Đời nhẹ khôn kham - Phần VII - Chương 2

3

Karenin đẻ ra hai ổ bánh mì và một con ong. Nó trân trối nhìn tác phẩm của mình. Hai ổ bánh mì nằm bất động, nhưng con ong loạng chọang như bị ăn thuốc rồi cất cánh bay đi.

Đó là chuyện xảy ra trong giấc mơ của Tereza. Cô kể cho Tomas nghe khi anh thức giấc, và qua giấc mơ hai người tìm ra ít nhiều an ủi. Nhờ giấc mơ Karenin đang từ có bệnh biến thành có chửa, cảnh tượng nó đẻ ra một lúc hai ổ bánh mì và một con ong nghe vừa khôi hài vừa cảm động.

Một lần nữa cô bị những hi vọng phi lí đánh lừa. Cô ngồi dậy đoạn đi mặc áo quần. Ở đây cũng như trên thành phố lúc trước, ngày của cô bắt đầu bằng việc đi mua sữa và bánh mì. Nhưng buổi sáng hôm đó khi cô cất tiếng gọi Karenin, nó chỉ hơi nhích đầu lên một chút rồi thôi. Đó là lần đầu tiên nó từ chối tham dự cái nghi lễ trước đây chính nó ép buộc hai người chủ của nó phải theo.

Cô đi chợ một mình. “Karenin đâu rồi?” Bà bán hàng đứng sau quầy hỏi, như thường lệ bà ta cầm sẵn trên tay ổ bánh cho Karenin. Tereza bỏ bánh vào giỏ đem về. Đứng trước cửa nhà cô chìa miếng bánh cho con chó trông thấy. Cô muốn nó đến ngoạm miếng bánh trên tay cô. Nhưng nó nằm lì bất động.

Tomas thấy Tereza buồn rười rượi. Anh ngậm ổ bánh trong miệng rồi quỳ xuống bò từ từ đến gần cho chó.

Karenin theo dõi anh, ánh mắt nó dường như hơi nhen nhúm chút thú vị, nhưng nó vẫn không chịu đứng lên. Tomas ghé mặt sát mõm nó. Thân mình vẫn không di động, nó há mõm ngoạm đầu ổ bánh ló ra từ miệng Tomas. Đoạn Tomas nhả ổ bánh ra để nó có thể ăn hết.

Vẫn bò dưới đất, Tomas lùi lại một chút, anh cong lưng lên và phát tiếng sủa ăng ẳng, như thể anh muốn đánh nhau với nó để giành lại ổ bánh. Ít phút sau, nó sủa lại đôi ba tiếng. Mãi rồi cũng được! Chỉ chờ nhiêu đó thôi! Karenin muốn đùa giỡn lại rồi! Karenin vẫn còn ham sống!

Tiếng sủa ăng ẳng của Karenin là tiếng cười của nó và hai người mong tiếng cười đó kéo dài thật lâu, càng lâu càng tốt. Tomas lại bò đến gần con chó, anh lấy miệng ngoạm đứt ổ bánh trong mõm nó. Mặt anh sát mặt nó đến nỗi anh ngửi thấy mùi hơi thở chó trong miệng nó, những sợi lông dài trên mõm nó làm anh nhồn nhột. Con chó lại kêu lên tiếng ăng ẳng rồi nó há mõm giật mạnh miếng bánh; thế là người và chó mỗi bên cướp được nửa miếng bánh ngậm giữa hai hàm răng. Nhưng Karenin bị một sai lầm chiến thuật hết sức cũ kĩ: nó nhả nửa phần bánh trong miệng nó ra với hi vọng được hưởng luôn nửa phần kia trong miệng chủ nó. Nó quên chủ nó không phải là chó mà là người có hai bàn tay. Anh đứng dậy nhặt lên nửa miếng bánh dưới sàn nhà, miệng vẫn ngậm nửa kia.

“Tomas!” Tereza kêu lên, “Bộ anh tính giật hết ổ bánh của nó đấy sao?”

Tomas đặt hai nửa miếng bánh dưới sàn nhà ngay trước mặt con Karenin. Nó nuốt trọn miếng thứ nhất nhưng miếng thứ hai nó cố ý ngậm trong miệng thật lâu như muốn khoe khoang thành tích chiến thắng của mình.

