Đời nhẹ khôn kham - Phần VII - Chương 3

6

Anh ngồi tại bàn giấy chỗ anh thường ngày đọc sách. Những lúc như vậy Tereza hay lẻn phía sau anh, cúi xuống áp má cô vào má anh. Nhưng hôm đó cô làm anh giật mình. Anh không đọc sách, trước mặt anh là một lá thư, và mặc dù lá thư dài không quá năm hàng chữ đánh máy, Tomas tư lự nhìn vào mảnh giấy thật lâu.

“Chuyện gì vậy, anh?” Tereza hỏi, giọng cô đột nhiên đầy lo âu.

Vẫn không quay đầu lại, Tomas đưa cô lá thư. Lá thư yêu cầu anh có bổn phận phải trình diện ngay ngày hôm sau đó tại phi trường thị xã lân cận.

Khi anh quay ra nhìn cô, Tereza đọc được nét khiếp sợ mới dấy lên trong lòng cô nơi mắt anh.

“Em đi với anh.” Cô bảo.

Anh lắc đầu. “Họ chỉ muốn gặp anh thôi.”

“Không, em đi với anh.” Cô lặp lại lần nữa.

Hai người đi bằng xe tải của Tomas. Không bao lâu họ đến phi trường. Trời sương mù dày đặc. Cố lắm họ mới nhận ra hình ảnh lờ mờ mấy chiếc phi cơ đậu trong phi trường. Họ đi từ chiếc này sang chiếc khác, nhưng tất cả cửa phi cơ đều đóng kín. Không được phép vào. Cuối cùng họ tìm ra chiếc phi cơ cửa mở, cầu thang dẫn thẳng lên. Họ leo lên cầu thang và người tiếp viên đứng bên cửa chào đón họ. Phi cơ nhỏ lắm – loại chứa không quá ba mươi hành khách – và hoàn toàn trống trơn. Họ bước lần theo lối đi giữa hai hàng ghế, vừa đi vừa ôm lấy nhau cố không để ý gì đến ngoại cảnh chung quanh. Họ chọn ghế ngồi bên cạnh nhau và Tereza ngả đầu lên vai Tomas. Làn sóng khiếp sợ đầu tiên đi qua và nỗi buồn tràn về xâm chiếm.

Khiếp hãi là cú sốc, là thời khắc của mù lòa câm nín. Khiếp hãi thiếu mọi ám hiệu gợi nét đẹp. Tất cả những gì nhìn thấy chỉ còn là tia sáng xuyên phá của biến cố bất tường đang chờ đón. Buồn bã, mặt khác, đi kèm giả thiết đã hay biết tường tận trước sau. Tomas và Tereza biết rõ chuyện gì đang chờ đón hai người. Tia sáng của khiếp sợ vì thế nhạt đi nét thô bạo, và thế giới đắm chìm giữa luồng sáng êm dịu xanh xao và thật sự đẹp đẽ hẳn lên.

Lúc đọc lá thư, Tereza không thấy yêu thương Tomas; cô chỉ giản dị nhận ra cô không thể tách lìa anh một giây một phút nào: cảm giác khiếp hãi chế ngự hoàn toàn mọi cảm xúc và bẩm tính khác. Giờ đây người dựa vai anh (trong lúc phi cơ bay xuyên qua những đám mây giông bão), cơn sợ trong cô lắng xuống và cô nhận ra tình yêu của mình, tình yêu cô biết không có hạn kì hay cương vực.

Cuối cùng phi cơ đáp xuống. Họ đứng dậy đi ra cửa, người tiếp viên mở cửa cho họ ra. Vẫn ôm hông nhau, họ dừng lại từ trên cầu thang nhìn xuống. Bên dưới ba gã đàn ông đầu phủ bao tải kín mít, tay cầm súng dài. Họ từ từ bước xuống, và khi chân họ vừa chạm mặt đất, một trong ba gã đàn ông nâng súng lên nhắm vào người họ. Không nghe tiếng súng nổ nhưng Tereza cảm thấy Tomas ngã gục xuống đất dù mới phút giây trước đó anh còn dựa vào cô, tay vòng qua ôm hông cô.

Cô cố sức lôi anh về phía mình nhưng không cách nào giữ anh đứng vững nổi, và anh ngã xuống nền xi măng phi đạo. Cô nghiêng người trên xác anh, như sắp sửa quăng mình lên anh, dùng xác mình che xác anh. Đột nhiên cô thấy cái gì lạ lùng quá đỗi hiện ra: xác anh bỗng nhiên vụt cái thu nhỏ lại ngay trước mắt cô. Cô kinh hoàng đến độ tê cứng cả người và đứng chết trân nơi đó. Càng thu rút nhỏ, xác Tomas càng không giống anh, cho đến khi nó biến thành món vật bé tí teo và bắt đầu cử động, rồi nó phóng vụt qua bãi đất trống phi trường.

