Bức thư tình cuối - Phần I - Chương 05 - Phần 1
Chương 5
Anthony O’Hare tỉnh dậy trong căn phòng khách sạn Brazzaville. Anh nhìn chằm chằm chiếc quạt trần đang quay một cách trễ nải ngay trên đầu, lờ mờ nhận ra những tia nắng rọi xuyên qua các tấm chớp cửa sổ và tự hỏi, sẽ ra sao nếu lúc này anh đang dần chết đi. Đầu của anh vẫn nặng trình trịch, thỉnh thoảng đau. Ruột gan anh dường như vẫn chưa thôi rối loạn từ cuộc vui đêm hôm trước. Miệng anh đắng ngắt và không có cảm giác gì, chỉ còn cảm giác giống như thể buồn nôn. Một nỗi lo sợ mơ hồ choán lấy tâm trí anh. Có phải đêm qua anh bị trúng đạn? Hay anh bị đánh trong một cuộc nổi loạn? Anh nhắm mắt, chờ nghe tiếng vọng quen thuộc từ ngoài đường, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng xì xào vọng ra từ những đám đông đang tụ tập ven đường, những người luôn thấp thỏm lo âu, cố nghe ngóng xem sự bất an tiếp theo có thể đến từ đâu. Nhưng đó không phải là một viên đạn. Có thể chỉ là sốt vàng da. Lần này chắc chắn là anh mắc bệnh rồi. Nhưng, ngay cả lúc anh nghĩ tới điều này, anh vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra không có một âm thanh Congo nào xung quanh mình: không có tiếng hét nào vọng ra từ một cửa sổ đang mở, không có nhạc từ trong quán bar, không có mùi nấu món kwanga được gói trong lá chuối. Không có tiếng súng. Không có tiếng la hét ở Lingala hay Swanhili. Yên tĩnh. Chỉ có tiếng vọng lại của những chú chim hải âu.
Không phải Congo. Nước Pháp. Anh đang ở nước Pháp.
Anh thấy một thoáng nhẹ nhõm, cho đến khi anh thực sự cảm thấy đau đớn. Bác sĩ đã cảnh báo là anh sẽ đau hơn nếu anh uống rượu lại, vậy mà anh cũng chỉ nghe rồi để đấy, vẫn lấy lí trí ra để biện hộ cho bản thân. Bác sĩ Robertson hẳn sẽ rất hài lòng nếu biết những phỏng đoán của ông chính xác như thế nào.
Anh ngồi thẳng dậy trên giường, chắc chắn là nếu làm thế sẽ không ảnh hưởng tới cái chân đau, rồi hạ cả hai chân xuống bên mép giường và dò dẫm đi về phía cửa sổ, cảm nhận rõ mùi mồ hôi lâu ngày trên áo và những chiếc chai rỗng trên bàn tố cáo về một cuộc chơi thâu đêm trước đó. Anh vén rèm và dưới kia là một vùng vịnh lấp lánh ánh vàng. Những mái ngói đỏ nhấp nhô trên sườn đồi được lợp bằng ngói nung, không phải bằng thứ tôn gỉ quẹt trên những ngôi nhà lụp xụp ở Congo. Những cư dân ở đây trông thật cường tráng, khỏe mạnh và hạnh phúc. Họ đi tán gẫu, đi dạo và chạy bộ trên bờ biển. Những người da trắng. Những người giàu có.
Anh nheo mắt. Khung cảnh thật đẹp và không chê vào đâu được. Anh thả rèm, lê người vào trong buồng tắm, vịn vội hai tay vào bồn rửa và khạc nhổ một cách đáng thương. Cố gắng đứng vững, anh trèo vào bồn tắm hoa sen và ngồi sụp vào tường, để mặc dòng nước ấm chảy tràn trên người trong khoảng hai mươi phút, ước gì làn nước ấy có thể gột rửa mọi thứ dơ bẩn trong anh.