Đứng nhìn con chó, một lần nữa hai người có ý nghĩ nó đang cười và còn cười được là còn động lực sống dù không tránh nổi bản án tử hình.

Hôm sau nó có vẻ khá ra thật. Hai người ăn trưa. Thường đó là lúc hai người dẫn nó ra ngoài đi dạo. Thói quen của nó là chạy nhắng lên từ người này sang người kia. Hôm đó, Tereza cầm dây tròng cổ lại nhưng chỉ thấy nó nhìn với đôi mắt rầu rầu. Hai người cố làm ra vẻ vui tươi phấn chấn để thúc đẩy nó thêm phần hăng hái. Một lúc lâu thấy thương hại hai người chủ nó bèn lảo đảo ba chân khập khiễng đứng dậy cho Tereza tròng sợi dây vào cổ.

“Tereza, anh biết em ghét chụp ảnh, nhưng hôm nay em đem máy theo nhé.” Tomas bảo cô.

Tereza mở rương lục lạo đám vật dụng cũ tìm chiếc máy ảnh từ lâu bị bỏ quên. “Mai này có ngày mình sẽ vui sướng nhờ những bức ảnh này,” Tomas tiếp tục nói. “Karenin đã từng chiếm một phần quan trọng trong đời sống vợ chồng mình.”

“Anh nói ‘đã từng’ là nghĩa gì cơ chứ?” Tereza nói như thể cô bị rắn cắn.

Chiếc máy ảnh nằm ngay trước mắt cô dưới đáy rương nhưng cô không thiết cúi xuống cầm lên nữa. “Em không muốn chụp ảnh. Em không chấp nhận chuyện sẽ phải làm mất Karenin. Trong khi đó anh gọi nó bằng thì quá khứ!”

“Anh xin lỗi em.”

“Không sao.” Tereza dịu giọng. “Em cũng tự nhận ra em cũng gọi nó bằng thì quá khứ. Em cố bôi xóa điều đó ra khỏi trí óc em. Đó là lí do tại sao em không muốn cầm theo máy chụp ảnh.”

Họ đi bên nhau trong im lặng. Im lặng là cách duy nhất không nghĩ đến Karenin bằng thì quá khứ. Họ luôn mắt canh chừng nó, chờ đợi nó nở nụ cười. Nhưng nó không cười, nó chỉ khập khiễng ba chân cố lóp ngóp đi theo hai người chủ.

“Nó vì chúng mình đấy.” Tereza bảo. “Nó đâu muốn đi, nó đi là vì muốn làm mình vui lòng.”

Điều cô nói buồn bã lắm, nhưng dù không nhận ra, hai người quả có vui sướng. Họ vui sướng không phải vì bất chấp mà vì nhờ có nỗi buồn. Họ nắm tay nhau và trong ý nghĩ hai người hiện lên cùng hình ảnh: con chó đi khập khiễng, con chó tượng trưng cho mười năm trời của cuộc sống chung.

Họ đi thêm đoạn nữa. Bỗng Karenin ngừng lại rồi quay đuôi bỏ về trước sự thất vọng lớn của hai người. Họ đành theo nó trở về.

Có lẽ ngày hôm đó hay có thể ngày hôm sau, Tomas ngồi trong nhà đang đọc một lá thư thì Tereza mở cửa bước vào. Nghe tiếng cửa mở, anh nhét lá thư vào đống giấy tờ, nhưng cô trông thấy anh làm cử chỉ đó. Lúc bước ra, cô còn thấy anh nhét lá thư vào túi. Nhưng anh quên cái phong bì. Ngay lúc anh vừa ra khỏi nhà, cô lấy phong bì lá thư ra quan sát kĩ lưỡng. Tuồng chữ ghi địa chỉ cô thấy không quen thuộc nhưng nét chữ nắn nót và cô đoán phải là nét chữ đàn bà.

Khi anh về, cô thờ ơ hỏi anh hôm nay có thư chưa.

