Đời nhẹ khôn kham - Phần VI - Chương 2

11

Trong thế giới của kitsch toàn trị, tất cả những câu trả lời đều có sẵn và mọi nghi vấn bị cấm đoán. Từ đó, đối thủ thật sự của kitsch toàn trị là kẻ đặt câu hỏi. Câu hỏi như con dao rạch toang bức phông sân khấu và phơi bày cho chúng ta thấy cái gì bí ẩn giấu phía sau. Thật ra, đó chính là điều Sabina giải thích cho Tereza nghe về ý nghĩa những bức tranh của cô: ở bề mặt là sự giả trá rõ ràng; nhưng bên dưới là sự thật ẩn nấp lờ mờ hiện lên.

Nhưng nếu chỉ có vấn nạn và nghi ngờ, những người phải vật lộn với cái chúng ta gọi là chế độ toàn trị sẽ không thể nào sinh họat bình thường. Họ cũng cần sự yên tâm và đôi chút sự thật đơn giản để số đông quần chúng hiểu được họ, mủi lòng vì họ.

Có lần Sabina tổ chức triển lãm tranh dưới sự bảo trợ của một tổ chức chính trị bên Đức. Lúc cầm lên quyển ca-ta-lô, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt cô là bức ảnh của chính cô in chồng lên hình vẽ hàng rào kẽm gai. Bên trong phần tiểu sử nghe như cuộc đời vị thánh hay người tuẫn giáo nào: cô chịu trăm đắng nghìn cay, phải đấu tranh chống lại bạo ngược đãi, phải lìa bỏ quê hương rướm máu ra đi, nhưng vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh. “Những bức tranh của bà là cuộc đấu tranh cho hạnh phúc” là câu kết luận của bài viết.

Cô phản đối nhưng chẳng ai hiểu ý cô muốn gì.

Cô muốn nói về hội họa hiện đại không bị cấm đoán dưới chế độ Cộng sản ư?

“Kẻ thù của tôi là kitsch chứ không phải Chủ nghĩa Cộng sản!” Cô điên tiết trả lời.

Từ lúc đó trở đi, cô bắt đầu nhét vào tiểu sử mình những lời lẽ mập mờ bí ẩn, và khi sang Mỹ cô còn khéo léo che giấu sự kiện cô là người gốc Tiệp. Chẳng qua đó chỉ là cố gắng tuyệt vọng cô ráng vượt thoát khỏi cái kitsch muốn đổ chụp lên cuộc đời cô.

12

Cô đứng trước giá vẽ ngắm nghía bức tranh đang vẽ dở, ông già ngồi trên ghế bành phía sau quan sát từng nét cọ của cô.

“Đã đến giờ về nhà,” cuối cùng ông già cất tiếng sau khi liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay.

Cô đặt bản màu xuống rồi vào phòng tắm rửa ráy. Ông già nhổm dậy với tay lấy cây can của ông dựng cạnh bàn. Cửa ra vào xưởng vẽ đâm thẳng ra sân cỏ. Trời tối dần. Cách đó chừng năm mươi bộ là ngôi nhà gỗ sơn trắng. Đèn trong nhà tầng dưới cháy sáng. Hai ô cửa sổ nơi có ánh đèn phả ra buổi chiều tàn làm Sabina thốt nhiên thấy ấm lòng.

Suốt cuộc đời lúc nào cô cũng tuyên bố kitsch là kẻ thù. Nhưng phải chăng cô vẫn đeo nó kè kè bên mình?

Kitsch của Sabina là hình ảnh ngôi nhà thanh bình, êm ả, đồng điệu, và ngự trị bên trong là bà mẹ yêu thương cùng người cha khôn khéo. Đó là hình ảnh bắt đầu hình thành trong cô sau cái chết của cha mẹ cô. Cuộc đời cô càng ít giống giấc mơ ngọt ngào đó bao nhiêu cô càng trở nên nhạy cảm với sự huyền nhiệm của nó bấy nhiêu, và hơn một lần cô đã rơi nước mắt khi người con gái bội bạc trong cuốn phim tình cảm ôm người cha bị từ bỏ trong lúc cửa sổ ngôi nhà hạnh phúc phả ánh đèn ra buổi chiều tàn.

