Đời nhẹ khôn kham - Phần III - Chương 5

9

Suốt hai mươi năm trời anh hình dung hình ảnh mẹ anh – con người yếu đối, đáng thương, cần sự bao che của anh – bên trong vợ anh. Hình ảnh đó ăn sâu trong anh và mới hai ngày làm sao anh gột rửa nó ra khỏi đầu óc anh được. Trên đường về nhà lương tâm anh bắt đầu cắn rứt: anh sợ Marie-Claude quỵ ngã sau khi anh ra khỏi nhà và giờ đây chắc hẳn cô đang sầu khổ ghê gớm lắm. Anh rón rén mở khóa rồi len lén bước vào phòng anh. Anh đứng đó một lúc lâu, nghe ngóng: Vâng, vợ anh có nhà. Sau hồi lưỡng lự anh mở cửa bước vào phòng cô, sẵn sàng chào hỏi như thường lệ.

“Cái gì?” Cô kêu lên, đôi mày cô nhướng lên làm ra vẻ kinh ngạc tột độ. “Anh đấy à? Anh còn ở đây sao?”

“Anh biết về đâu bây giờ?” Anh rất muốn nói với cô như thế (ngạc nhiên thật sự chứ không phải giả vờ), nhưng anh lại hoàn toàn im lặng.

“Chúng ta hãy tính toán mọi việc cho ra lẽ đi chứ? Anh cứ việc dọn về ở với cô ta ngay tức khắc, em không cản đâu.”

Trước khi đi Rome anh thú nhận mọi chuyện với vợ, nhưng anh không suy tính trước việc gì. Anh nghĩ đợi lúc về sẽ nói chuyện với cô trong tinh thần thân thiện để giúp cô tránh mọi đau đớn không cần thiết. Anh không bao giờ tưởng tượng Marie-Claude không những vẫn bình thản như thường mà lại còn lạnh lùng xua đuổi anh ra khỏi nhà.

Điều này giúp anh đỡ bối rối khó xử nhưng không hiểu sao anh cảm thấy thất vọng. Suốt đời anh canh cánh nỗi sợ hãi làm cô đau khổ và cố gắng sống chung thủy với cô. Giờ đây, sau hai mươi năm, anh đột nhiên khám phá điều đó thừa thãi vô ích quá và anh đã bỏ qua hàng chục cơ hội có đàn bà chỉ vì hiểu lầm!

Chiều hôm đó, sau buổi dạy, từ trường ra anh về thẳng nhà Sabina. Anh định sẽ nói với Sabina cho mình ngủ lại đêm. Anh nhấn chuông, nhưng không thấy cửa mở. Anh sang quán cà phê bên kia đường, nhìn chằm chặp vào cửa ra vào khu nhà phố. Đêm xuống, anh không biết về đâu. Cả cuộc đời anh chia sẻ chiếc giường ngủ với Marie-Claude. Nếu anh về nhà với Marie-Claude, anh sẽ ngủ nơi đâu? Dĩ nhiên, anh vẫn có thể ôm gối ra nằm sô pha phòng bên. Nhưng điều đó phải chăng là hành vi lập dị thôi ư? Nó có vẻ bất nghĩa làm sao. Dù sao anh vẫn muốn duy trì tình bạn với cô. Nhưng chui vào giường ngủ chung với cô nhất định không ổn rồi. Cô sẽ mỉa mai nói cạnh nói kháy hỏi tại sao anh chê giường Sabina. Đêm đó anh thuê phòng khách sạn ngủ tạm qua đêm.

Sáng hôm sau anh đến nhấn chuông nhà Sabina lần nữa, rồi buổi trưa, chiều tối.

Hôm sau nữa anh vào hỏi người quản lí, nhưng người này không biết gì và đề nghị anh hỏi thẳng bà chủ khu phố. Anh điện thọai và được biết Sabina đã gửi giấy báo dọn nhà từ hai hôm trước.

Những ngày sau đó anh đều đặn quay lại với hi vọng gặp cô. Một hôm anh thấy cửa mở và có ba người phu khuân vác đang chất đồ đạc, tranh vẽ lên chiếc xe tải nhỏ đậu ngoài đường.

