khuya, chúng tôi nghe thấy tiếng kêu meo meo. Một chú mèo nhỏ màu xám ngồi ở
lối ra vào. Chúng tôi nhử nó vào và cho nó ăn. Thế là chúng tôi lại thấy buồn
mồm. Chúng tôi đi ngủ mà mồm vẫn nhai.
Nhưng
chúng tôi trải qua một đêm thật là khổ.
Chúng
tôi ăn nhiều thức béo quá. Con lợn sữa đã làm cho cả lũ đau bụng. Trong gian
hầm, cứ đi đi về về suốt đêm. Bên ngoài lúc nào cũng có hai hoặc ba đứa ngồi
xổm quây thành vòng tròn, quần tụt hẳn xuống, mà miệng thì cứ chửi. Về phần
tôi, tôi đi lại con đường chín lần. Đến bốn giờ sáng, thì cả bọn phá kỉ lục: cả
người vừa tướng, vừa lính, vừa khách khứa đều họp mặt ở ngoài!
Những
ngôi nhà cháy rừng rực, hiện lên trong đêm như những bó đuốc. Trái phá điên
cuồng nổ cạnh chúng tôi. Những đoàn xe quân nhu ầm ầm qua phố.
Một
góc của kho quân lương bị đạn phá tung ra. Mặc dầu bom đạn, tụi lái xe vẫn cứ
chen chúc vào như một đàn ong và xoáy bánh mì ở đấy. Chúng tôi mặc cho họ lấy.
Nếu nói gì, có thể họ nện cho nhừ tử. Vì vậy chúng tôi tính cách khác. Chúng
tôi bảo họ rằng chúng tôi có nhiệm vụ trông kho và vì chúng tôi cũng là những
tay lắm mánh khoé, chúng tôi đổi đồ hộp cho họ để lấy những thứ chúng tôi
thiếu. Cái đó có quan hệ gì? Chẳng bao lâu đại bác sẽ phá huỷ hết. Chúng tôi
moi sôcôla trong kho ra và ăn từng tảng một. Cát bảo yên bụng mà ăn cái này thì
tốt lắm…
Suốt
mười lăm ngày như thế, chúng tôi chỉ việc ăn uống và rong chơi nhởn nhơ. Chẳng
có ai quấy rầy gì cả. Đại bác dần dần phá huỷ hết cả làng và chúng tôi sống
thật là khoái. Khi nào trong kho quân lương còn cái chén được, là chúng tôi còn
phớt đều và chúng tôi ước ao một cách đơn giản là giá chiến tranh chấm dứt ngay
ở đây thì tuyệt quá.
Jađơn
đâm ra chơi sang đến mức xì gà chỉ hút nửa điếu thôi. Nó tuyên bố một cách kên
kiệu rằng đó là thói quen của nó. Cát cũng thế, cũng ra vẻ lắm.
Buổi
sáng, vừa mở mắt, câu đầu tiên của anh ta là: “Min, mang cà phê với trứng cá
muối lại đây!” Chúng tôi trở nên lịch sự một cách lạ lùng đứa nào cũng coi bạn
mình như là quân hầu, anh anh ta ta một cách trịnh trọng, và ra lệnh “Cốp, chân
ta ngứa đây, anh bắt cho ta con rận.” Vừa nói, Lia vừa giơ chân cho nó như một
cô đào hát, còn An be thì lôi Lia ta lên đến tận đầu cầu thang. “Jađơn?” - “Gì?”
– “Jađơn, anh cứ đứng tự nhiên, mới lại người ta không nói “gì” mà phải nói là:
Xin nghe lệnh. Nào, Jađơn!” Thế là, Jađơn ta, bằng cử chỉ và lời nói lại đóng
vai Gợt Béclichingơn (Hiệp sĩ Đức, thế kỉ thứ XV) một cách đặc sắc. Nó đóng cái
vai này tuyệt lắm.
Tám
ngày sau, chúng tôi nhận được lệnh rút. Thế là hết cả hào hoa phong nhã. Hai xe
vận tải lớn đến đón chúng tôi. Hai chiếc xe chở đầy ăm ắp ván gỗ.