“Chưa.” Tomas trả lời. Câu trả lời của Tomas làm Tereza thấy đầy ứ nỗi chán chường tuyệt vọng, nỗi chán chường càng ghê gớm vì cô vẫn không tài nào chấp nhận nó cách dễ dàng. Không, cô không tin anh có nhân tình bí mật nào trong làng. Điều đó không thể xảy ra. Mỗi giây phút rảnh rỗi của anh cô đều hay biết anh làm gì. Chắc anh vẫn giữ liên lạc với người đàn bà nào trên Praha, người anh không xóa bỏ hình bóng được dù cô ta không để lại mùi háng trên tóc tai anh nữa. Tereza không nghĩ Tomas muốn bỏ cô chạy theo người đàn bà đó, nhưng hai năm trời hạnh phúc ở đồng quê giờ đây đột nhiên bị câu nói dối làm lu mờ ảm đạm.

Ý tưởng cũ lại hiện về trí óc cô: Ngôi nhà của cô là Karenin chứ không phải Tomas. Ai sẽ là người lên dây cái đồng hồ đo ngày tháng của hai người sau khi Karenin ra đi?

Đưa trí óc trôi về tương lai, tương lai không có Karenin, Tereza cảm thấy như bị bỏ rơi.

Karenin nằm rên gầm gừ trong xó nhà. Tereza bỏ ra vườn. Cô nhìn đám cỏ giữa hai cây táo và tưởng tượng sẽ chôn Karenin ở đó. Cô ấn gót chân xuống đất và vạch thành hình chữ nhật trên cỏ. Đó sẽ là mồ chôn Karenin.

“Em làm gì vậy?” Tomas hỏi cô, anh làm cô giật mình như trước đó ít giờ cô làm anh giật mình.

Cô không trả lời. Anh để ý thấy lần đầu tiên trong nhiều tháng trời tay cô run lẩy bẩy. Anh đưa tay nắm tay cô nhưng cô giật lại.

“Có phải đó là mồ chôn Karenin?”

Cô vẫn không thèm trả lời anh.

Sự im lặng làm anh bốc cơn giận dữ. Anh nổ bùng. “Em lên án anh nghĩ đến nó bằng thì quá khứ, còn em, em đang làm cái gì ở đây? Em thu xếp việc ma chay cho nó!”

Cô quay lưng lại anh.

Tomas bỏ vào phòng riêng đóng sầm cánh cửa.

Tereza theo vào mở cửa ra. “Thay vì lúc nào cũng nghĩ đến mình, anh thử ít nhất tôn trọng nó một chút xem sao.” Cô bảo anh. “Nó đang ngủ, anh vừa đánh thức nó dậy. Bây giờ nó lại bắt đầu rên rỉ nữa kìa.”

Cô biết cô không phải với anh (con chó đâu có ngủ); cô biết cô đang diễn những hành vi đàn bà tầm thường nhất, hạng đàn bà gây đau đớn và biết cách gây đau đớn cho người khác.

Tomas rón rén bước vào phòng nơi Karenin đang nằm, nhưng Tereza không cho anh yên một mình với con chó. Cả hai ngồi phủ phục lên nó, mỗi người một bên. Hành động này không ám chỉ sự làm lành hòa hoãn. Ngược lại là đằng khác. Mỗi người một thế giới riêng. Tereza với con chó của cô. Tomas với con của anh.

4

Tại sao từ ngữ “điền viên tĩnh mặc” lại quan trọng như vậy với Tereza?

Giống như chúng ta trưởng thành với những huyền thọai từ quyển kinh Cựu Ước, có thể nói điền viên tĩnh mặc là hình ảnh rơi rớt trong chúng ta như kí ức về Thiên đàng: sống trên Thiên đàng không có nghĩa là chạy theo đường thẳng đi về nơi vô định; cuộc sống không phải cuộc mạo hiểm. Nó di động theo đường tròn quanh những món vật quen thuộc. Đơn điệu nảy sinh hạnh phúc, không phải nỗi buồn tẻ chán chường.

Khi còn sinh sống nơi đồng quê, với thiên nhiên, chung quanh là gà vịt trâu bò, giữa những mùa màng đều đặn đến rồi đi, con người còn ghi nhận trong lòng hình ảnh lờ mờ cảnh điền viên tĩnh mặc nơi Thiên đàng. Đó là lí do tại sao khi gặp người chủ nhiệm hợp tác xã tại thành phố khoáng tuyền, trong đầu Tereza vẽ nên hình ảnh miền quê (miền quê cô chưa bao giờ sinh sống hoặc hiểu biết) mà cô thấy êm đẹp quyến rũ vô cùng.