Anh bước lại hỏi họ dọn nhà đi đâu.

Họ trả lời họ được dặn tuyệt đối không tiết lộ cho ai biết địa chỉ nơi dọn tới. Anh định hối lộ vài quan tiền để xin địa chỉ nhưng đột nhiên anh thấy mình không đủ sức mạnh làm việc đó. Nỗi buồn làm anh tan rã. Anh hoang mang không biết chuyện gì xảy ra; điều duy nhất anh nhận biết là anh đã chờ đợi chuyện này từ ngày anh gặp gỡ Sabina. Cái gì phải xảy ra sẽ phải xảy ra thôi. Anh không chống cự làm gì.

Anh thuê một căn phố nhỏ trong vùng gia cư xưa cũ của thành phố. Anh về nhà lúc Marie-Claude và con gái vắng mặt thu nhặt quần áo và ít sách vở cần thiết. Anh thận trọng không lấy theo món gì Marie-Claude cần dùng trong nhà.

Một hôm, anh bắt gặp cô ngồi trong quán cà phê. Cô ngồi với hai người đàn bà khác, mặt cô, khuôn mặt đầy nếp nhăn vì lúc nào cũng làm bộ làm tịch nhăn nhăn nhó nhó, đang tươi tắn linh động lắm. Hai người đàn bà chăm chú nghe cô nói và phá lên cười luôn miệng. Franz không thể không nghĩ cô đang kể cho họ nghe về anh. Chắc chắn cô biết Sabina biến mất khỏi thành phố cùng lúc anh quyết định về chung sống với cô. Quả là chuyện lí thú! Anh không ngạc nhiên chút nào mình trở thành đề tài cho những người bạn vợ lôi ra chế giễu.

Lúc về nhà, căn phố nơi mỗi giờ có tiếng chuông vọng lại từ nhà thờ Saint-Pierre, anh thấy cái bàn giấy anh đặt mua đã về tới. Lập tức anh quên ngay Marie-Claude và những bà bạn của cô. Ngay cả Sabina anh cũng tạm quên trong chốc lát. Anh ngồi vào bàn viết. Anh vui thích đã tự tay chọn cái bàn. Hai mươi năm anh sống với những đồ đạc không phải do tay anh lựa chọn. Marie-Claude lo lắng mọi thứ trong nhà. Cuối cùng anh không còn là cậu bé nữa; lần đầu tiên trong đời, anh tự làm chủ lấy mình. Ngày hôm sau anh thuê thợ mộc đóng cho anh kệ sách. Anh bỏ ra mấy hôm vẽ kiểu kệ và quyết định dựng nó ở chỗ nào trong nhà.

Có lúc anh chợt ngạc nhiên vì nhận ra anh không đến nỗi cực kì buồn thảm. Không có Sabina bằng xương bằng thịt không quan trọng như anh tưởng. Điều quan trọng là dấu chân vàng, dấu chân huyền nhiệm cô để lại trong đời anh và không ai có thể bôi xóa được. Trước khi biến mất tăm khỏi vòm trời của anh, cô nhét vào tay anh cây chổi của Hercules và anh dùng nó quét sạch mọi thứ anh hằng kinh tởm ra khỏi đời sống. Niềm vui sướng đột ngột, cảm giác tìm ra chân hạnh phúc, niềm vui được tự do sống đời sống mới – đây chính là quà tặng cô để lại cho anh.

Thật ra, con người anh luôn ngưỡng vọng những điều không tưởng. Anh hạnh phúc với nữ thần Sabina hơn là Sabina bằng xương bằng thịt kè kè bên anh khắp nơi trên thế giới và mối tình lúc nào anh cũng thắt thỏm lo âu có lúc chắp cánh bỏ anh bay đi, điều đó giống như anh thấy thoải mái với những cuộc biểu tình diễn hành (mà tôi vạch ra cho thấy chỉ toàn đóng kịch và mơ tưởng) hơn là những giảng đường đầy nghẹt sinh viên. Cô đột ngột đem đến cho anh tự do làm chủ lấy mình trong cuộc sống, vì thế cô cũng cho anh luôn cái hào quang quyến rũ đàn bà. Anh trở thành người đàn ông được nhiều đàn bà ưa thích, và một trong những cô sinh viên học trò của anh đem lòng yêu thương anh rất mực.

