Đảo chìm - Phần II - Chương 09 - 10

NGƯỜI CỦA THẾ KỈ TRƯỚC

Đó là cụ Đinh Thị Khuyên, người làng Bò, xã Phấn Mễ, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Đến cái Tết Con Lợn này(*), cụ mới tròn... một trăm lẻ sáu tuổi xanh. Thế nhưng trông vóc dáng cụ, nhất là nghe cụ nói, thì chẳng ai nghĩ cụ là người của thế kỉ trước. Bởi cụ có vẻ như rất trẻ, lại xăm xắn, nhanh nhẹn như người đương thì. Gương mặt căng. Da đỏ hồng. Tai to như tai Phật. Mái tóc cắt ngắn, loáng thoáng vài ba sợi bạc. Đôi mắt đen và sắc. Cụ vẫn tự xâu kim, khâu vá mà không phải nhờ con cháu. Giọng cụ sang sảng. Điều đáng kinh ngạc nữa là cụ có trí nhớ lạ kì, lại sắc sảo, thông minh và hóm.

(*) Năm 1995.

Tôi ngồi lặng lẽ ngắm cụ như ngắm một ngôi chùa cổ. Hình như điều đó làm cụ ngạc nhiên:

– Sao? Anh trông tôi có giống con voi không? Chỉ có con voi mới sống dai thế chứ! Tôi là con voi đấy. Con voi một ngà!

Thực ra, voi không phải là con vật sống lâu. Theo các nhà sinh vật học, thì con voi nào khỏe nhất cùng lắm cũng chỉ “thọ” được đến bảy mươi năm.

– Thế thì tôi là mẹ của con voi rồi!

Cụ Khuyên lại cười. Nụ cười có vẻ như là bỡn cợt. Và tôi lại rơi hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Không thể ngờ đó lại là ngôn ngữ của bà cụ một trăm lẻ sáu tuổi. Tôi vội bật máy ghi âm, trong đầu chợt nảy ra ý định ghi lại nguyên xi cuộc nói chuyện, để làm kỉ niệm, để bè bạn cùng nghe, kẻo sợ kể về cụ, nhiều người không tin, lại cho là tôi bịa chuyện.

– Tôi chỉ còn có mỗi một cái răng thôi. Thế nên mới là con voi một ngà. – Cụ Khuyên giải thích cho cái câu nói hóm hỉnh vừa rồi. Dường như cụ sợ tôi không hiểu. – Răng tôi rụng sớm lắm. Rụng hai mươi năm rồi. Năm ấy, tôi mới có... tám mươi sáu tuổi.

– Thế cụ có phải dùng răng giả không?

– Không! Răng giả thì ăn thế nào được. Mà sao phải dùng răng giả? Tôi là tôi chúa ghét cái trò đen bạc, giả dối.

– Thế cụ nhai thế nào?

– Thì tôi vẫn nhai. Nhai bằng lợi. Rồi lâu cũng quen. Tôi vẫn ăn được mỗi bữa hai, ba bát. Cuối bữa còn làm thêm mấy miếng cháy cho thơm miệng.

Ngừng một lát, cụ tiếp:

– Nói, anh lại cười, chứ tôi khổ lắm. Có dạo đói lắm. Nhất là cái đận mới bỏ quê, dắt díu nhau lên khai hoang ở Thái Nguyên này. Trong túi chẳng có lấy một xu. Muốn mua chịu một chinh muối cũng chẳng ma nào chịu bán. Không có tiền là nhục lắm. Làm đến ông Giời mà nghèo, thì cũng vẫn chẳng ra cái thằng người.

Tôi ngạc nhiên:

– Thế ra cụ không phải người trên này?

– Không quê tôi ở dưới kia. Mãi mạn Hà Nam. Nhưng vùng tôi dạo ấy nghèo lắm, lại quanh năm lụt lội. Làm đến thân con trâu, con bò mà cũng chẳng có cỏ mà nhai. Thế thì phải chạy thôi. Tôi bỏ quê lên trên này vào ngày 11 - 10 - 1950. Thoạt đầu tôi đi buôn. Buôn đầu chợ, bán cuối chợ. Khi thì mấy mớ rau. Khi thì vài đẫn mía. Loanh quanh thế thôi. Thế mà ngày cũng bòn được mấy hào bạc nuôi năm đứa con dại.

– Thế cụ ông đi đâu?