Adam, đứng nhìn xuống lòng giếng, không nhận ra hình bóng dưới giếng chính là mình. Adam chẳng bao giờ hiểu nổi Tereza khi cô còn là cô bé gái đứng trước gương và cố thấu thị tâm hồn mình qua thân xác. Adam giống Karenin. Tereza đặt ra trò chơi bắt Karenin nhìn nó trong gương, nhưng nó chẳng bao giờ nhận ra hình ảnh chính nó mà chỉ nhìn vô hồn với vẻ thản nhiên ngoài tưởng tượng.

So sánh Adam với Karenin khiến tôi liên tưởng đến ý nghĩ trên Thiên đàng con người chưa hẳn là con người. Hay nói chính xác hơn, khi con người chưa bị đuổi đi. Giờ đây chúng ta là những kẻ bị đuổi ra khỏi Thiên đàng từ lâu lắm rồi, và đang bay giữa khoảng trống thời gian theo đường bay thẳng tắp. Tuy vậy đâu đó mãi sâu bên dưới, sợi chỉ mong manh vẫn thắt buộc chúng ta với cõi Thiên đàng tít tắp mù khơi kia, nơi Adam đứng soi hình bóng mình dưới lòng giếng và, không giống Narcissus, ông chẳng bao giờ nghi hoặc cái bóng vàng chạch nhờ nhờ dưới kia lại chính là mình. Con người khao khát Thiên đàng tức là khao khát không còn là con người nữa.

Khi còn nhỏ, mỗi lần bắt gặp băng vệ sinh mẹ cô dùng xong vứt bừa bãi, cô cảm thấy gớm ghiếc ghê tởm, cô ghét mẹ không biết xấu hổ không chịu ném những vật ghê tởm đó đi. Nhưng Karenin, một con chó cái, cũng có chu kì kinh nguyệt của nó. Mỗi sáu tháng nó bị một lần và mỗi lần kéo dài cả hai tuần lễ. Để ngăn ngừa nó làm dơ nhà, Tereza nhét nùi bông giòn giữa hai chân sau nó rồi tròng chiếc quần lót cũ giữ cho bông gòn khỏi rớt, xong cô còn khéo léo thắt chiếc nơ bó chặt những thứ lùng nhùng đó vào thân mình nó. Suốt hai tuần lễ cô cười ngất mỗi lần nhìn con chó.

Tại sao kinh nguyệt của con chó cô thấy thích chí buồn cười còn kinh nguyệt của chính mình cô thấy buồn nôn buồn mửa? Tôi thấy câu trả lời giản dị lắm: chó không bao giờ bị đuổi khỏi Thiên đàng. Karenin không hay biết gì về tính lưỡng đối giữa tâm hồn và thể xác, nó cũng chẳng có khái niệm gì về sự ghê tởm. Đó là lí do tại sao Tereza thấy tự do và dễ dàng với con chó. (Và đó cũng là lí do tại sao thật nguy hiểm nếu chúng ta biến con vật thành một machinae animatae, biến con bò cái thành cái máy sản xuất sữa. Làm thế, con người cắt đứt sợi chỉ ràng buộc con người với Thiên đàng và sẽ chẳng còn gì cho con người nắm giữ hay an ủi trong chuyến không trình bay xuyên qua khoảng trống thời gian nữa.)

Từ những ý tưởng lộn xộn này nảy sinh một ý tưởng táo bạo mà Tereza không tài nào trấn át nổi: tình thương thắt buộc cô và Karenin còn tốt đẹp hơn tình thương giữa cô và Tomas. Tốt đẹp hơn chứ không to lớn hơn. Tereza không muốn trách cứ Tomas hay chính mình; cô không đòi hỏi hai người phải yêu thương nhau nhiều hơn. Đặt bên cạnh bản chất liên hệ vợ chồng, cô có cảm giác tình thương giữa đàn ông đàn bà là cái gì thấp kém hơn cả tình thương (ít nhất ở những cảnh huống tốt đẹp nhất) giữa người và chó. Sự bất thường trong lịch sử con người đó, theo cô, có lẽ là do Ông Tạo không tính trước.