Thế là chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi cuộc đời anh thay đổi toàn diện. Cách đây không lâu anh sống trong ngôi nhà rộng rãi thuộc giới khá giả trung lưu với đầy tớ, cô con gái và bà vợ; giờ đây anh ngụ trong căn phố nhỏ vùng nhà cửa cũ kĩ, gần như tối nào cũng có cô gái nửa học trò nửa nhân tình đó đến với anh. Anh không phải tháp tùng cô từ khách sạn này sang khách sạn kia; anh có thể làm tình với cô ngay tại nhà anh, trên giường ngủ của anh, bên cạnh đống sách vở và gạt tàn thuốc lá ngổn ngang đầu giường! Cô gái dung dị và không xinh đẹp lắm, nhưng cách cô thán phục Franz giống như Franz mới đây thán phục Sabina. Anh không buồn. Và nếu quả thật anh có cảm giác đánh đổi Sabina với cô gái học trò đeo kính cận là cái gì xuống giá thì bản chất lương hảo sẵn có của anh cũng khiến anh thương cô gái như người cha thương con, vì Marie-Anne luôn luôn cư xử như phó bản của Marie-Claude chứ không phải là con gái anh nên tình phụ tử của anh không có chỗ trút vào.

Một hôm anh đến thăm người vợ cũ. Anh bảo cô chắc anh sẽ tiến thêm bước nữa. Marie-Claude lắc đầu.

“Nhưng li dị rồi cô có khác gì đâu? Cô không mất mát gì cả! Tôi sẽ cho cô hết tài sản của cải.”

“Em không màng đến tài sản của cải.”

“Thế cô màng cái gì?”

“Tình yêu.” Cô nói miệng tủm tỉm cười.

“Tình yêu?” Franz hỏi lại mặt đầy kinh ngạc.

“Tình yêu là bãi chiến trường,” Marie-Claude nói tiếp, miệng vẫn mỉm cười. “Và em sẽ tiếp tục chiến đấu. Cho đến cùng.”

“Tình yêu là bãi chiến trường?” Franz lẩm bẩm. “Nhưng tôi không thấy ham chiến đấu chút nào.” Nói xong anh bỏ ra về.

10

Sau bốn năm sinh sống ở Geneva, Sabina dọn về Paris, nhưng cô vẫn không sao thoát khỏi nỗi buồn chán trong cuộc sống. Nếu có người hỏi cái gì khiến cô như vậy chắc cô sẽ vô cùng khó khăn tìm ra câu trả lời.

Khi diễn tả hoàn cảnh bi thiết trong đời sống, chúng ta thường hay vay mượn ẩn dụ ví von những gì nặng nề. Chúng ta nói đời sống bị những hệ lụy to lớn nhận chìm. Chúng ta hoặc gánh vác cái hệ lụy đó lên vai hoặc thất bại và ngã quỵ, chúng ta vùng vẫy chống trả, có thể thắng nhưng cũng có thể thua. Còn Sabina – cái gì nhận chìm cô xuống? Không gì cả! Cô bỏ người đàn ông ra đi chỉ vì cô thích làm vậy. Người đàn ông có lên án cô không? Anh ta có tìm cách trả thù cô không? Không. Bi kịch của cô không phải là bi kịch về những điều nặng nề mà là bi kịch của những điều vô trọng lượng, những điều nhẹ như tơ. Rơi xuống đời cô không phải là hệ lụy mà là cái khinh phù khôn kham của nhân sinh.

Cho đến thời điểm đó, lòng bội phản khiến tim cô ngập tràn nỗi kích động và niềm vui, bởi nó mở ra những con đường mới dẫn đến những cuộc phiêu lưu bội phản mới. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu cô đặt chân đến cuối chặng đường? Người ta có thể bội phản cha mẹ, chồng con, quê hương, tình yêu mất hết thì còn lại gì cho chúng ta tiếp tục bội phản?