Gã đàn ông bắn anh hồi nãy gỡ bao che mặt rồi nhìn Tereza cười thiện cảm. Đoạn gã quay người phóng chạy đuổi theo món vật bé tí. Nó đâm bên này bổ bên kia như thể đang cố gắng cách tuyệt vọng trốn chạy và tìm chỗ ẩn núp. Cuộc rượt bắt kéo dài trong chốc lát đến khi gã đàn ông thình lình phóng mình xuống mặt đất. Cuộc rượt bắt kết thúc.

Gã đàn ông đứng dậy bước về phía Tereza, cầm trên tay món vật gã bắt được. Nó sợ hãi run bần bật. Một con thỏ. Gã đưa Tereza con thỏ. Ngay lúc đó, cơn khiếp sợ cũng như nỗi buồn trong cô bỗng nhiên lắng xuống và cô thấy vui sướng xiết bao được ôm con vật trong lòng, vui sướng vì con vật thuộc về cô và cô có thể ép nó sát mình. Nước mắt sung sướng cô trào ra. Cô khóc, khóc mãi đến khi nước mắt khiến cô mù lòa, và cô đem con thỏ về nhà với cảm giác cô đã đạt gần tới mục tiêu, nơi chốn cô muốn trở về và sẽ không bao giờ ruồng bỏ nữa.

Lang thang trên đường phố Praha, cô dễ dàng tìm ra căn nhà cũ, căn nhà cô chung sống với Ba Mẹ khi cô còn là một cô bé gái. Nhưng Ba Mẹ đi đâu mất rồi. Chào đón cô là hai người già cả cô chưa bao giờ gặp mặt nhưng cô biết ngay đó là ông bà cố mình. Da dẻ khuôn mặt hai người già nhăn nheo như thân cây đại thụ, nhưng Tereza vui sướng sống chung với họ. Nhưng bây giờ Tereza muốn yên tĩnh một mình với con vật của cô. Cô tìm ngay ra căn phòng riêng hồi cô năm tuổi, lúc cha mẹ cô quyết định cô xứng đáng có phòng riêng.

Phòng có giường ngủ, bàn ghế mỗi thứ một cái. Trên bàn đặt ngọn đèn, ngọn đèn không bao giờ tắt tiên liệu có lúc cô quay về, một con bướm đôi cánh mở rộng trên có hai con mắt lớn đậu trên ngọn đèn. Tereza biết cô đã đạt tới đích. Cô nằm lăn ra giường và ôm con thỏ ép sát mặt mình.

7

Anh ngồi tại bàn giấy chỗ anh thường ngày đọc sách, trước mặt anh là cái phong bì với lá thư bên trong. “Thỉnh thoảng anh nhận được những lá thư này mà anh chẳng bao giờ cho em hay biết.” Anh bảo Tereza. “Thư thằng con trai anh viết. Anh cố tách rời đời sống nó ra khỏi đời sống anh, vậy mà định mệnh đâu để yên cho anh. Cách đây ít năm nó bị đuổi khỏi trường Đại học. Hiện nó lái xe máy cày tại ngôi xã lân cận. Đời sống nó và anh có thể không dính líu gì nhau, nhưng cả hai cùng đi về một hướng, như những đường thẳng song song.”

“Tại sao anh không bao giờ cho em hay biết về những lá thư?” Tereza hỏi, thở phào, nhẹ nhõm.

“Anh không biết tại sao. Có lẽ vì chẳng có gì vui, anh đoán vậy.”

“Nó thường viết cho anh không?”

“Thỉnh thoảng.”

“Nó viết về cái gì?”

“Về nó.”

“Có chi hay ho không?”

“Có. Em nhớ mẹ nó là người Cộng sản trung kiên. Nhưng nó từ mẹ nó từ lâu lắm rồi. Sau đó nó kết thân với những người bị gây rắc rối như cảnh ngộ vợ chồng mình, và nó dính líu tới những họat động chính trị của những người đó. Có người hiện đang ở tù. Nhưng rồi nó lại từ giã. Trong thư nó gọi những người này là ‘những nhà cách mạng muôn đời.’“

“Điều đó có nghĩa nó chấp nhận sống yên với chế độ sao?”