Thôi nào, mày phải làm chủ bản thân đi chứ
Anh mặc quần áo, gọi xuống quầy tiếp tân xin một chút cà phê nóng và khi đã cảm thấy tỉnh táo hơn một chút, anh ngồi vào bàn viết. Đã gần mười một giờ kém mười lăm. Anh phải gửi bài về tòa soạn, bài viết anh đã phác thảo từ chiều hôm qua. Anh nhìn mẩu giấy viết tay nguệch ngoạc và nhớ lại những gì xảy ra tối qua. Kí ức dần ùa về một cách nhạt nhòa. Mariette, cô quay mặt về phía anh khi đứng ngoài khách sạn và muốn anh hôn. Anh kiên quyết từ chối, ngay cả khi anh cảm thấy có thể mình là một thằng khùng: một cô gái đang thèm muốn anh và sẵn sàng dâng hiến cho anh. Nhưng anh cảm thấy một chút vui mừng về một điều duy nhất đúng đắn anh đã làm vào tối hôm đó.
Ôi, Chúa ơi. Và Jennifer Stirling, thật mong manh và dễ vỡ, đưa áo khoác về phía anh. Cô chắc hẳn đã nghe lỏm những lời lẽ huênh hoang khiếm nhã không suy nghĩ của anh. Anh đã nói gì về cô nhỉ? Một quý bà giàu có được nuông chiều... chẳng có nổi một chút chính kiến ở trong đầu. Anh nhắm mắt. Viết về chiến tranh chắc chắn là dễ dàng hơn nhiều. Và an toàn hơn. Trong chiến tranh, bạn luôn biết rõ ai là kẻ thù.
Cà phê đã được mang tới. Anh thở sâu rồi uống một ngụm to. Anh nhấc điện thoại và mệt mỏi nhờ tiếp tân nối máy với London.
Thưa bà Stirling,
Tôi là một gã khùng khiếm nhã. Tôi biết mình hoàn toàn có thể đổ lỗi cho việc quá mệt mỏi sau một chuyến đi dài hay do dị ứng với đồ hải sản, nhưng tôi phải thú nhận rằng đó chỉ đơn giản là tôi đã nốc quá chén, một điều tôi không nên làm, và do bản tính nóng nảy của mình khi thấy không thể thích nghi nhanh chóng được với một buổi tiệc mang tính xã hội rộng lớn như thế này. Tôi đã tự dày vò mình trong nhiều giờ.
Cho phép tôi gửi lời xin lỗi chân thành tới bà. Tôi sẽ rất vui nếu bà và ông Stirling chấp nhận lời mời ăn trưa của tôi vào một ngày nào đó trước khi tôi quay trở lại London.
Từ một người đang cảm thấy rất xấu hổ,
Anthony O'Hare
Tái bút: Tôi xin gửi kèm theo đây bài viết tôi mới gửi về tòa soạn ở London để bà thấy ít nhất tôi cũng viết bài một cách nghiêm túc.
Anthony gập thư lại, bỏ vào phong bì và dán kín. Chắc hẳn anh vẫn chưa hết say: anh không thể nhớ nổi lần cuối cùng anh viết một bức thư thành thật như vậy là khi nào.
Rồi anh sực nhớ ra anh không có lấy một dòng địa chỉ để gửi thư tới. Anh thầm chửi thề về sự đãng trí của mình. Tối hôm trước, tài xế của Stirling đã tới đón anh, và anh thì hầu như không thể nhớ gì trên đường trở về nhà, ngoại trừ một vài việc bẽ mặt.
Quầy tiếp tân khách sạn có vẻ cũng không giúp được gì nhiều. Stirling? Người giữ cửa lắc đầu.
“Anh không biết ông ta hả? Một người đàn ông giàu có. Rất quyền lực,” anh cố gặng hỏi. Miệng vẫn cảm thấy đắng ngắt.
“Ồ thưa ngài, tất cả mọi người ở đây đều giàu có và đầy quyền lực,” anh ta trả lời một cách mệt mỏi.
Một buổi chiều thật êm dịu, không khí trong lành gần như tinh khiết dưới bầu trời xanh trong vắt. Anh bước chầm chậm, cố nhớ lại quãng đường mà người tài xế tới đón anh đã đi qua. Tối qua anh chỉ đi mất chưa đầy mười phút: làm sao có thể tìm lại ngôi nhà đó đây? Anh sẽ để bức thư đó ngay tại bệ cửa và bỏ đi. Anh không muốn nghĩ về việc mình sẽ làm gì tiếp theo khi quay trở lại thị trấn: kể từ buổi sáng hôm đó, toàn cơ thể anh nhắc anh nhớ về quãng thời gian dài anh chìm đắm trong bia rượu. Hãy uống bia đi, cơ thể anh giục giã. Hay rượu. Whisky. Dạ dày anh lại đau và anh run lên. Cuộc đi bộ này có thể tốt cho anh, anh tự nói sau khi chào hai người phụ nữ đội mũ đang mỉm cười với anh.