Sabina thấy nỗi hoang vắng ghê gớm tràn ngập chung quanh cô. Phải chăng sự hoang vắng đó chính là mục tiêu những trò bội phản?

Trước đó cô không nhìn ra điều này. Làm sao cô thấy được? Có mục đích nào không bị che đậy đâu? Có thiếu nữ mơ tưởng hôn nhân mơ tưởng điều cô không bao giờ biết đến. Cậu thanh niên khao khát danh vọng nhưng không hề biết danh vọng là gì. Ý nghĩa đằng sau mọi động cơ hướng dẫn chúng ta sống luôn luôn mờ mịt tối tăm. Sabina không trông thấy mục tiêu phía sau lòng mong muốn bội phản. Cái khinh phù khôn kham của nhân sinh – có phải là mục tiêu không? Bỏ Geneva ra đi, cô bị đẩy khá gần đến mục tiêu đó.

Ba năm ở Paris, một hôm cô nhận được lá thư từ Praha. Thư của cậu con trai Tomas. Không hiểu dò la cách nào cậu biết về cô và tìm ra địa chỉ, cậu gọi Sabina là người bạn “chí thân” của cha cậu. Cậu viết về cái chết của Tomas và Tereza. Thời gian mấy năm qua, hai người đưa nhau về quê sinh sống, Tomas làm nghề lái xe tải trong một nông trường tập thể. Thỉnh thoảng họ lái xe sang thị trấn gần làng và ngủ qua đêm trong một khách sạn rẻ tiền. Đường sang thị trấn có đoạn leo đồi quanh co khúc khuỷu, và chiếc xe tải nhỏ lạc tay lái đâm sầm xuống lòng vực sâu. Xác hai người nát nhừ. Sau đó công an điều tra biết tai nạn xảy ra vì thắng xe ở tình trạng hoàn toàn hư hỏng.

Cô bàng hoàng khi nghe tin. Sợi dây nối liền cô về quá khứ bị chặt đứt phăng.

Theo thói quen cũ, cô tìm cách làm dịu xuống bằng cách vào đi bộ trong một khu nghĩa trang. Nghĩa trang Montparnasse gần nhà nhất. Trên mỗi nấm mộ là cái nhà nhỏ xíu, một mái giáo đường thu nhỏ. Sabina không hiểu tại sao người chết muốn có những tòa lâu đài giả tạo xây trên họ. Nghĩa trang là cõi hư vô hóa kiếp trở thành đống đá vụn. Thay vì trở nên có ý nghĩa hơn khi về bên kia thế giới, những cư dân của nghĩa trang trở nên xuẩn ngốc vớ vẩn hơn so với lúc còn sống. Đài kỉ niệm của họ dùng làm nơi phô trương lúc còn sống họ quan trọng tới mức nào. Nơi đây không thấy cha, anh, con, bà được chôn cất, chỉ có những nhân vật của công chúng, những chức sắc tên tuổi, bằng cấp, danh dự; ngay người thư kí bưu điện cũng dương danh nghề nghiệp mình, sự quan trọng trong xã hội – phẩm giá mình.

Đi dọc theo những nấm mộ, cô gặp một đám tang. Người lo việc tống táng tay ôm bó hoa đi phát cho mỗi người một nhánh. Sabina cũng được phát một nhánh hoa. Cô bước theo đám đông. Họ luồn lách xuyên qua nhiều đài kỉ niệm trước khi đến huyệt mộ chưa có tấm bia nặng nề bên trên. Cô nghiêng người nhìn vào huyệt mộ. Đáy huyệt sâu hun hút. Cô ném nhánh hoa xuống. Nhánh hoa chao đi chao lại vài vòng rồi nằm yên trên nắp quan tài người chết. Ở Bohemia huyệt chôn người chết không sâu đến vậy. Ở Paris mộ người chết sâu hơn cũng những các tòa nhà cao tầng hơn. Mắt cô đập vào tấm mộ bia nằm bên cạnh. Cô lạnh run người, và cô vội vã bỏ ra về.

Suốt buổi cô nghĩ ngợi về tấm mộ bia. Tại sao cô khiếp hãi nó đến thế?