Cô gặp ông già ở New York. Ông giàu có và yêu thích hội họa. Ông chung sống với bà vợ già trong ngôi nhà ở miền quê. Đối diện ngôi nhà, nhưng vẫn nằm trong phạm vi đất đai của ông là tàu ngựa cũ. Ông cho sửa sang biến tàu ngựa thành xưởng vẽ cho Sabina và ngày ngày ông ra ngồi nhìn cô làm việc trước giá vẽ.

Lúc này ba người đang ngồi dùng cơm tối. Bà vợ ông già gọi Sabina là “cô con gái của tôi”, nhưng mọi bằng chứng cho thấy điều đó hoàn toàn trái ngược, có nghĩa Sabina là bà mẹ mới đúng và hai người con quấn quít bên cô, tôn sùng cô, sẵn sàng làm bất cứ điều gì cô đòi hỏi.

Phải chăng lúc sắp bước qua tuổi xế chiều cô mới tìm ra tình phụ mẫu cô bị giật mất khi còn con gái? Phải chăng cuối cùng cô tìm ra những đứa con chính cô chẳng bao giờ có nổi?

Cô biết rõ đó chỉ là ảo tưởng. Những ngày cô sinh sống với cặp vợ chồng già này chỉ là khoảng thời gian ngắn ngủi. Ông già bệnh tật liên miên, và sau khi ông mất, bà vợ ông sẽ lên Canada sinh sống với anh con trai hai người. Chặng đường bội phản của Sabina lại tiếp tục nơi khác, và từ đáy sâu thẳm của tâm hồn cô, bản nhạc lòng vô vị ngây ngô về hai ô cửa sổ có ánh đèn cháy sáng và mái nhà hạnh phúc kia sẽ thỉnh thoảng dấy lên lướt về cõi nhẹ khôn kham của kiếp nhân sinh.

Mặc dù bị bài hát làm rúng động, Sabina không đặt nặng tình cảm mình vào đó. Cô biết quá rõ bài hát chỉ là sự lừa dối đẹp đẽ. Ngay khi kitsch bị nhận diện là sự lừa dối, nó sẽ đi vào ngữ cảnh trái ngược với kitsch, nơi nó mất hết mọi quyền uy và trở nên mủi lòng mềm yếu như bất cứ nhược điểm nào khác của con người. Bởi không ai trong chúng ta siêu nhân đủ để vượt thoát hoàn toàn khỏi kitsch. Dù chúng ta khinh miệt nó cách mấy chăng nữa kitsch sẽ luôn luôn là phần bất khả phân li của kiếp sống con người.

13

Kitsch xuất phát từ sự đồng thuận tuyệt đối với nhân sinh. Nhưng cơ bản của nhân sinh là gì? Thượng đế? Nhân loại? Đấu tranh? Tình yêu? Đàn ông? Đàn bà?

Vì mỗi ý kiến khác nhau nên có nhiều loại kitsch khác nhau: Công giáo, Tin lành, Do thái, Cộng sản, Phát-xít, Dân chủ, Nữ quyền, Âu châu, Mỹ châu, Quốc gia, Quốc tế.

Từ thời Cách mạng Pháp, phân nửa Âu châu được gọi là tả phái và nửa kia hữu phái. Tuy nhiên chúng ta sẽ không bao giờ định nghĩa được điều gì nếu chỉ đơn thuần dựa trên những nguyên tắc lí thuyết. Và thảo nào: những phong trào chính trị dựa trên những luận điểm hợp lí thì ít mà chỉ thấy toàn những điều hoang tưởng, hình ảnh, chữ nghĩa, khuôn mặt nhào nặn thành cái gọi là kitsch chính trị.

Giấc mơ hoang tưởng về cuộc Diễn hành Vĩ đại Franz bị lôi cuốn cách say đắm vào là cái kitsch chính trị làm thế nào kết hợp được tất cả những thành phần tả khuynh của mọi thời đại và mọi khuynh hướng khác nhau. Cuộc Diễn hành Vĩ đại là cuộc diễn hành hùng tráng trên con đường dẫn đến tình huynh đệ đại đồng, đến công bằng, công lí, và hạnh phúc; nó sẽ đi mãi, đi mãi chẳng bao giờ kết thúc, nó bất chấp mọi trở ngại, vì có trở ngại cuộc diễn hành mới xứng đáng là cuộc Diễn hành Vĩ đại.