Bầu trời Antibes vẫn một màu xanh ngắt, bãi biển điểm xuyết bởi khách du lịch đang nằm dài trên bãi cát trắng. Anh nhớ người tài xế đã rẽ trái tại vòng xoay này và nhận ra con đường nhỏ với những ngôi biệt thự lợp mái bằng đất sét dẫn lên đồi. Đây chính là con đường tối qua anh đi. Mặt trời rọi thẳng vào sau cổ anh và xuyên qua mũ. Anh cởi áo khoắc, vắt lên vai rồi tiếp tục rảo bước.
Tuy nhiên, vừa qua khỏi khu đồi phía sau thị trấn, mọi việc dường như đã đi chệch hướng. Anh rẽ trái tại một khu nhà thờ nhìn không quen thuộc lắm và bắt đầu men theo triền đồi. Những hàng cọ và dừa thưa dần rồi hoàn toàn biến mất, không bóng mát che đầu, anh cảm giác rõ hơi nóng tỏa ra từ những tảng đá và mặt đường rải đá giăm. Anh thấy rõ da mình như bị đốt cháy và biết rằng khi tối đến sẽ đau như thế nào.
Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi vụt qua làm bắn những viên đá giăm lên vách núi. Dường như anh đang đi lại đúng con đường tối qua, chân anh rảo bước nhanh hơn khi nghe mùi hương tỏa ra từ những bụi thảo mộc hoang dã, khi cảm nhận hơn lạnh lúc trời chạng vạng. Giờ đây, khi thời khắc quan trọng đang đến rất gần thì niềm tin trong anh lại lung lay ghê gớm khi anh buộc phải tính đến khả năng có thể mình sẽ thất bại.
Don Franklin chắc hẳn sẽ rất thích thú khi thấy anh thế này, vừa nghĩ anh vừa dừng lại lấy khăn tay lau trán. Anthony có thể tìm đường băng qua châu Phi, vượt qua biên giới, vậy mà ở đây anh có thể lạc lối trên một con đường chỉ mất mười phút để tới biệt thự của một nhà triệu phú. Anh lùi lại khi thấy một chiếc xe đang có ý định vượt qua, rồi nheo mắt nhìn khi thấy chiếc xe từ từ dừng lại sau một tiếng phanh két. Đảo mình một chút, chiếc xe lùi về phía anh đang đứng.
Yvonne Moncrieff với cặp kính mát gài trên đầu, vươn người qua cửa sổ chiếc xe Daimler SP250. “Anh có điên không vậy?” cô bông đùa một cách thích thú. “Anh sẽ bị thiêu cháy mất.”
Anh nghiêng người nhìn qua người cô và thấy Jennifer Stirling ngồi sau tay lái. Cô liếc nhìn anh qua cặp kính mát to quá khổ, tóc cột gọn gàng phía sau, khó có thể đoán cô đang nghĩ gì.
“Chào các cô,” anh nói, một tay bỏ mũ, cảm thấy rõ mồ hôi đang chảy dọc theo chiếc áo sơ mi nhàu nhĩ của mình và mặt anh cũng bóng nhãy mồ hôi.
“Ông đang làm gì ở một nơi xa thị trấn tít tắp thế này vậy, ông O'Hare?” Jennifer hỏi. “Cho một bài phóng sự nóng hổi nào đó chăng?”
Anh hạ chiếc áo khoác bằng linen từ trên vai xuống và lấy từ trong đó ra một bức thư. “Tôi - tôi chỉ muốn đưa cô cái này.”
“Cái gì vậy?”
“Một lời xin lỗi.”
“Một lời xin lỗi?”
“Vì sự khiếm nhã của tôi tối qua.”
Cô dường như không hề có ý định vươn người qua người bạn gái của mình và cầm lấy bức thư.
“Jennifer, liệu tôi có thể?” Yvonne Moncrieff liếc nhìn bạn mình, rõ ràng không hiểu gì.
“Không. Ông có thể đọc to bức thư đó lên không, ông O'Hare?” Cô hỏi.