Tình thương đó hoàn toàn không vị kỷ: Tereza không hề mong muốn điều gì từ Karenin; cô chẳng bao giờ yêu cầu nó phải yêu thương cô lại. Cô cũng tuyệt nhiên không thắc mắc nêu câu hỏi thường xuyên giằn vặt quấy nhiễu những cặp vợ chồng người: Chàng có yêu thương mình không? Chàng có yêu thương ai hơn mình không? Chàng có yêu thương mình hơn mình yêu thương chàng không? Có lẽ tất cả những câu hỏi chúng ta đặt ra để đo lường, thử thách, trắc nghiệm, cứu vãn tình yêu đều tạo ảnh hưởng phụ lực chặt đứt nó mau lẹ hơn. Có lẽ lí do chúng ta không yêu thương được ai là vì chúng ta khao khát được yêu thương, điều đó có nghĩa chúng ta đòi hỏi cái gì đó (tình yêu) từ người bạn đời thay vì dâng hiến chính mình cho người kia mà không kèm theo yêu cầu nào ngoại trừ sự có mặt của người đó.

Và còn điều nữa, Tereza chấp nhận Karenin; cô không ép buộc nó phải ghi khắc hình ảnh cô. Cô đồng ý ngay từ lúc khởi điểm cuộc đời nó là một con chó, cô không ép buộc nó phải bước ra cuộc đời đó, cô không ganh tị với những bí mật cuộc đời nó. Lí do cô huấn luyện nó không phải vì cô muốn thay đổi nó (như vợ chồng tìm cách cải đổi nhau), mà chỉ vì cô muốn dạy nó một thứ ngôn ngữ sơ đẳng để nó hiểu cô, và từ đó có thể chung sống với nhau dễ dàng hơn.

Rồi còn nữa: Không ai ép buộc cô phải thương Karenin; thương chó là cái gì tự nguyện. (Một lần nữa Tereza lại nhớ đến bà mẹ và cô ân hận về những chuyện xảy ra trước đây giữa mẹ con. Giá mẹ cô là một trong những người đàn bà vô danh trong làng, chắc cô sẽ thấy thái độ thô lậu luông tuồng của bà chẳng có gì khó ưa. Ôi, phải chi mẹ cô là người lạ! Từ thuở bé Tereza đã thấy xấu hổ vì diện mạo mình giống mẹ và cách mẹ cô tước đoạt “cái tôi” từ cô như thế nào. Tệ hại hơn là cái mệnh lệnh xưa cũ muôn đời “Hãy yêu mẹ kính cha” ép buộc cô phải đồng ý cho kẻ xâm lăng chiếm đoạt, phải gọi sự thô bạo là tình thương! Không phải vì mẹ cô có lỗi cô từ bỏ ra đi. Tereza từ bỏ mẹ không phải vì bà là bà mẹ tệ lậu không ra gì mà chỉ vì bà là mẹ cô.)

Nhưng trên hết: Không ai có quyền cho kẻ khác quà tặng được hưởng thú yên bình tĩnh lặng; chỉ loài vật làm được điều đó, bởi loài vật không bị đuổi ra khỏi Thiên đàng. Tình thương giữa người và chó là cái gì tĩnh lặng dịu êm. Không có những va chạm đối nghịch, không có những cảnh tượng khiếp vía kinh hồn, không có những biến chuyển đổi thay. Karenin vây quanh Tereza và Tomas với cuộc sống dựa trên sự lặp lại, và nó chờ đợi hai người cũng làm như thế với nó.

Giả sử Karenin là người thay vì chó, chắc chắn từ lâu nó đã bảo Tereza, “Này, tôi chán vô cùng mỗi ngày phải ngoạm đem về ổ bánh trong miệng. Bà không biết cho tôi cái gì khác hơn sao?” Và nằm trong đó là toàn thể tình huống con người. Thời gian của con người không đi theo đường tròn; nó chạy về phía trước theo đường thẳng. Đó là lí do tại sao con người không thể có hạnh phúc: hạnh phúc là khao khát sự lặp lại.