Nhưng
An be và tôi cố xếp lên cái giường có đỉnh màn với riềm lụa xanh, với đệm và
hai cái chăn con có đăng ten. Trong góc, mỗi đứa chúng tôi có một bị đầy những
món ăn hảo hạng. Thỉnh thoảng, chúng tôi lại sờ, nắn những khúc dồi hun, chắc
nịch, những hộp xúc xích gan, những hộp thức ăn, những hộp xì gà, làm cho lòng
chúng tôi rạo rực. Mỗi đứa vác đầy một bị như thế.
Nhưng
Cốp và tôi lại còn vớt vát thêm hai chiếc ghế bành bọc nhung đỏ. Chúng tôi xếp
hai cái ghế lên trên giường rồi ngồi ưỡn ra như ngồi ghế lô trong nhà hát. Trên
đầu chúng tôi, cái đỉnh màn lụa bay phồng lên, y như cái lọng. Mỗi đứa lại vắt
vẻo ở mồm một điếu xì gà dài ngoằng. Ngồi như thế, từ trên cao, chúng tôi nhìn
xuống khắp vùng. Giữa chúng tôi có một cái lồng vẹt, mà chúng tôi đã lùng được
để nhất trí mang con mèo đi theo; chú mèo kêu khò khò trước bát thịt.
Xe
chạy chậm chậm trên đường. Chúng tôi hát.
Phía
sau chúng tôi, những quả đại bác dựng lên những cột khói từ cái làng lúc này đã
hoàn toàn bỏ trống.
Vài
ngày sau, chúng tôi nhận nhiệm vụ dồn dân ra khỏi một khu vực. Dọc đường, chúng
tôi gặp những người chạy loạn bị đuổi ra khỏi nhà. Bao nhiêu của cải họ xếp lên
xe bò, xe trẻ con và vác cả trên lưng nữa.
Thân
hình họ còng xuống, nét mặt đầy vẻ buồn phiền, tuyệt vọng, vội vã và chịu đựng.
Trẻ con đưa tay cho mẹ dắt, đôi lúc chị dắt một lũ em, chúng nó vừa đi vừa vấp
ngã và luôn luôn ngoái lại đằng sau. Vài đứa mang theo những con búp bê thảm
hại. Tất cả bọn đều im lặng, khi đi gần chúng tôi.
Chúng
tôi vẫn hành quân. Quân Pháp chắc hẳn không bắn vào những làng có đồng bào của
họ. Mấy phút sau, không khí rú lên, đất chuyển mình, những tiếng kêu thét nổi
dậy: một quả đại bác vừa nghiến cả trung đội đi sau cùng. Chúng tôi tản ra và
nằm bẹp xuống đất; nhưng lúc này, tôi không còn can đảm như mọi lần, dưới lửa
đạn, vẫn làm được một cách vô ý thức những động tác thích hợp. Một ý nghĩ bật
lên trong đầu tôi “mình đi đứt mất.” Một sự lo lắng ghê gớm chẹn lấy họng tôi.
Đồng thời một cái gì giống như một ngọn roi quất vào chân trái tôi. Tôi nghe
thấy An be
kêu lên, nó nằm sát cạnh tôi.
-
Đứng dậy, An be! - Tôi hét lên, - Chúng mình nằm trơ ra thế này à, chẳng có gì
che cả!
Nó
loạng choạng đứng dậy và bắt đầu chạy. Tôi chạy sát bên nó. Chúng tôi phải vượt
qua một bờ dậu cao hơn đầu người. Cốp víu lấy một cành cây; tôi nắm chân nó; nó
kêu lên, tôi đẩy nó một cái cho có đà, nó nhảy sang bên kia dậu. Tôi nhảy xuống
ngay đằng sau nó và ngã lộn xuống một cái ao phía sau.
Mặt
hai đứa đầy những bèo và bùn, nhưng chỗ trú ẩn này khá đấy. Cho nên chúng tôi
ngâm nước đến tận cổ. Khi nghe thấy một viên đạn réo lên, chúng tôi hụp ngay
đầu xuống nước.
Nhô
lên hụp xuống độ mười hai lần, tôi mệt lử cả người, An be cũng thế, thở hổn
hển.