– Cụ nhà tôi mất sớm lắm. Mất từ năm 1946. Trước đây, ông cụ làm nghề cắt tóc rong. Nhưng được đồng nào lại ném hết vào bàn tổ tôm, xóc đĩa. Vợ con chẳng được nhờ. Tôi đẻ đến chục bận. Nhưng ông Giời chỉ để cho năm đứa con. Cái năm ông nhà tôi mất, thằng con út tôi mới lên bốn tuổi...

– Thế cụ không đi bước nữa?

– Đi đâu? Ai dám rước một con mẹ mướp với năm đứa con nheo nhóc? Vả lại, hồi ấy, tôi cũng đã năm mươi bảy tuổi. Đàn ông thời ấy, ở cái tuổi như tôi, trông ai cũng hom hem cả. Mình một nách đã năm đứa con, lại phải cắp thêm một ông lão nữa, sống sao nổi? Thế là tôi ở vậy. Rồi đâu cũng vào đấy cả. Ngẫm lại đời mình, tôi thấy tôi khổ quá. Mười sáu tuổi bố chết. Mười tám tuổi mẹ chết. Mười chín tuổi lấy chồng. Đầu năm cưới, cuối năm có con. Rồi giường cứt chiếu đái, khổ ơi là khổ!

Bà cụ nói về nỗi khổ của một kiếp người, mà gương mặt lại cứ tươi rói. Tôi hỏi cụ xem cụ có cách gì mà kéo dài được tuổi thọ, lại có được sự minh mẫn đến lạ thường.

– Ối giời, cái đó thì tôi chịu. Tôi không biết đâu. Anh hỏi thằng con trai tôi ý. Nó biết đấy!

Nói rồi, bà cụ đưa mắt liếc xéo sang phía người con trai út của mình, là ông Đoàn Đình Thế, chủ tịch huyện Phú Lương. Nhưng ông Thế chỉ cười. Nụ cười ngỏn nghẻn, e thẹn như một trang thanh niên vừa mới thấc dậy.

Cụ Khuyên cười dủm dỉm:

– Nói anh đừng cười nhé. Tôi chẳng để được cái gì ở trong bụng đâu. Có gì là cứ tuôn ra mồm hết. Tôi chẳng hề ghét ai bao giờ. Em ruột tôi khác hẳn tính tôi. Dì ấy kém tôi có hai tuổi thôi mà chín chắn lắm. Hiện dì ấy đang giữ cháu cho thằng chắt ngoại ở Hà Nội. Hôm vừa rồi dì ấy về đây, dì ấy cứ cằn nhằn: “Gớm, sao bá nói lắm thế? Cứ càm cạp suốt ngày như con vịt già.” Thằng Thế cũng a dua: “Thôi, u nói ít thôi.” Thế là tôi nổi đóa lên. Sao phải im lặng? Con người khác hòn đá là nó có cái mồm. Ngay cả chuyện vui, không nói, cứ để trong bụng, lưu cữu mãi rồi cũng hóa thành khí độc. Tôi chẳng bao giờ để chất độc trong người.

Tôi tò mò:

– Trong các món ăn, cụ thích món gì nhất?

– Tôi chẳng thích món gì cả. Nhà có gì, ăn nấy. Cũng chỉ rau mắm thôi. Khi nào tôi ốm đau, họa hoằn lắm, cháu nó mới mua cho tí thịt.

– Thế địa phương có giúp gì cụ không?

– Có. Nhưng tôi gạt đi. Rõ khéo vẽ chuyện. Vả lại thằng con trai tôi làm chủ tịch huyện, chẳng mừng thọ, mừng thiếc gì, kẻo thiên hạ họ lại bảo con bày vẽ ra để lấy quà cho mẹ, mang tiếng là tham nhũng. Tôi là tôi súp tất. Với nữa, tôi đâu có đói để phải cần ai giúp đỡ. Con cháu đầy đàn, đầy đống, sao phải nương nhờ xã hội? Mà tôi còn sức chán. Tôi làm tôi ăn. Ngày ngày tôi vẫn đi hái chè. Chỉ có mấy tháng gần đây, tôi bắt đầu thấy mỏi lưng, con cháu không cho tôi gánh gồng nữa. Nhưng tôi vẫn đi hái chè...

– Sắp tới về Hà Nội, con sẽ chép cái băng ghi âm này ra, cho vào một cuốn sách, để nhiều người cùng đọc. Cụ có điều gì khuyên các bạn đọc trẻ không?