Vâng, hạnh phúc là khao khát sự lặp lại, Tereza nhủ thầm.

Lần nào cũng thế, lúc dẫn con heo Mefisto ra ngoài đi dạo và gặp Tereza, ông chủ nhiệm hợp tác xã đều nói câu, “Tereza, tại sao phải đợi đến cuối đời tôi mới có nó vậy? Nó và tôi, chúng tôi mà đi tán đàn bà thì phải biết! Đàn bà nào chịu thấu hai con heo nhỏ này?” Lúc đó con heo được dạy phải kêu ủn ỉn và hục hặc cái đầu. Mỗi lần như vậy Tereza cười ngất, mặc dù cô biết trước từng chữ từng câu ông ta sẽ nói. Câu nói bông đùa không hề mất vẻ duyên dáng mặc dù ông lặp đi lặp lại nhiều lần. Ngược lại là đằng khác. Giữa khung cảnh điền viên tĩnh mặc lí tưởng, ngay cả sự bônng đùa cũng bị định luật ngọt ngào của sự lặp lại chi phối.

5

So với người, chó không được hưởng bao nhiêu ưu thế, nhưng một ưu thế tối quan trọng chó hơn người là: không luật pháp nào ngăn cấm chó được chết cách nhẹ nhàng không đau đớn; loài vật có quyền chết cái chết khoan dung, thanh thản. Karenin còn ba chân để đi và càng ngày nó càng nằm bệt nhiều hơn trong xó nhà. Và gầm gừ rên rỉ. Cả hai vợ chồng đều đồng ý không việc gì bắt nó phải chịu đau đớn không cần thiết như thế. Nhưng hai người chỉ đồng ý trên nguyên tắc, họ phải đối đầu mối lo làm thế nào định được thời điểm sự chịu đựng thật sự không cần thiết nữa, thời điểm cuộc sống không còn đáng sống.

Phải chi Tomas không phải là bác sĩ! Nếu vậy họ có thể trốn núp sau nhân vật thứ ba. Họ chỉ việc đem nó trở lại vị bác sĩ thú y và nhờ ông tiêm cho nó một ống thuốc ngủ là xong.

Đảm nhiệm vai trò tử thần là cái gì hết sức kinh khiếp. Tomas nhất định không chịu cầm ống tiêm; anh bảo để người bác sĩ thú y sang làm công việc đó. Nhưng rồi anh nhận ra chính anh là người có thể ban bố cho Karenin cái đặc ơn loài người bị cấm đoán: Cái chết đến với nó qua lốt vỏ những người yêu thương nó.

Suốt đêm Karenin rên rỉ. Sáng ra, sau khi xem xét chân con vật, Tomas bảo Tereza, “Phải làm ngay thôi, chờ đợi chỉ chuốc thêm khổ cho nó.”

Ít phút nữa họ phải ra đồng. Tereza vào thăm Karenin. Cho đến lúc đó, nó vẫn nằm yên trong xó nhà tuyệt nhiên không buồn động đậy (ngay cả khi Tomas vào xoa nắn chân nó, nó cũng không cất đầu lên nhìn anh), nhưng nghe tiếng cửa mở và thấy Tereza đi vào, nó ngước đầu dậy giương mắt nhìn cô.

Cái nhìn của Karenin làm cô xốn xang không chịu nổi, nó làm cô gần như hãi sợ. Nó chẳng hề nhìn Tomas như thế, chỉ với cô thôi. Nhưng chưa bao giờ mãnh liệt như vầy. Không phải là cái nhìn tuyệt vọng, ngay cả buồn bã cũng không. Không, đó là cái nhìn hàm chứa niềm tin khôn kham đáng sợ. Cái nhìn là câu hỏi nôn nao. Suốt đời Karenin chờ đợi câu trả lời từ Tereza, và nó đang cho cô hay biết (với sự khẩn cấp hơn bình thường) là nó vẫn đang sẵn sàng học thêm chân lí từ cô. (Với nó tất cả những gì từ Tereza đều là chân lí. Ngay cả những câu ra lệnh như “Ngồi!” hay “Nằm xuống” nó đều xem là chân lí đem ý nghĩa lại cho cuộc đời nó.)