-
Đi đi, nếu không tớ ngã gục xuống và chết đuối mất!
-
Cậu bị vào đâu?
-
Có lẽ đầu gối.
-
Cậu chạy được không?
-
May ra...
-
Vậy chạy nhé!
Chúng
tôi chạy đến cái rãnh nước bên đường.
Chúng
tôi lom khom chạy theo đường rãnh, hỏa lực vẫn đuổi theo chúng tôi. Con đường
này dẫn đến kho đạn. Nếu kho đạn nổ thì chúng tôi tan xác không còn một mảnh.
Vì vậy, chúng tôi đổi chiều và chạy tạt chéo qua cánh đồng.
An be đi chậm lại.
-
Cậu cứ chạy đi, tôi theo sau, - Nó vừa nói vừa ngồi phệt xuống.
Tôi
cầm tay nó, lắc lắc:
-
Đứng dậy, An be, cậu mà nằm xuống, là đừng hòng đi được nữa. Nào, vịn vào
mình.
Cuối
cùng, chúng tôi đến một hầm trú ẩn nhỏ.
Cốp
nằm dài ra trên mặt đất. Tôi băng bó cho nó. Nó bị thương trên đầu gối một tí.
Sau đó tôi nhìn lại tôi.
Quần
đẫm máu, cả tay áo cũng thế. An be quấn băng vào những chỗ
bị thương cho tôi. Lúc này, nó không nhấc được chân lên nữa rồi. Cả hai đứa đều
ngạc nhiên sao lại lê được đến tận chỗ này thì lạ thật.
Chính
cái sợ đã giúp sức chúng tôi, giá bị cụt hai bàn chân, có lẽ chúng tôi vẫn còn
tiếp tục đi được bằng những khúc chân cụt ấy.
Tôi
còn có thể bò được một ít, tôi gọi một cái xe có thành đi qua đấy; nó chở chúng
tôi đi. Trên xe đã đầy những người bị thương. Một y tá trưởng tiêm vào bụng mỗi
đứa một phát để phòng bệnh uốn ván.
Đến
trạm quân y, chúng tôi thu xếp hai đứa nằm bên nhau. Người ta cho chúng tôi ăn
cháo loãng, hai đứa vừa húp sùm sụp, vừa tỏ vẻ khinh bỉ; vì đã quen một dạo với
toàn cao lương mĩ vị, nhưng chúng tôi vẫn thấy đói.
-
An be, bây giờ, là chúng mình về nhà, - Tôi nói.
-
Cũng mong thế, - Nó trả lời. - Không biết tớ bị ra làm sao?
Các
chỗ đau mỗi lúc một nhức nhối. Những chỗ băng bó nóng bỏng lên như lửa đốt.
Chúng tôi uống, uống liên tục, hết cốc nước này đến cốc nước khác.
-
Vết thương của mình cách đầu gối bao nhiêu nhỉ? - Cốp hỏi.
-
Ít ra là mười phân, An be ạ, - Tôi trả lời. - Sự thực, có lẽ chỉ cách ba phân
thôi.
Một
lúc sau nó nói:
-
Tớ thề là nếu họ cưa của tớ một chân là tớ tự tử ngay. Tớ không thể nào sống
làm thằng què ở trên đời này được.
Thế
là, chúng tôi nằm đất nghĩ vơ nghĩ vẩn và chờ đợi.
Buổi
chiều, người ta đem chúng tôi lên bàn mổ.
Tôi
phát hoảng và vội vàng tự hỏi phải làm gì đây, vì ai chả biết là trong những
trạm quân y dã chiến, tụi bác sĩ chỉ cưa là nhanh thôi. Trong lúc vội, cưa bao
giờ chả đơn giản hơn những việc chắp nối phiền phức. Tôi nhớ đến Kemơrich. Dù
thế nào tôi cũng nhất định không để cho chúng đánh thuốc mê, dù phải đập vỡ mặt
vài thằng ra cũng đành.
Nhưng
không đến nỗi thế. Viên thầy thuốc cắt rạch khắp cả vết thương của tôi, tôi đau
quá, nẩy đom đom mắt ra.