“Jennifer!”
“Nếu ông O'Hare tự tay viết bức thư đó thì tớ tin ông ấy hoàn toàn có thể đọc nó lên.” Khuôn mặt cô không bộc lộ bất kì cảm xúc gì đằng sau cặp kính. Anh đứng sững một lúc, ngoái đầu nhìn con đường hoàn toàn trống vắng và nhìn xuống khu làng đang bị mặt trời thiêu đốt phía dưới. “Tôi thực sự muốn rằng -”
“Có vẻ như đó không phải là một lá thư xin lỗi, phải vậy không ông O'Hare?” Cô nói một cách duyên dáng. “Ai cũng có thể viết mấy từ nguệch ngoạc như thế cả.”
Yvonne Moncrieff nhìn chằm chằm vào tay mình, lắc đầu. Cặp kính mát quá khổ của Jennifer vẫn nhìn anh chăm chú, bóng anh hiện rõ trên đôi tròng kính đen.
Anh mở phong bì, rút ra một tờ giấy và sau một phút lưỡng lự, anh đọc to những gì anh đã viết, giọng anh bỗng vang bất chợt khi đứng giữa mênh mông núi đồi. Đọc xong, anh cẩn thận gấp lại và để vào túi áo. Anh cảm thấy ngượng ngùng một cách kì lạ khi sự yên tĩnh bao trùm, chỉ nghe tiếng máy nổ khe khẽ của chiếc ô tô.
“Chồng tôi đã đi châu Phi rồi. Anh ấy mới đi sáng nay.” Cuối cùng Jennifer nói.
“Nếu vậy tôi sẽ rất hân hạnh nếu được mời hai cô bữa trưa.” Anh vội nhìn đồng hồ. “Ồ, là một bữa trưa rất trễ.”
“Rất tiếc tớ không thể Jennifer à. Chiều nay Francis muốn tớ xem chiếc du thuyền anh ấy mới sắm. Tớ vẫn luôn nói anh ấy chỉ luôn mơ mộng viển vông.”
“Vậy thì chúng tôi sẽ cho ông đi nhờ xe về thị trấn, ông O'Hare,” Jennifer nói, hất đầu về chiếc ghế nhỏ phía sau. “Tôi không muốn chịu trách nhiệm cho việc phóng viên đáng kính nhất của tờ Nation bị say nắng và ngộ độc rượu.”
Cô đợi Yvonne bước ra khỏi chiếc xe và dịch chiếc ghế đằng trước lên một chút để Anthony dễ dàng bước vào, rồi lôi từ trong ngăn kéo xe ra một chiếc khăn tay đưa cho anh. “Hãy dùng cái này đi,” cô nói, “Ông có biết là mình đang đi sai hướng hoàn toàn không? Chúng tôi sống ở đằng kia.” Cô chỉ về phía ngọn đồi đằng xa, được phủ kín bởi rất nhiều cây. Khóe môi cô thoáng ra một chút cười, đủ để anh hiểu có thể anh đã được tha thứ, và rồi cả hai người phụ nữ cùng phá lên cười. Thở phào nhẹ nhõm, Anthony ấn mạnh chiếc mũ lên đầu và họ cùng đi ngược lại con đường nhỏ dẫn về thị trấn.
*
Chiếc xe kẹt cứng trong dòng xe cộ khi họ vừa thả Yvonne tại khách sạn St Georges. “Giữ mình nhé,” Yvonne vẫy tay tạm biệt họ. Cô nói bằng một sự vô tư đầy vui vẻ của một người biết chắc mình không thể là người đứng giữa.
Khi chỉ còn lại hai người, không khí trong xe hoàn toàn thay đổi. Jennifer Stirling bỗng im lặng, dường như hoàn toàn tập trung vào dòng xe cộ phía trước cứ như thể không phải là cô vừa ở đó đi ra hai mươi phút trước đó. Anh lén liếc nhìn cánh tay rám nắng của cô, khuôn mặt nhìn nghiêng khi cô đang chăm chú nhìn vào dãy đèn ô tô trước mặt. Anh tự hỏi có phải cô đang tỏ vẻ tức giận với anh hơn là cô chuẩn bị tinh thần như thế.
“Thế chồng cô sẽ ở Châu Phi trong bao lâu?” anh hỏi, phá tan sự im lặng giữa hai người.