Độc tài chuyên chính hay dân chủ? Phủ nhận xã hội tiêu thụ hay yêu cầu gia tăng sản xuất? Hãy đem ra cái máy chém hay xóa bỏ tội tử hình? Tất cả đều nằm ngoài vấn đề. Cái dựng nên người tả khuynh không phải là những lí thuyết này nọ, mà khả năng hắn có thể kết hợp bất cứ lí thuyết nào vào cái kitsch có tên gọi cuộc Diễn hành Vĩ đại.

14

Hiển nhiên Franz không phải là kẻ tôn sùng kitsch. Giấc mơ hoang muội thực hiện cuộc Diễn hành Vĩ đại chiếm ngự đời sống anh na ná bài hát nhạt nhẽo vô vị về hai ô cửa sổ le lói ánh đèn tiềm ẩn tâm khảm Sabina. Franz bỏ phiếu cho đảng phái chính trị nào? Tôi e anh chẳng bao giờ đi bầu; ngày bầu cử anh thà đi leo núi còn hơn. Điều đó dĩ nhiên không ám chỉ cuộc Diễn hành Vĩ đại đã hết sức khích động trong lòng anh. Thật bao giờ cũng đẹp đẽ khi mơ tưởng thấy chúng ta là một phần của đám đông đang cất bước tiến lên đi xuyên qua các thế kỷ, và Franz không bao giờ quên hẳn giấc mơ đó.

Một hôm, có điện thọai từ những người bạn anh ở Paris gọi sang. Họ đang dự định tổ chức một cuộc diễn hành sang Cam Bốt và mời anh tham dự.

Cam Bốt trước đó ít lâu đã trải qua những biến cố kinh khủng, hết bị bọn Mỹ bỏ bom rồi đến nội chiến, một cuộc chém giết lên đến cực độ giữa phe phái Cộng sản nội bộ làm tiêu hao một phần năm dân số quốc gia nhỏ bé đó, rồi cuối cùng còn bị quốc gia láng giềng Việt Nam sang xâm chiếm, Việt Nam lúc đó là nước chư hầu của Nga không hơn không kém. Cam Bốt đang bị nạn đói hoành hành, và dân chúng trong nước khổ sở kêu gào sự trợ giúp y tế từ bên ngoài. Một tổ chức y học quốc tế nhiều lần xin phép vào cứu giúp nhưng Việt Nam nhất định chối từ. Có người đưa ra ý kiến tổ chức một cuộc diễn hành gồm những thành phần trí thức Tây phương tăm tiếng tham dự, đi bộ đến biên giới Cam Bốt và biết đâu nhờ biến cố to lớn diễn ra trước mắt thế giới các bác sĩ ngoại quốc sẽ được phép vào cứu trợ dân trong nước.

Người bạn điện đàm với Franz là người trước đây thường sinh họat chung với anh trong những cuộc diễn hành trên đường phố Paris. Thọat nghe chuyện Franz phấn chấn lắm, nhưng ngay sau đó mắt anh hướng sang chạm cô nhân tình sinh viên đang ngồi trong ghế bành đối diện. Cô đang ngước lên nhìn anh, đôi mắt cô to ra sau gọng kính to tròn. Franz có cảm tưởng đôi mắt đó đang van lơn xin anh đừng đi. Và vì thế anh xin lỗi, không nhận lời người bạn.

Nhưng điện thọai chưa đặt xuống anh đã hối hận về quyết định của mình. Đúng, anh lo lắng chăm nom cô nhân tình trần thế của anh chu đáo lắm, nhưng anh lãng quên tình yêu cao thượng kia mất rồi. Chẳng lẽ Cam Bốt không giống quê hương Sabina sao? Một xứ sở bị lũ quân Cộng sản nước láng giềng sang xâm chiếm! Một xứ sở hứng chịu áp lực bàn tay Nga Sô! Ngay lập tức, Franz có cảm tưởng người bạn từ lâu không gặp kia liên lạc anh vì có mệnh lệnh bí mật từ Sabina truyền xuống.

Thiên thể trên trời biết rõ và nhìn thấy mọi điều mọi vật. Nếu anh tham dự cuộc diễn hành, Sabina sẽ nhìn xuống anh ngây ngất; cô sẽ hiểu anh vẫn luôn gìn giữ lòng chung thủy son sắt với cô.

“Em buồn lắm không nếu anh đi tham dự cuộc diễn hành?” Anh hỏi cô gái, cô đếm mỗi ngày xa anh là mỗi ngày mất mát, nhưng có bao giờ cô từ chối anh được điều gì đâu.