“Không, không hề có chuyện đó bao giờ. Nó tin vào Thượng đế và nghĩ đó là chìa khóa cho đời sống. Nó nói chúng ta nên sống theo lời dạy của tôn giáo mà quên đi mọi chú ý đến chế độ, hoàn toàn để ngoài tai. Nó bảo nếu chúng ta tin vào Thượng đế, chúng ta có thể chấp nhận mọi trạng huống và, dùng chính hành vi của chúng ta làm phương tiện, khả dĩ hoán đổi trạng huống đó thành cái gọi là ‘Thiên quốc Đức Chúa Trời nơi hạ giới.’ Nó bảo nhà thờ là hiệp hội tình nguyện duy nhất trong toàn quốc thoát cảnh bị nhà nước quản chế. Anh thắc mắc, không hiểu nó gia nhập Hội thánh vì muốn chống chế độ hay thực sự tin tưởng vào Thượng đế.”

“Tại sao anh không hỏi thẳng nó?”

“Anh kính phục những người có niềm tin,” Tomas nói tiếp. “Anh nghĩ họ là người có đường lối tiếp nhận sự vật một cách siêu việt khác thường mà anh không có. Nó tương tự như cái nhìn thông suốt quá khứ vị lai, em có thể nói như vậy. Nhưng cảnh ngộ thằng con anh lại chứng minh niềm tin thật ra là cái gì hết sức đơn giản. Nó bị trù giập, nhà thờ mở cánh cửa đón nó vào, và nó có niềm tin trước khi nó nhận ra điều đó. Vì thế, nghe như chính sự biết ơn đã quyết định câu chuyện. Quyết định của con người quả đơn giản lắm thay.”

“Anh có bao giờ hồi âm nó không?”

“Thư nó viết chẳng bao giờ ghi địa chỉ người gửi,” anh trả lời cô, “mặc dù con dấu bưu điện ghi tên quận hạt. Anh có thể gửi thư về văn phòng hợp tác xã.”

Tereza thấy xấu hổ vì đã nghi ngờ Tomas, cô hi vọng chuộc tội bằng cách mở lòng tử tế tốt đẹp đến người con trai anh. “Nếu vậy sao anh không viết vài hàng mời nó đến nhà chơi?”

“Trông nó giống anh lắm,” Tomas bảo. “Lúc nói chuyện, môi trên nó cong lại y như môi anh. Ý tưởng nhìn đôi môi mình đi lại bên trong Thiên quốc Đức Chúa Trời – lạ lẫm quá đỗi thôi.”

Tereza phá lên cười.

Tomas cười theo.

“Tomas, anh đừng trẻ con! Dù sao chuyện giữa anh và bà vợ trước là chuyện cũ. Việc gì đến nó? Nó dính líu gì đến chuyện đó đâu. Tại sao phải làm khổ thằng nhỏ chỉ vì lúc trẻ anh không chín chắn khiến xảy ra chuyện lỡ lầm?”

“Thành thật mà nói, anh thấy khớp nghĩ đến lúc gặp mặt nó. Đó là lí do chính tại sao anh trù trừ do dự mãi. Anh không biết cái gì khiến anh cứng đầu như thế và ngăn cản, không cho anh gặp nó. Đôi khi mình có thiên kiến về vấn đề gì đó mà không biết tại sao, và sự quyết tâm đó dai dẳng không đổi thay được vì sức mạnh cái nọa tính trong con người chúng ta. Năm tháng chồng chất nỗi khó khăn thay đổi càng lúc càng lớn hơn.”

“Anh mời nó lại nhà đi.” Cô bảo anh.

Chiều hôm đó trong lúc từ chuồng bò về, cô nghe tiếng người văng vẳng từ xa. Đến gần hơn, cô thấy chiếc xe tải của Tomas. Tomas đang cúi người thay bánh xe, trong lúc mấy người đàn ông khác đứng chung quanh nhìn và chờ anh làm xong công việc.

Cô thấy xót xa trong dạ: trông anh già nua quá đỗi. Tóc anh bạc, và sự chậm chạp vụng về nơi anh không phải vì anh đang từ địa vị bác sĩ bỗng chốc biến thành người tài xế xe tải mà vì anh không còn trẻ trung nữa.

Cô nhớ câu chuyện mới đây với ông chủ nhiệm hợp tác xã. Ông bảo cô chiếc xe tải của Tomas hư hao nhiều quá. Ông nói như đùa bỡn chứ không phải than phiền, nhưng cô hiểu ông quan tâm. “Tomas rành rẽ lục phủ ngũ tạng bên trong cơ thể con người ta chứ máy xe thì ổng biết gì.” Ông vừa nói vừa cười. Đoạn ông thú thật ông lên nói chuyện với cơ quan trên mấy lần xin phép cho Tomas trở lại hành nghề bác sĩ, ngay tại địa phương đây cũng được. Nhưng ông biết bên công an chẳng bao giờ chấp thuận cho chuyện đó xảy ra.