Cô tự tìm câu trả lời cho mình: Mộ bia dùng chặn người chết, không cho họ chui ra khỏi mộ.

Nhưng đằng nào người chết cũng không chui ra khỏi mộ! Có gì khác biệt đâu nếu người chết được phủ bằng đất hay đá?

Nó khác nhau ở chỗ nếu dùng tảng đá đậy úp nấm mộ lại, điều đó có nghĩa chúng ta không muốn thấy người chết trở về. Tảng đá nặng nề bảo người chết: “Này, bạn cứ việc ở đấy nhé.”

Sabina chạnh nhớ đến ngôi mộ của cha cô. Mộ ông đắp bằng đất, trên mộ bông hoa nở rạng rỡ lại còn có cây phong từ trên cao rủ xuống. Rễ cây và bông hoa giúp ông biết lối chui ra khỏi mộ. Giá thử mộ ông bị tấm đá to lớn đè chặt, cô sẽ chẳng bao giờ nói chuyện được với ông sau khi ông chết để nghe lời tha thứ ông thốt ra từ đám cây.

Nghĩa trang nơi chôn cất Tereza và Tomas trông ra sao nhỉ?

Một lần nữa cô lan man nghĩ ngợi đến hai người. Thỉnh thoảng họ lái xe sang thị trấn gần làng và ngủ qua đêm trong một khách sạn rẻ tiền. Đoạn viết trong thư làm cô chú ý. Có nghĩa hai người hạnh phúc. Cô lại hình dung ra Tomas như thể anh là một trong những bức tranh của cô: Don Juan ở tiền diện sân khấu, bối cảnh màu mè, và qua kẽ hở – Tristan! Anh chết như Tristan chết chứ không phải như Don Joan. Cha mẹ Sabina chết trong cùng tuần lễ. Tomas và Tereza chết trong cùng khắc giây. Đột nhiên cô nhớ nhưng Franz khôn tả.

Lúc cô kể anh nghe về những lần cô đi dạo trong nghĩa trang, anh rùng mình kinh hãi và gọi nghĩa trang là bãi rác đầy xương xẩu và gạch đá. Hố sâu ngăn cách lập tức mở ra giữa hai người. Mãi đến hôm ở nghĩa trang Montparnasse cô mới hiểu ra ý nghĩa câu nói của Franz. Cô tiếc đã không kiên nhẫn với anh. Có lẽ nếu hai người gần nhau lâu hơn, chắc Sabina sẽ bắt đầu hiểu rõ hơn những từ ngữ hai người sử dụng. Dần dà bộ từ vựng của hai người hòa nhập vào nhau, như những người tình nhút nhát, và âm nhạc người này bắt đầu tương giao âm nhạc người kia. Nhưng giờ đây, mọi việc trễ tràng quá rồi.

Vâng, quá trễ rồi, và Sabina biết cô phải rời bỏ Paris lên đường lần nữa, và cứ thế mãi mãi thôi, bởi, giá như cô chết nơi đây họ sẽ chẹn cô lên phiến đá, và trong đầu óc người đàn bà không nơi chốn nào là nhà thì ý tưởng bỏ cuộc là điều không sao chịu đựng nổi.

11

Bạn bè Franz ai cũng biết về Marie-Claude, về cô gái có cặp kính cận thị to quá khổ. Nhưng không ai biết về Sabina. Franz ngỡ vợ anh nói xấu anh với bạn bè cô. Nhưng không phải. Sabina có nhan sắc, và Marie-Claude chẳng dại gì đem chuyện đó ra kể để thiên hạ có dịp so sánh dung nhan hai người.

Nhưng bởi Franz quá sợ bị khám phá đến độ anh không lấy bất cứ món gì từ Sabina, một bức tranh, kí họa, hay một tấm ảnh của cô anh cũng không có. Kết quả, cô biến khỏi đời anh không một dấu tích để lại. Không có đến mảnh vụn bằng chứng khả tín nào cho thấy anh từng sống những tháng ngày tuyệt diệu nhất của đời anh với cô.

Điều đó chỉ làm tăng thêm lòng chung thủy của anh với cô thôi.