Mấy hôm sau anh có mặt trong chiếc phản lực cơ khổng lồ cất cánh từ Paris chở hai mươi bác sĩ và chừng năm chục trí thức (giáo sư, nhà văn, nhà ngoại giao, ca sĩ, diễn viên, thị trưởng) cùng bốn trăm kí giả và phóng viên nhiếp ảnh, quay phim.

15

Phi cơ hạ cánh xuống Bangkok. Bốn trăm bảy chục nhân vật gồm bác sĩ, trí thức và kí giả ùn ùn kéo nhau vào hội trường một khách sạn quốc tế, nơi đó một số đông bác sĩ, diễn viên, ca sĩ, giáo sư ngôn ngữ học khác đã tụ tập chờ đợi sẵn cùng với vài trăm kí giả báo chí, người nào trên tay cũng lăm le sổ tay, máy ghi âm, máy chụp hình, máy quay phim. Trên bàn chủ tọa, một nhóm chừng hai mươi người Mỹ ngồi sau chiếc bàn dài chủ tọa buổi họp.

Nhóm trí thức Pháp mới bước vào phòng trong đó Franz là một thành viên cảm thấy bị coi thường. Cuộc diễn hành cho Cam Bốt là ý kiến của họ, vậy mà giờ đây bọn Mỹ, nhơn nhơn trâng tráo như bình thường, không những giành chiếm phần chủ động buổi họp mà còn chiếm bằng tiếng Anh nữa, chẳng cần biết lỡ có ông Tây hay ông Đan mạch nào không hiểu họ nói cái giống gì trên đó. Và vì người Đan mạch từ lâu quên béng họ có thành lập một quốc gia riêng nên người Pháp tự xem mình là người Âu châu duy nhất có khả năng lên tiếng phản đối. Nguyên tắc của họ cao đến độ họ không thèm phản đối bằng tiếng Anh mà dùng tiếng mẹ đẻ trình bày ý kiến với nhóm người Mỹ trên bàn chủ tọa. Nhóm người Mỹ, không hiểu một chữ Pháp nào, phản ứng với nụ cười thân thiện tán đồng. Sau cùng, phía người Pháp không còn lựa chọn nào khác hơn đành tóm lược nỗi bất bình của họ bằng câu tiếng Anh: “Tại sao buổi họp sử dụng tiếng Anh trong khi có nhiều người Pháp đang hiện diện?”

Mặc dù ngạc nhiên đến cực độ khi biết lí do nỗi bất bình, phía người Mỹ, miệng vẫn giữ nụ cười, ưng chịu: sẽ dùng cả hai thứ tiếng trong buổi họp. Tuy thế, trước khi tiếp tục, phải tìm một thông dịch viên nào kha khá. Rồi, mỗi câu nói đều phải thông dịch từ tiếng Anh sang tiếng Pháp hoặc ngược lại, vì thế buổi hội thảo phải kéo dài gấp hai thường lệ, hay hơn thế nữa vì phía người Pháp gần như ai cũng biết ít nhiều tiếng Anh và mỗi lần không đồng ý người thông dịch điều gì, họ lại ngắt lời chữa lại, so đo từng chữ một.

Buổi họp lên đến cao điểm khi một nữ diễn viên điện ảnh Mỹ nổi tiếng đứng lên phát biểu. Thấy vậy, đám kí giả chụp hình quay phim lại ùn ùn túa vào hội trường, và mỗi câu mỗi chữ phát ra từ miệng cô đều có tiếng lách cách của máy ảnh kèm theo. Người nữ diễn viên nói về những đứa trẻ tội nghiệp, về sự bạo ngược của chế độ độc tài Cộng sản, về quyền sinh sống của con người trong bảo đảm an ninh, về mối hiểm họa đương thời đang đe dọa những giá trị truyền thống của xã hội văn minh, về quyền tự do bất khả phân li của mỗi cá nhân con người, và về Tổng thống Carter, người vô cùng xúc động về những biến cố xảy ra ở Cam Bốt. Lúc kết thúc bài phát biểu, mặt cô diễn viên giàn giụa nước mắt.