Cô đến núp sau thân cây lớn để không ai trông thấy cô. Đứng quan sát anh, cô tự trách thầm: Chính cô là người có lỗi đã buộc anh phải quay về Praha, và cũng vì cô anh phải từ bỏ Praha về đây. Ngay cả nơi đây, cô cũng không để anh sống yên bình, cô vẫn hành hạ anh bằng lòng dạ nghi ngờ thầm lén trong khi Karenin nằm chờ chết.

Cô lúc nào cũng thầm trách anh không yêu thương cô tận tình. Tình yêu nơi cô, cô đặt trên mọi than trách, nhưng tình yêu của anh chỉ là sự hạ cố tầm thường mà thôi.

Giờ đây cô thấy cô không công bằng chút nào: Nếu cô thật sự yêu thương Tomas với tình yêu vĩ đại như vậy, cô vẫn có thể chung sống với anh ở nước ngoài được chứ! Ở nước ngoài Tomas sẽ hạnh phúc; một cuộc sống mới mẻ mở ra cho anh! Vậy mà cô từ bỏ anh! Đúng, ở thời điểm đó cô tự khẳng định cô rất cao thượng trả tự do lại cho anh. Nhưng phải chăng lòng cao thượng của cô chẳng qua chỉ là lối thoát khéo léo? Cô biết rõ sớm muộn cuối cùng anh sẽ quay về với cô! Cô kêu gọi anh đi theo cô càng lúc càng xa như vị nữ thần sơn thủy đánh lừa dẫn dụ đám dân làng cả tin ra giữa vùng đầm lầy để họ chôn thân dưới đó. Cô đã lợi dụng một đêm bao tử bị quặn thắt để ngon ngọt dụ dỗ anh dọn nhà về thôn quê! Cô xảo quyệt lắm thay! Cô kêu gọi anh đi theo cô như thể muốn thử đi thử lại tình yêu anh cho cô; cô dai dẳng kêu gọi anh đi theo cô mãi, và giờ đây anh mệt mỏi già nua, với những ngón tay cứng ngắc không bao giờ đủ sức cầm lại con dao mổ nữa.

Nhưng đến đây rồi còn đi đâu nữa. Biết về đâu bây giờ? Sẽ chẳng bao giờ được phép ra nước ngoài. Trở về Praha cũng không còn cơ hội: sẽ không ai cho họ công việc mưu sinh. Ngay cả lí do xin dọn sang ngôi làng khác cũng không.

Hỡi Chúa Trời đầy ân phước, chẳng lẽ hai người phải đi hết chặng đường đó chỉ để cô tin tưởng anh thật tình yêu thương cô sao?

Cuối cùng Tomas lắp xong bánh xe. Anh chui vào ngồi sau tay lái, bọn đàn ông nhảy lên ngồi phía sau, và chiếc xe nổ máy.

Cô về nhà mở nước tắm. Lúc nằm ngâm mình trong nước nóng, cô nhủ thầm cô đã bỏ ra cả đời người đem sự yếu đuối của mình gây khổ cho Tomas. Chúng ta ai cũng có khuynh hướng xem sức mạnh là thủ phạm và yếu đuối là nạn nhân vô tội đáng thương. Nhưng giờ đây Tereza nhận thức trong trường hợp cô điều trái ngược mới đúng! Ngay cả những giấc mơ, như thể nhận biết điểm yếu duy nhất từ người đàn ông mạnh mẽ, phô bày nỗi khổ ải của cô cho người đàn ông nhìn thấy, và từ đó bắt người đàn ông phải thối lui. Sự yếu đuối nơi cô trở nên hung hãn và liên tục ép đẩy anh phải đầu hàng cho đến điểm cuối anh mất hết sức mạnh, hóa thân thành con thỏ trong cánh tay cô. Cô không cách nào gột bỏ giấc mơ đó ra khỏi đầu óc.

Cô đứng dậy bước ra khỏi bồn tắm đoạn mặc lên người cái áo khá xinh đẹp. Cô muốn mình thật đẹp để làm anh vui, làm anh sung sướng. Ngay lúc cô cài xong khuy áo, Tomas cùng ông chủ nhiệm hợp tác xã và một gã nông phu trẻ mặt mày xanh lét ồ ạt xông vào nhà.