-
Làm gì mà nhặng lên thế, - Ông ta vừa càu nhàu vừa tiếp tục cắt xé. Những dụng
cụ lóe lên dưới ánh sáng gay gắt như những con thú dữ. Đau không chịu được. Hai
gã y tá giữ chặt lấy cánh tay tôi, nhưng tôi giằng ra được một gã và sắp sửa
đánh hắn ngã dúi vào cặp kính của viên thầy thuốc, thì ông này nhận thấy nên vội
nhảy bổ về đằng sau.
-
Đánh thuốc mê cho nó đi! - Ông ta giận dữ hét lên.
Thế
là tôi dịu lại.
-
Thưa bác sĩ, tôi xin lỗi. Tôi sẽ nằm im, nhưng đừng đánh thuốc mê tôi.
-
Được, ông ta vừa nói bằng một giọng gay gắt vừa cầm lại dụng cụ.
Ông
ta tóc vàng, nhiều nhất là ba mươi tuổi, mặt có những cái sẹo thời sinh viên và
đôi kính gọng vàng trông không mê được. Tôi nhận thấy lúc này, ông ta đang tìm
mảnh đạn, ông ta mò ngoáy trong vết thương của tôi, thỉnh thoảng lại ngước mắt
lên trên cặp kính nhìn về phía tôi một cái. Hai bàn tay tôi nắm chặt cái thành
bàn mổ, đến tê dại đi; tôi thà chết chứ không chịu rên lên một tiếng.
Ông
ta đã mò được mảnh đạn trái phá trong vết thương, rồi ông ta ném nó cho tôi.
ông ta có vẻ hài lòng về thái độ của tôi, vì bây giờ ông ta đặt những thanh gỗ
buộc xương cho tôi một cách cẩn thận và nói: “ngày mai, về nhà nhé.” Rồi người
ta bó bột cho tôi. Khi về cạnh chỗ Cốp, tôi nói cho nó biết có lẽ ngày mai, một
chuyến tàu quân y sẽ tới.
-
An be này, chúng mình phải tán với tay đội nhất y tá để hai đứa ở gần nhau mới
được.
Tôi
đã tìm cách luồn cho viên đội nhất y tá hai điếu xì gà loại có vòng, kèm theo
mấy lời thích đáng.
Anh
ta hít hít và nói:
-
Cậu còn nữa không?
-
Còn kha khá, cả thằng bạn tôi cũng thế (vừa nói tôi vừa chỉ Cốp), cả hai đứa
chúng tôi chỉ muốn sáng mai cùng đưa cho anh qua cửa sổ chuyến tàu quân
y.
Dĩ
nhiên, anh ta hiểu ý, lại hít hít và nói:
-
Được thôi.
Ban
đêm, chúng tôi không chợp mắt được nổi một phút. Trong phòng chúng tôi, có bảy
người chết. Một người trong số ấy hát thánh ca suốt một giờ, bằng cái giọng nam
cao nghẹn ngào, rồi sau đó bắt dầu thở nấc lên. Một người khác tụt xuống khỏi
giường, lê ra tận cửa sổ, rồi nằm ở đấy như để nhìn ra bên ngoài một lần cuối
cùng… Những cái cáng của chúng tôi đã ra đến ga.
Chúng
tôi đợi tàu. Trời mưa. Nhà ga không có mái.
Chăn
thì mỏng. Chúng tôi đợi đã hai giờ rồi. Viên đội nhất y tá săn sóc chúng tôi
như một người mẹ. Dù mệt bã người, nhưng tôi vẫn chuẩn bị kế hoạch. Vì vậy cứ
làm ra vẻ như thường, tôi chỉ vào những cái gói và đưa cho anh ta một điếu để
cược trước. Đáp lại, viên đội nhất đắp cho chúng tôi một tấm vải bạt.
-
An be này, anh nói tôi vừa nhớ lại, còn cái giường có đỉnh màn của chúng mình,
còn con mèo...
-
Còn những cái ghế bành nữa chứ, - Nó thêm...
Phải,
những cái ghế bành bọc nhung đỏ. Trước, tối tối hai đứa tôi ngồi như ông hoàng
và chúng tôi tính sau này sẽ đem ra cho thuê giờ. Mỗi giờ, một điếu thuốc lá.