Thế rồi một bác sĩ trẻ người Pháp ria mép hung đỏ nhảy lên la lớn: “Chúng tôi đến đây để cứu giúp những người đang chờ chết chứ không phải để vinh danh Tổng thống Carter! Đừng biến công tác này thành gánh xiếc tuyên truyền cho người Mỹ! Chúng tôi đến đây không phải để phản đối chủ nghĩa Cộng sản! Chúng tôi đến đây để giúp người!”

Tiếp lời anh ta là một vài người Pháp khác lên tiếng tán đồng. Người thông dịch sợ quá không dám dịch lại. Vì thế nhóm người Mỹ trên bàn chủ tọa miệng vẫn nở nụ cười đầy thiện cảm, nhiều người gật gù ra vẻ tán đồng. Một người còn giơ nắm tay vung lên không bởi ông nghe nói bên Âu châu người ta hay giơ nắm tay vung lên không mỗi khi say sưa trong tinh thần đoàn kết.

16

Tại sao trí thức tả khuynh (bởi vị bác sĩ có bộ ria mép hung đỏ là gì nếu không phải một người trí thức tả khuynh) sẵn sàng diễn hành chống lại quyền lợi một quốc gia Cộng sản trong khi chủ nghĩa Cộng sản vẫn luôn luôn được xem là lãnh vực của cánh tả?

Khi tội ác của quốc gia có tên là Liên Xô trở nên quá ghê rợn bỉ ổi, người tả khuynh có hai lựa chọn: một là nhổ lên quãng đời trước của mình và chấm dứt cuộc diễn hành, hai là (với ít nhiều ngượng ngùng) xếp loại Liên Xô vào thành phần vật cản trở và tiếp tục cuộc Diễn hành Vĩ đại.

Như tôi đã nói cái làm nên người tả khuynh là kitsch Diễn hành Vĩ đại. Danh tính của kitsch hiện hữu không nhờ thế lực chính trị nào mà nhờ những ảnh tượng, ẩn dụ, ngôn từ. Vì vậy người ta có thể phá bỏ thói quen cũ và diễn hành ngược lại quyền lợi một quốc gia Cộng sản. Tuy nhiên, dùng từ ngữ này thay thế từ ngữ khác lại là cái gì không thể thực hiện. Người ta có thể vung nắm tay lên đe dọa quân đội Việt Nam, nhưng sẽ chẳng bao giờ mở miệng la lớn “Đả đảo Cộng sản”. “Đả đảo Cộng sản” là khẩu hiệu của kẻ đối địch cuộc Diễn hành Vĩ đại, và bất cứ ai lo ngại bị mất mặt đều phải trung thành với sự trong sạch của cái kitsch riêng mình.

Lí do duy nhất tôi phải biện biệt những điều này là để giải thích sự hiểu lầm giữa vị bác sĩ Pháp và cô minh tinh màn bạc Mỹ. Là người duy ngã, cô tưởng tượng mình là nạn nhân của lòng đố kỵ và tính ghét bỏ đàn bà từ những người chung quanh. Thực ra, vị bác sĩ người Pháp tỏ ra vô cùng nhạy bén: những cụm từ “Tổng thống Carter”, “những giá trị truyền thống”, “chủ nghĩa Cộng sản bạo tàn”, tất cả nằm trong kho từ vựng của kitsch Mỹ, chúng chẳng dính dáng gì đến cuộc Diễn hành Vĩ đại.

17

Sáng hôm sau, mọi người nối đuôi leo lên đoàn xe buýt đi xuyên qua lãnh thổ Thái Lan và ra đến biên thùy Cam Bốt. Tối xuống, họ vào một ngôi làng nhỏ thuê mấy gian nhà sàn tạm trú qua đêm. Con sông chảy qua làng thường gây lụt lội nên dân làng sinh sống bên trên mặt đất, dưới sàn nhà là đàn heo lúc nhúc. Franz ngủ chung với bốn vị giáo sư khác. Từ bên dưới vọng lên là tiếng heo kêu ủn ỉn và ngay bên tai là tiếng ngáy của nhà toán học nổi danh.