– Ối giời! Tôi thì còn khuyên nhủ được ai? – Cụ Khuyên giãy nảy. – Ngay cái lũ cháu chắt tôi kia kìa, chúng nó cũng có thèm nghe tôi đâu. Bọn trẻ nó sống theo cách sống của chúng. Đến bố mẹ chúng, chúng còn chả nghe, nữa là nghe bà Khốt đã ngoài trăm tuổi. Mà ngay cả anh nữa, anh cũng tưởng chúng nó nghe anh à? Không có chuyện ấy đâu nhá!

1995

HUYỀN THOẠI CHỢ TÌNH

I

Từ lâu, tôi đã nghe người ta kháo nhau về một cái chợ ở Sa Pa. Chợ lạ lắm. ở đó không bày bán những mặt hàng phàm tục mà người ta có thể mua bán, đổi chác bằng tiền bạc. Mỗi năm một lần, chợ là nơi gặp gỡ của những số phận người, những mối tình dang dở, những nỗi ẩn ức, ngang trái, nhưng mà đẹp. Đẹp não nuột. Những người yêu cũ đến đó để gặp nhau, sống hết mình với nhau trong chốc lát. Đó là ngôi đền linh thiêng, ở đấy chỉ có tình yêu ngự trị. Các ông chồng, bà vợ tẻ nhạt chỉ được đứng ngoài cửa. ối giời, đến thế thì ghê quá. Hóa ra đồng bào dân tộc mình thoáng thật. Thoáng đến thế thì Tây cũng thua. Tàu cũng thua.

Cũng vì những lời đồn thổi như thế mà chúng tôi quyết lên Sa Pa, tìm thăm chợ tình. Anh bạn người Tày đi cùng tôi, không giấu được nỗi rạo rực:

– Em thì lại nghe nói cái chợ ấy ở Khau Vai, mỗi năm chỉ họp có một lần. Đến Khau Vai thì người ta lại bảo: Không phải đâu. Chuyện ấy ở Sa Pa đấy!

Chiếc xe rú ga hăm hở lên dốc. Nắng sớm vàng sánh như mật ong, chảy đầm đìa suốt mấy rẻo rừng, tràn cả xuống thung lũng bên kia triền núi. Những đống mây trắng xốp, chẳng biết từ xó xỉnh nào bỗng đột ngột xuất hiện, rồi lừng lững đi qua đường, thốc cả vào xe, táp lên mặt ta một thoáng lạnh xa ngái, khiến những gã trần tục cũng hóa kẻ mơ mộng, cứ ngỡ mình thành Nam Tào, Bắc Đẩu, đang cưỡi xe mây bay lên mấy tầng trời. Bên kia thung, những thửa ruộng bậc thang buông từ lưng trời xuống những tấm lụa thổ cẩm. Thiên nhiên đang trải thảm cho những lứa đôi đi vào chợ tình đấy!

II

Bây giờ thì cái chợ huyền thoại ấy đã ở trước mắt tôi. Giữa trung tâm khu vực được gọi là chợ tình, một tháp chuông nhà thờ mờ ảo trong sương khói. Bãi đá bóng bỏ hoang. Cột gôn xiêu vẹo, buộc ngơ ngác mấy con ngựa thồ, ngổn ngang những bãi phân ngựa. Nước đọng từng vũng, chỗ đen thẫm, chỗ nâu xỉn, ri rỉ chảy ra rãnh thoát nước ven đường, thoang thoảng mùi xú uế. Quanh bãi, la liệt những chậu than hồng. Các cô gái tới tấp quạt ngô nướng. Xuôi xuống phố, con đường nhựa chạy qua chợ Sa Pa, hai bên đường là những nhà hai tầng, ba tầng, tầng mặt đường bày la liệt những hàng tạp hoá. Rồi đồ nhựa, vải vóc, túi thổ cẩm. Chẳng còn thiếu thứ gì. Nó cũng tíu tít, tấp nập như một cái chợ dưới xuôi.