“Có lẽ một tuần. Anh ấy ít khi ở lâu hơn thế.” Cô thò đầu qua cửa ô tô, thử tìm hiểu xem cái gì đã khiến dòng xe tắc nghẽn như vậy.
“Thời gian quá ngắn cho một chuyến đi xa như thế.”
“Ông biết điều đó mà, ông O'Hare.”
“Tôi ư?”
Cô nhướng mày. “Chẳng phải ông biết tất cả mọi thứ về châu Phi ư? Tối qua ông đã nói thế.”
“Tất cả mọi thứ?”
“Ông bảo tất cả những người đàn ông làm kinh doanh ở đó đều là những gã lừa đảo.”
“Tôi đã nói thế?”
“Ông nói với Ngài Lafayette.”
Anthony thả người thấp hơn trên ghế. “Bà Stirling” - anh hắng giọng.
“Ồ, đừng lo. Laurence không nghe được những gì anh đã nói đâu. Francis thì có nghe thấy nhưng anh ta cũng chỉ có một vài thương vụ lẻ tẻ ở đó nên cũng không quá nghiêm trọng vấn đề.”
Dòng xe cộ bắt đầu nhúc nhích.
“Hãy để tôi mời cô bữa trưa nay,” anh khẩn khoản. “Rất mong cô nhận lời. Tôi chỉ muốn có cơ hội để cô thấy, dù chỉ trong vòng nửa tiếng, là tôi không phải một kẻ ngớ ngẩn như vậy.”
“Anh nghĩ anh có thể thay đổi ý nghĩ của tôi nhanh như vậy sao?” Lại là nụ cười nơi khóe miệng.
“Tôi đặt cược vào đó. Hãy cho tôi biết chúng ta tới nhà hàng nào đây.”
Người bồi bàn mang tới cho cô một li nước chanh đầy. Cô nhấp một ngụm rồi ngả lưng vào ghế và nheo mắt nhìn ra biển.
“Cảnh thật tuyệt,” anh buột miệng.
“Đúng vậy,” cô thừa nhận.
Tóc cô buông dài từ trên như sơn chảy từ trong lọ, với những lọn tóc óng ánh vàng thả khẽ trên vai. Không phải tuýp người anh thích. Anh thích kiểu phụ nữ không quá truyền thống, những người có chút gì đó bí ẩn bên trong, những người mà vẻ quyến rũ không hiển hiện trước mắt. “Anh không uống rượu à?”
Anh nhìn li nước của mình. “Tôi thực sự không muốn.”
“Yêu cầu của vợ anh?”
“Vợ cũ,” anh sửa. “Mà không, là yêu cầu của bác sĩ.”
“Nghĩa là tối qua thực sự quá sức chịu đựng của anh?”
Anh nhún vai. “Tôi ít khi tham dự những buổi tiệc mang tính xã hội kiểu như vậy.”
“Một du khách tình cờ.”
“Tôi phải thừa nhận như vậy. Tôi thấy mấy cuộc xung đột vũ trang còn đỡ làm nản chí hơn.”
Lần này nụ cười của cô chậm rãi và tinh quái hơn. “Vậy anh là William Boot,” cô nói, “Bị vứt vào khu nội chiến của xã hội Riviera.”
“Boot...” Nghĩ về nhân vật viễn tưởng không may trong tiểu thuyết của Waugh, anh bật cười, lần đầu tiên trong ngày. “Tôi nghĩ cô hoàn toàn có thể cho là tôi còn tồi tệ hơn thế.”
Một người phụ nữ bước vào quán, ôm chặt trong lòng chú chó nhỏ mắt tròn xoe như khuy áo. Cô bước qua các dãy bàn với vẻ mệt mỏi, không hề quan tâm tới mọi thứ xung quanh trừ nơi cô định bước tới. Rồi cô ngồi xuống tại cái bàn chỉ cách họ vài bước và họ có thể nghe rõ tiếng thở phào nhẹ nhõm của cô. Cô đặt chú chó nhỏ trên sàn nhà, đuôi của nó kẹp chặt giữa hai chân, run rẩy.
“Bà Stirling -”
“Hãy gọi tôi là Jennifer.”
“Jennifer. Hãy kể cho tôi nghe về cô,” vừa nói anh vừa ngả người một chút về phía trước.