Cái nhìn với niềm tin đáng sợ đó kéo dài không lâu; chỉ trong thoáng chốc nó lại gục đầu xuống hai bàn chân trước. Tereza biết chẳng bao giờ còn ai nhìn cô với ánh mắt đó nữa.

Hai người không bao giờ cho nó ăn đồ ngọt, nhưng gần đây cô mua cho nó ít kẹo sô cô la. Cô bóc bao giấy nhôm, bẻ vụn thỏi kẹo thành nhiều mảnh nhỏ rồi rải thành vòng tròn chung quanh nó. Đoạn cô đem đến tô nước lạnh để cho nó có mọi thứ ăn uống trong thời gian mấy tiếng ở nhà một mình. Cái nhìn nó nhìn cô mới đây dường như làm nó thấm mệt. Mặc dù chung quanh đầy kẹo sô cô la, nó vẫn không ngẩng đầu lên.

Cô nằm dài dưới sàn nhà bên cạnh con chó rồi quàng tay ôm nó. Với đầy khó nhọc nó chậm chạp xoay đầu lại đánh hơi rồi thè lưỡi liếm mặt cô hai ba cái. Cô nhắm chặt hai mắt trong lúc nó liếm cô như thể cô muốn ghi nhớ cảm giác đó mãi. Đoạn cô đưa má bên kia cho nó liếm.

Sau đó cô phải đi chăn đàn bò. Cô về nhà trước giờ ăn trưa. Tomas chưa về. Karenin vẫn nằm dưới sàn nhà, chung quanh sô cô la còn nguyên, nó không buồn ngẩng đầu khi nghe tiếng cô bước vào nhà. Cái chân đau của nó bây giờ sưng vù lên, và vết ung nhọt lan rộng hơn. Cô để ý thấy dưới lớp lông của nó lấm tấm mụn ửng đỏ (nhưng không giống màu máu.)

Một lần nữa cô nằm dài bên cạnh con chó. Cô quàng tay ôm thân hình nó rồi nhắm mắt lại. Đột nhiên cô nghe tiếng đập cửa. “Bác sĩ! Bác sĩ! Con heo đến rồi. Con heo và chủ nó!” Cô không còn hơi sức đâu để nói chuyện với bất cứ ai trong lúc này, cô nằm yên, mắt vẫn nhắm nghiền. “Bác sĩ! Bác sĩ! Mấy con heo đến rồi.” Và sau đó là im lặng.

Mãi nửa giờ sau Tomas mới có mặt ở nhà. Anh đi thẳng vào nhà bếp, không nói không rằng chuẩn bị kim chích. Lúc anh bước vào phòng nơi Karenin nằm, Tereza đã đứng lên và con chó đang cố chõi dậy. Khi thấy Tomas, nó vẫy đuôi yếu ớt.

“Anh xem này,” Tereza bảo, “nó đang cười.”

Cô nói giọng khẩn khoản, như cố trì hoãn việc đã rồi, nhưng không có gì quyết liệt lắm.

Cô chậm rãi trải tấm vải trên mặt ghế dài. Tấm vải màu trắng điểm những bông tím tí hon. Cô đã suy nghĩ và sắp đặt cẩn thận mọi thứ, tưởng tượng ra cái chết của Karenin từ nhiều ngày trước. (Ôi, quả kinh hãi khi ta thật sự tưởng tượng trước cái chết của người ta yêu thương!)

Nó không còn sức nhảy lên ghế. Hai người phải bế nó lên. Tereza đặt nó nằm nghiêng trong lúc Tomas xem xét một trong ba chân lành của nó. Anh vạch lông tìm một động mạch tương đối lớn. Đoạn anh dùng kéo cắt đi ít lông.

Tereza quỳ gối bên cạnh, cô ôm đầu con Karenin sát vào mặt mình.

Tomas nhờ cô bóp chân Karenin vì mũi kim vào hơi khó. Cô làm theo lời anh bảo, nhưng mặt cô vẫn không rời đầu con vật. Cô khe khẽ vỗ về nó, và nó chỉ nghĩ đến cô mà thôi. Nó không sợ hãi. Nó liếm mặt cô hai lần nữa. Tereza tiếp tục nói thầm vào tai nó, “Cưng đừng sợ, cưng đừng sợ nhé, ở trên đó cưng sẽ không bị đau đớn nữa đâu, cưng sẽ mơ thấy sóc nè, thỏ nè, sẽ có đàn bò cho cưng nữa, và Mefisto sẽ lên chơi với cưng, cưng đừng sợ nhé...”