Sáng ra, họ lại leo lên xe buýt. Cách biên giới chừng một dặm không ai được phép lái xe nữa. Trục lộ duy nhất dẫn qua biên giới là con đường nhỏ hẹp có lính gác vô cùng nghiêm ngặt. Đoàn xe buýt dừng lại. Nhóm người Pháp trên xe đổ xuống một lần nữa thấy phe mình lại thua phe người Mỹ vì phía người Mỹ đang tụ tập thành nhóm dẫn đầu cuộc diễn hành. Giờ phút quyết liệt đã tới. Người thông dịch được triệu đến và cuộc đấu khẩu lại dai dẳng diễn ra. Sau cùng mọi người ưng thuận điều kiện như sau: đứng đầu cuộc diễn hành là một người Mỹ, một người Pháp và một thông dịch viên Cam Bốt, sau đó là phái đoàn bác sĩ, còn lại bao nhiêu nối đuôi đi theo sau. Cô diễn viên Mỹ đi đoạn hậu.

Con đường chật hẹp và đầy mìn. Chốc chốc lại bị vật cản – hai khối xi măng quấn dây thép gai – chận đường và khoảng cách chỉ vừa đủ một người qua lọt.

Đi trước Franz chừng mười lăm bộ là thi sĩ kiêm ca sĩ nhạc thời trang người Đức nổi tiếng. Anh ta sáng tác cả thảy chín trăm ba mươi bài hát cho hòa bình và chống chiến tranh. Anh ta vác theo một cây cờ trắng. Lá cờ làm nổi bật hàm râu đen của anh ta và cũng khiến anh ta nổi bật giữa đám đông.

Chạy tới chạy lui dọc theo hai bên đoàn diễn hành là đám phóng viên nhiếp ảnh và quay phim luôn tay bấm máy hoặc quay phim rào rào, lúc chạy tuốt lên phía trước, lúc thụt ra đằng sau, lúc ngừng lại quỳ gối rồi đứng bật dậy chạy lên thật xa. Thỉnh thoảng họ gọi tên đôi ba nhân vật danh tiếng, người đó làm như vô ý thức ngoảnh lại vừa đủ thời gian chụp một pô hình.

18

Bỗng có chuyện chi đó xảy ra. Mọi người đi chậm lại và ngoảnh nhìn về phía sau.

Người nữ diễn viên Mỹ, người bị xếp vào đuôi đám đông không chịu nổi nhục nhã nữa và cô quyết định xoay ngược thế cờ. Cô phóng chân chạy lên phía trước đoàn người như một lực sĩ điền kinh chạy vòng đua năm ki-lô mét nãy giờ giữ sức bằng cách đeo ba lô sau lưng và bây giờ đột nhiên bật lên phóng về phía trước vượt qua từng đối thủ một.

Đám đàn ông né sang tránh chỗ cho cô vượt qua, miệng cười gượng gạo như thể không nỡ phá cơ hội chiến thắng của nhà chạy bộ danh tiếng, nhưng đám đàn bà không thế, họ hét lớn: “Đi vào chỗ! Đây không phải là nơi diễn hành của minh tinh màn bạc!”

Không nao núng, cô diễn viên tiếp tục lấn về phía trước kéo theo sau cái đuôi gồm năm phóng viên nhiếp ảnh và hai tay quay phim.

Đột nhiên một người đàn bà Pháp, một nữ giáo sư ngôn ngữ học thò tay ra nắm chặt cổ tay cô diễn viên và nói lớn (bằng tiếng Anh rất khó nghe): “Đây là cuộc diễn hành của bác sĩ đến đây cứu trợ dân Cam Bốt đang bệnh họan chết chóc chứ không phải là nơi các minh tinh điện ảnh biểu diễn trò thu hút đám đông, nghe chưa!”

Cổ tay cô diễn viên bị nắm cứng trong tay vị nữ giáo sư ngôn ngữ học; cô không tài nào giật ra. “Bà làm cái giống gì vậy?” Cô nói (bằng tiếng Anh toàn hảo.) “Tôi nói cho bà biết, tôi từng đi diễn hành như vầy cả trăm lần! Không có minh tinh hả, mấy người chẳng làm nên trò trống gì đâu! Đây là công việc của chúng tôi! Trách nhiệm lương tâm của chúng tôi!”

“Merde!” vị nữ giáo sư ngôn ngữ học nói (bằng tiếng Pháp toàn hảo.)

Cô diễn viên Mỹ hiểu câu chửi thề và nước mắt cô đột nhiên tuôn trào. “Xin đừng di động!” Một phóng viên nhiếp ảnh la lên, anh ta quỳ dưới chân người nữ diễn viên. Cô nhìn thật lâu vào ống kính máy quay, hai hàng nước mắt chảy dài hai bên má.