Một cuộc sống không phải lo lắng, mà lại là một việc có lợi nữa chứ.
-
An be này, - Bất chợt tôi nói, - Còn những cái bị đựng thức ăn của chúng
mình...
Chúng
tôi buồn quá. Còn những thứ ấy mà dùng thì tuyệt biết bao nhiêu. Nếu tàu khởi
hành chậm độ một ngày, nhất định Cát sẽ tìm được chúng tôi và mang đến cái món
quý hóa ấy.
Số
kiếp ăn mày! Trong ruột chỉ có tí cháo bột, thức ăn đạm bạc của nhà thương, mà
trong bị thì có thịt lợn quay. Nhưng chúng tôi mệt quá nên cũng chẳng còn sức
đâu mà háo hức cái món ấy nữa.
Mãi
sáng, tàu mới đến, cáng đã ướt hết cả. Viên đội nhất y tá để hai đứa chúng tôi
vào cùng một toa.
Trong
ấy có bao nhiêu là các bà, các cô hồng thập tự.
Cốp
nằm bên dưới. Người ta nhấc tôi lên, đặt lên giường phía trên nó.
-
Trời! - Tôi bất giác kêu lên.
-
Làm sao thế - Cô y tá hỏi.
Tôi
nhìn cái giường. Khăn trải giường trắng như tuyết những cái khăn sạch không thể
tưởng tượng được, còn nguyên cả nếp là. Ngược lại, cái áo sơ mi của tôi sáu
tuần lễ chưa giặt, nó bẩn một cách quái gở.
-
Anh có lên giường một mình được không? - Cô y tá hỏi tôi, có vẻ lo lắng.
-
Được - Tôi vừa nói vừa thở, - Nhưng hãy lột cái khăn này đi đã.
-
Sao thế?
-
Tôi thấy mình chẳng khác gì con lợn và không thể nào nằm lên cái khăn trải giường
như thế này được. Nhưng… - Tôi ngập ngừng, - Nó sẽ...
-
… bẩn đi một tí chứ gì? - Cô y tá hỏi bằng một giọng vỗ về - Không sao đâu,
chúng tôi lại giặt đi thôi.
-
Không, không phải thế đâu... - Tôi nói một cách cáu kỉnh, - Tôi không quen cái
kiểu sống văn minh lịch sự thế này.
-
Các anh là những người đã ở chiến hào, chúng tôi có thể giặt khăn trải giường
cho các anh mà, - Cô ta nói tiếp.
Tôi
nhìn cô ta. Cô ta trẻ và nom thích mắt quá, quần áo tươm tất, sạch sẽ một cách
lạ lùng, cũng như tất cả những cái ở đây. Tôi cứ tưởng những cái này chỉ dành
riêng cho sĩ quan thành thử tôi đâm ra lúng túng và cảm thấy lo ngại là khác
nữa.
Thế
mà cô ta ác quá, cứ bắt tôi phải nói hết.
-
Chẳng qua là…
Tôi
ngừng lại; chắc cô ấy phải hiểu chứ.
-
Còn sao nữa?
-
Vì những con rận. - Cuối cùng tôi rống lên.
Cô
ta cười.
-
Thì cũng phải để cho chúng nó có lúc sướng chứ.
Bây
giờ tôi không còn nói vào đâu được nữa. Tôi leo lên giường và kéo chăn
đắp.
Một
bàn tay lướt trên chăn của tôi. Viên đội nhất y tá. Anh ta đi khỏi với những
điếu xì gà.
Một
giờ sau, tôi thấy tàu đang chạy.
Ban
đêm, tôi thức giấc. Cốp cũng cựa mình. Con tàu chạy êm êm trên đường sắt. Chúng
tôi chưa hiểu nổi những chuyện đã xây ra: một cái giường, một chuyến tàu, trở
về nhà. Tôi khe khẽ:
-
An be!
-
Cậu có biết nhà xí ở đâu không?
-
Có lẽ ở phía bên kia, bên phải cửa ra vào ấy.
-
Tớ đi xem thế nào.