Tomas đâm mũi kim vào mạch máu con Karenin. Chân nó giật mạnh, hơi thở nó dồn dập chừng vài giây rồi ngừng hẳn. Tereza vẫn ngồi dưới sàn nhà bên cạnh ghế, mặt cô vùi vào đầu con vật.

Sau đó hai người ra đồng tiếp tục công việc bỏ dở, xác con vật nằm trên ghế dài, trên tấm vải trắng điểm bông tím tí hon.

Mãi gần tối họ mới về. Tomas ra vườn sau. Anh tìm ra đám cỏ nơi Tereza dùng gót chân vạch thành hình chữ nhật giữa hai gốc táo. Đoạn anh bắt đầu xới đất lên. Anh đào lỗ huyệt thật sát theo đường vạch. Anh muốn mọi thứ phải y như Tereza họach định.

Cô ở lại trong nhà với Karenin. Cô sợ nếu không cẩn thận, lỡ chôn sống nó thì nguy lắm. Cô ghé tai sát miệng nó lắng nghe và ngỡ như có tiếng thở yếu ớt. Cô lùi lại và dường như thấy ngực nó hơi cử động lên xuống.

(Không, tiếng thở từ cô, và vì hồi hộp cơ thể cô hơi dao động khiến cô có cảm tưởng con vật đang động đậy.)

Cô lục tìm trong xắc tay cái gương nhỏ rồi dí sát miệng con vật. Cái gương lem luốc đến độ cô tưởng trên mặt gương đọng những giọt hơi nước do hơi thở con vật gây ra.

“Tomas! Nó còn sống!” Cô hét lên trong lúc Tomas từ ngoài vườn bước vào, đôi ủng dưới chân anh dính đầy bùn đất.

Tomas đến cúi xuống xác con vật, anh lắc đầu.

Vợ chồng mỗi người nắm một đầu mảnh vải, Tereza đầu dưới, Tomas đầu trên, hai người khiêng xác con vật ra vườn.

Tereza cảm thấy mảnh vải ươn ướt trong tay mình. Nó quậy ướt lúc đi vào cuộc đời mình và bây giờ quậy ướt lúc ra đi, vừa khiêng cô vừa nghĩ thầm như vậy, và mảnh vải ướt khiến cô thấy vui vui trong lòng, đó là lời chào vĩnh biệt của nó.

Họ khiêng xác nó đến đặt dưới lỗ huyệt bên cây táo. Cô kéo miếng vải che kín xác nó. Lát nữa đây, đất bùn sẽ ném xuống như mưa đập lên thân xác trần truồng của nó, nghĩ đến chừng đó thôi cô đã chịu không nổi rồi.

Đoạn cô trở vào nhà lấy ra giây tròng cổ của nó và nắm sô cô la còn rải nguyên dưới sàn nhà chung quanh nó từ sáng. Cô ném tất cả xuống lỗ huyệt.

Bên cạnh là ụ đất mới đào. Tomas cầm xẻng lên.

Ngay lúc đó, Tereza nhớ lại giấc mơ: Karenin đẻ ra hai ổ bánh mì và một con ong. Đột nhiên dòng chữ vang lên nghe như lời ghi trên mộ bia. Cô hình dung đài kỷ niệm dựng lên nơi đó, giữa hai cây táo, với hàng chữ Nơi yên nghỉ của Karenin. Nó đẻ ra hai ổ bánh mì và một con ong.

Trong vườn trời tranh sáng tranh tối, thời điểm giữa ngày và đêm. Trên nền trời mảnh trăng lờ mờ hiện ra, ngọn đèn quên tắt trong gian phòng người chết.

Ủng dưới chân hai người bê bết bùn đất lúc họ đem mai xẻng đi cất trong nhà chứa dụng cụ nơi cào, cuốc, thùng đựng nước dựng đứng thành hàng một.