Đôi lúc trong nhà chỉ có hai người, cô gái có lúc rời quyển sách, ngửng đầu lên, ném về phía anh cái nhìn dò hỏi, “Anh đang nghĩ ngợi gì vậy?”

Ngồi trong ghế bành, hai mắt phóng lên trần nhà, Franz luôn luôn tìm câu trả lời làm hài lòng cô gái nhưng thật lòng anh đang nghĩ đến Sabina.

Lần này anh có bài đăng trên tập san nghiên cứu, cô gái là người đọc đầu tiên và cô bàn luận với anh. Nhưng trong đầu anh chỉ quanh quẩn câu hỏi giá Sabina có mặt lúc này cô sẽ nói như thế nào. Mọi việc anh làm, anh làm cho Sabina, cách thức anh làm cũng là cách thứ Sabina mong muốn.

Hình thức thiếu chung thủy hoàn toàn vô tội đó phù hợp con người Franz. Anh chẳng bao giờ muốn làm khổ cô gái. Anh thờ phụng Sabina, xem đó là tôn giáo chứ không phải tình yêu. Đúng thế, theo lí thuyết thần hệ của tôn giáo đó, chính Sabina đã đem cô gái đến cho anh. Vì thế giữa tình yêu trần tục và tình yêu thánh hóa (những lí do có tính thần học) bắt buộc phải chứa đựng liều thuốc cực mạnh những điều không thể lí giải cũng như lí hội (chúng ta chỉ cần nhớ lại quyển từ vựng những từ ngữ bị hiểu sai), tình yêu trần tục lại dựa trên sự thông hiểu nhau thật sự. Cô gái học trò trẻ tuổi hơn Sabina nhiều, khúc nhạc đời sống cô chỉ mới được phác thảo; cô sung sướng đón nhận những mô-típ từ Franz để điền vào khúc nhạc. Cuộc Diễn hành Vĩ đại của Franz cô xem như tín ngưỡng. Âm nhạc giờ đây là bầu rượu cuồng say. Hai người hay rủ nhau đi khiêu vũ. Họ sống trong sự thật, không có gì bí mật. Họ tìm đến bạn bè, đồng nghiệp, sinh viên, người lạ mặt và thích thú ngồi tán gẫu hàng buổi. Họ cũng thường hay đi du ngoạn cảnh vùng Alps. Franz cúi người xuống, cô gái nhẩy lên lưng anh, anh cõng cô chạy băng băng trên cánh đồng, miệng đọc to bài thơ tiếng Đức mẹ anh dạy thuở anh còn bé thơ. Cô gái thích chí cười sằng sặc trong lúc hai tay ôm chặt cổ anh.

Điều duy nhất cô không sao dò tìm được là thiện cảm đến kì lạ anh dành cho những quốc gia bị đế quốc Nga chiếm đóng. Có lần hai người tham dự một buổi lễ tưởng niệm ngày Tiệp Khắc bị xâm chiếm do nhóm di dân Tiệp tổ chức ở Geneva. Phòng họp gần như trống trơn. Diễn giả có mái tóc bạc dợn sóng. Ông ta đọc bài diễn văn dài thậm thượt và ngay những người nhiệt tâm ngồi đó cũng phát chán. Tiếng Pháp ông đúng văn phạm nhưng giọng nói rất khó nghe. Thỉnh thoảng, để nhấn mạnh, ông giơ ngón tay trỏ lên, như thể đang đe dọa đám thính giả ngồi bên dưới.

Cô gái cố lắm mới không ngáp ngắn ngáp dài, trong lúc Franz mặt mày tươi tỉnh và miệng nở nụ cười chân phước. Càng nhìn lâu người đàn ông có mái tóc bạc và ngón tay trỏ dài ngoằng anh lại càng thấy ông là vị sứ giả bí mật, vị thiên thần làm trung gian giữa anh và nữ thần của anh. Anh nhắm mắt lại và để hồn mình bay bổng. Đôi mắt anh nhắm như khi anh ép sát người trên thân thể Sabina trong mười lăm khách sạn ở Âu châu và một ở Mỹ châu.