Vào những ngày thứ bảy, khách đến đông nghịt. Những ngôi nhà bên đường phải dẹp bớt chỗ ngủ làm phòng trọ. Các khách sạn phải đăng kí trước ba bốn ngày mới có chỗ nghỉ. Cả đường phố ồn ào. Người nọ chen người kia, lần lượt đi lên lại đi xuống, đi xuống lại đi lên, tay cầm bắp ngô nướng, vừa đi vừa nhai nhóp nhép, rồi lại hỏi: “Chợ tình ở đâu?”. “Chợ tình ở đâu nhỉ?”. Cột đèn cao áp tỏa sáng rực xuống mái phố, đường phố, thỉnh thoảng lại mờ ảo hẳn đi vì một đám mây trắng bay qua. Người miền núi, những chủ nhân thực sự của chợ tình thì không biết chợ tình. Họ xúng xính trong những bộ váy áo sặc sỡ nhất. Nhiều cô gái tay còn đẫm màu xanh sẫm do nhúng quá lâu trong những thùng nhuộm quần áo. Bên bãi đá, các chàng trai mang khèn Mèo ra thổi. Vừa thổi vừa nhảy lò cò. Tiếng khèn e é như tiếng gà trống choai đang tập gáy. Có lẽ cuộc hát đã bắt đầu chăng? Tôi vội rẽ đám đông, lách vào. Té ra mấy chàng đang quảng cáo khèn và hướng dẫn luôn cách thổi cho khách. Mấy cô gái mũ đỏ, bầu má cũng đỏ au như trái táo mèo chìa cái vòng bạc ra trước mặt tôi.

– Mình không đeo được vòng bạc đâu. Chỉ thích nghe hát thôi.

– Không có biết hát đâu à! Cái này nó biết hát đấy, nhưng phải trả tiền cho nó!

– Đừng nói thế, các anh ấy lại coi thường người dân tộc mình mà!

Rồi lại đùn đẩy nhau, chúi vào lưng nhau. Một cô ngượng nghịu hát, tiếng rất nhỏ, chỉ thấy i i i như tiếng dế kêu.

Trên đỉnh dốc, ngang bãi đá có tiếng hát khá nồng nhiệt. Đấy mới đúng là cuộc hát. Một dạng hát đối đáp. Nhưng không phải người. Đó là những cái cassette Trung Quốc. Chàng trai bật băng. Cô gái cũng bật băng đáp lại. Túi nào cũng lủng củng những cuốn băng ghi sẵn câu hát. Người mới qua tưởng là cuộc đấu đài. Chàng trai H’mông cười ngượng nghịu:

– Mình phải nhờ cái mồm sắt này nó hát hộ thôi. Hát bằng mồm mệt lắm. Ồ, mà cái mồm sắt này nó cũng mệt rồi. Nó đói rồi. Nó đòi ăn pin đấy. Phải cho nó ăn pin thôi!

Chả lẽ cái chợ tình huyền thoại, làm xao động bao trái tim con người chỉ có thế thôi ư? Tôi ngờ ngợ như mình đi nhầm. Hình như không phải cái chợ này rồi. Tôi quay lại hỏi chàng trai H’mông đang ngồi xổm trên dốc đá, lúi húi cho cái mồm sắt ăn pin:

– Ở đây còn có cái chợ nào nữa không?

– Cán bộ ở đâu đến đấy? – Anh chàng nhìn tôi ngơ ngác – Ở cả vùng này chỉ có mỗi cái chợ này thôi!

Đến khi tôi hỏi về cái chợ huyền thoại, ngôi đền thiêng của những người yêu cũ, thì anh chàng ớ ra:

– Ồ, cái đó thì mình không biết đâu. Cán bộ hỏi người già. Người già biết đấy.

Nhưng rồi người già cũng chịu. Bà Giàng Thào Mi, người bán thuốc Bắc trong chợ Sa Pa cười trơ cả lợi:

– Mấy người Kinh buồn cười lắm lố. Toàn hỏi mình như cán bộ hỏi thôi. Đồng bào mình không biết chuyện đó đâu. Chợ này họp quanh năm mà. Chỉ tối thứ Bảy, ngày Chủ nhật, trai gái mới gặp nhau, hát giao duyên. Ai yêu nhau thì thành vợ thành chồng. Nó là cái chợ văn hóa mà. Ở đây, đồng bào mình vẫn gọi là chợ văn hóa. Các cán bộ ở đây cũng gọi là chợ văn hóa. Thế mà có bao ông giám đốc, mang theo các cô thư kí ở Hà Nội xuống đây, cứ hỏi mình chợ tình. Không có chợ tình, thì họ tự mở chợ tình với nhau ở trong các chuồng chim, chuồng thỏ kia kìa...

Nói rồi, Giàng Thào Mi cười hi hí, chỉ lên các triền đồi. Ở đó thấp thoáng những ngôi nhà trọ chìm trong cây lá, dành cho khách vãng lai...

– Đấy, chợ tình của người Kinh đấy. Còn đồng bào mình khổ lắm. Suốt ngày đầu tắt mặt tối kiếm tiền nuôi con. Đồng bào mình không biết cái chuyện đó đâu hờ...

1997

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3