Tối
quá. Tôi sờ soạng mép giường và lần xuống một cách thận trọng. Nhưng chân tôi
không có chỗ tựa, tôi cảm thấy bị lôi tuột xuống, còn cái chân bó bột thì chả
giúp gì được, thế là tôi ngã lăn ra sàn, đánh ầm một tiếng.
-
Tổ mẹ nó! - Tôi kêu lên.
-
Có đau không? - Cốp hỏi.
-
Cậu cũng nghe thấy rồi, cái đầu tớ...
Phía
cuối toa, cửa mở ra, cô y tá xách đèn chạy lại và trông thấy tôi.
-
Anh ấy ngã trên giường xuống…
Cô
ta bắt mạch và sờ trán tôi.
-
Anh có sốt đâu.
-
Không …
-
Hay là anh nằm mê? - Cô ta hỏi.
-
Có lẽ, - Tôi trả lời qua loa cho xong chuyện.
Bây
giờ lại bắt đầu cuộc tra khảo. Cô ta nhìn tôi bằng đôi mắt long lanh. Cô ta
sạch sẽ và xinh đẹp quá; tôi lại càng không thể thổ lộ với cô ta cái nguyện
vọng của tôi được.
Tôi
lại được đặt lên giường. Sắp nguy to đến nơi rồi đây! Khi nào cô ta đi khỏi tôi
lại phải tụt ngay xuống mới được. Nếu là một bà già thì nói chuyện ấy cũng dễ,
nhưng đằng này cô ta lại trẻ măng, nhiều nhất là hai mươi lăm tuổi; không thể
được, tôi chả nói đâu...
An be liền giúp tôi. Nó không
ngượng, vì dẫu sao cũng không phải việc của bản thân nó. Nó gọi cô y tá đến. Cô
ta quay lại.
-
Cô ơi nó muốn…
Nhưng
cả An be cũng không biết nói thế nào cho lịch sự và không chê trách được. Nếu
giữa chúng tôi với nhau ở mặt trận, chỉ một tiếng là đủ hiểu, nhưng ở đây, trước
một tiểu thư như thế này… Nhưng, bất thình lình, nhớ lại hồi đi học, nó liền
nói được một cách trơn tru:
-
Cô ơi nó muốn... ra ngoài.
-
À được, - Cô y tá nói. - Chân bó bột như thế thì việc gì mà phải xuống
giường!
-
Anh muốn dùng thứ nào? - Cô ta hỏi tôi.
Cái
câu hỏi mới mẻ này làm cho tôi sợ chết đi được vì tôi không hiểu một tí gì về
cách diễn tả những cái ấy bằng chuyên môn.
Cô
y tá liền đỡ lời tôi:
-
Cái bé hay cái to?
Chao
ôi, buồn cười làm sao! Tôi thở rống lên như bò và nói bằng một giọng lúng
túng:
-
Cái bé thôi vậy... - Ít ra, tôi cũng còn may mắn đôi chút.
Người ta mang lại cho tôi một thứ chai. Vài giờ sau, không phải chỉ có mình tôi như thế và đến sáng, thì chúng tôi quen đi và đòi hỏi cái món cần thiết mà không ngượng ngập tí gì nữa.
Con tàu chạy chậm chậm. Thỉnh thoảng nó dừng lại và người ta khiêng những người chết xuống. Nó dừng như thế luôn.
An be lên cơn sốt, còn tôi tuy có nhức nhối nhưng không đến nỗi mệt quá; tệ nhất có lẽ vẫn còn những con rận ở dưới lớp thạch cao bọc vết thương. Nó làm tôi ngứa ghê gớm mà không tài nào gãi được.
Suốt dọc đường lúc nào chúng tôi cũng ngủ chập chờn. Phong cảnh chạy qua cửa sổ một cách bình thản. Đêm thứ ba, chúng tôi đến Hécbextan. Tôi thấy người ta nói với cô y tá là An be vì bị sốt nên sẽ phải xuống ga sắp tới.
Tôi hỏi tàu chạy đến đâu.
- Đến Côlônhơ.
- An be này, chúng mình sẽ ở bên nhau, - Tôi nói, - Rồi cậu xem.