“Anh định kể cho tôi mà. Đúng hơn là thể hiện cho tôi thấy.”
“Thấy gì cơ?”
“Rằng anh không phải là một gã khùng điên. Tôi tin là anh đã tốn nửa tiếng một cách vô ích rồi đấy.”
“Vậy ư. Thế tôi còn bao nhiêu phút nữa?”
Cô nhìn đồng hồ. “Chín phút.”
“Thế từ nãy đến giờ tôi đã thể hiện được thế nào với cô rồi?”
“Anh không thể trông chờ tôi cho qua mọi chuyện nhanh như vậy.”
Họ lặng im. Anh không biết phải nói gì tiếp theo còn cô, có lẽ cô cũng là người rất kiệm lời. Anthony O'Hare nghĩ về người phụ nữ gần đây nhất mà anh kết thân, vợ của nha sĩ của anh. Người phụ nữ với mái tóc đỏ và làn da trong suốt đến độ anh không dám nhìn quá lâu, sợ có thể nhìn thấy hết những gì ẩn sâu trong đó. Từ lâu cô mệt mỏi trước sự thờ ơ lạnh nhạt của chồng. Anthony đã thoáng nghi ngờ rằng sự gật đầu của cô trước những lời tán tỉnh của anh chỉ đơn thuần là trả thù người chồng tệ bạc của cô.
“Hàng ngày cô hay làm gì, Jennifer?”
“Tôi thấy ngại nói ra...”
Anh nhướn mày.
“Tôi làm những việc vô bổ mà tôi sợ rằng khi anh biết sẽ thấy rất nực cười.” Cái cách cô nói ra điều này cho anh thấy thực ra cô chẳng hề ngại ngùng gì cả.
“Cô phải cai quản những hai ngôi nhà.”
“Không. Tôi có người phụ giúp làm theo giờ. Còn ở London, bà giúp việc Cordoza trông coi nhà cửa còn giỏi hơn tôi nhiều.”
“Vậy cô làm gì?”
“Tôi tổ chức các bữa tiệc, lo các bữa ăn tối. Tôi làm sao để mọi vật trong nhà trông đẹp đẽ. Tôi lo việc trang trí.”
“Cô rất giỏi làm việc đó.”
“Ồ, tôi là một chuyên gia. Đó là một kĩ năng đặc biệt, anh biết đấy.”
Anh có thể ngắm nhìn cô cả ngày. Có cái gì đó rất đặc biệt trong cách cô hơi nhếch khóe môi trên tạo thành một vệt mờ nơi làn da mềm mại dưới mũi. Có một từ đặc biệt để miêu tả nét duyên đó mà anh không thể nhớ ra và anh chắc chắn nếu anh được ngắm cô lâu hơn nữa, anh sẽ nhớ ra từ đó.
“Tôi làm những việc mà tôi được dạy dõ là cần phải làm. Tôi cưới một người chồng giàu có và tôi cần phải đem lại hạnh phúc cho anh ấy.”
Nụ cười của cô thoáng chút ngập ngừng. Có lẽ một người đàn ông không có nhiều kinh nghiệm sẽ không nhận ra điều đó, nhưng anh nhận thấy một thoáng lưỡng lự trong ánh mắt cô, một sự hoài nghi nào đó mà nếu chỉ đơn thuần nhìn vào mặt cô thì không thể nhận ra.
“Thực ra tôi cũng định uống giải khuây một chút,” cô nói. “Anh sẽ không lấy làm phiền chứ?”
“Cô hoàn toàn nên uống. Tôi sẽ rất thích thú được chia sẻ điều đó với cô.”
“Cùng chia sẻ,” cô nhắc lại lời anh, vẫy một tay về phía người bồi bàn. Cô gọi một li martini cùng rất nhiều đá. Chỉ là một li rượu gọi là, anh nghĩ thầm, hóa ra không phải là cô muốn uống để quên đi một điều gì đó, để giải sầu. Anh thấy đôi chút thất vọng.
“Nếu cô cảm thấy như thế dễ chịu hơn,” anh nói nhẹ nhàng, “thì tôi lại thấy trong những trường hợp như thế không biết phải làm gì ngoài cắm đầu vào làm việc.”
“Ồ, tôi nghĩ anh nên như thế. Đàn ông thường thấy làm việc dễ dàng hơn là giải quyết những việc khác.”