“Nhanh lên em!” Tomas kêu lên. “Có rượu không đem ra!”

Tereza chạy vụt ra ngoài và cô trở về với chai rượu mận trên tay. Cô rót ra li và gã thanh niên trẻ nốc một hơn cạn li rượu.

Đoạn họ kể cô nghe chuyện xảy ra. Gã thanh niên bị trặc xương vai và gã kêu rống lên đau đớn. Không ai biết phải làm gì và họ chạy đi gọi Tomas. Tomas chạy đến và chỉ cần một cái giật mạnh cánh tay gã trở lại bình thường.

Sau khi nốc thêm li rượu nữa, gã thanh niên bảo Tomas. “Bà bác sĩ hôm nay trông xinh đẹp quá.”

“Thằng ngu!” Ông chủ nhiệm hợp tác xã la lên. “Tereza lúc nào chẳng xinh đẹp.”

“Tôi biết bà lúc nào cũng xinh đẹp rồi,” gã thanh niên chống chế, “nhưng hôm nay bà còn mặc áo đẹp trên người. Tôi chưa bao giờ thấy bà mặc bộ đồ đó. Ông bà sắp đi đâu phải không?”

“Không, chúng tôi chẳng đi đâu cả. Tôi mặc vì Tomas đấy.”

“Ông quả tốt phước!” Ông chủ nhiệm hợp tác xã vừa nói vừa cười. “Cái mụ nhà tôi đến trong mơ cũng chẳng bao giờ ăn mặc cho tôi nhìn.”

“Có phải vì thế mà lúc nào ông cũng đi ra ngoài với con heo của ông chứ không phải mụ vợ già,” gã thanh niên trẻ nói xong vui vẻ cười theo.

“Mefisto ra sao rồi?” Tomas hỏi. “Tôi không gặp nó dễ chừng” – anh ngưng lại trong giây lát – “dễ chừng một tiếng đồng hồ rồi.”

“Chắc nó đang nhớ tôi.” Ông chủ nhiệm cất tiếng.

“Nhìn bà mặc áo đẹp bỗng dưng tôi thèm đi khiêu vũ quá sức thôi,” gã thanh niên bảo Tereza. Rồi quay sang Tomas, gã hỏi, “Bác sĩ cho phép tôi khiêu vũ với bà không?”

“Vậy thì tất cả chúng ta cùng đi khiêu vũ,” Tereza nói.

“Bác sĩ đi không?” Gã thanh niên hỏi.

“Anh định đi đâu?” Tomas hỏi.

Gã thanh niên nói tên tỉnh lị lân cận nơi quán rượu khách sạn có sàn khiêu vũ.

“Cả ông nữa,” gã thanh niên quay sang nói với ông chủ nhiệm giọng chắc nịch, và lúc đó nốc đến li rượu mận thứ ba gã nói thêm, “Nếu con Mefisto nhớ ông nhiều đến vậy thì chúng tôi đem nó theo luôn. Thế là chúng ta có đến hai con heo để khoe khoang bà con. Bọn đàn bà con gái sẽ đến van xin khi nhìn đầy mắt hai con heo đi cạnh nhau!” Gã ta cứ thế cười mãi không thôi.

“Nếu quý vị không xấu hổ vì con Mefisto thì tôi đây sẵn sàng.”

Đoạn mọi người chất lên chiếc xe tải của Tomas – Tomas phía sau tay lái, Tereza ngồi cạnh anh và hai người đàn ông ngồi phía sau với chai rượu mận chỉ còn lưng lửng. Mãi đến lúc xe ra khỏi làng ông chủ nhiệm mới chợt nhớ mọi người quên mất con heo Mefisto. Ông ta la lớn bảo Tomas quay xe lại.

“Thôi đi ông ơi,” gã thanh niên gạt đi. “Một con heo nhỏ đủ làm nên trò trống rồi.” Nghe vậy ông chủ nhiệm tạm dịu xuống phần nào.

Trời tối dần. Chiếc xe tải bắt đầu leo lên những con dốc ngoằn ngoèo quẹo gắt.

Đến tỉnh mọi người đi thẳng vào khách sạn. Tereza và Tomas chưa đặt chân đến đây bao giờ. Mọi người xuống hầm dưới nơi có quầy rượu, sàn khiêu vũ và dăm ba cái bàn. Một người đàn ông tuổi chừng sáu mươi đang đàn dương cầm, người đàn bà cũng cỡ tuổi đó kéo vĩ cầm. Bản nhạc họ đang hòa tấu là nhạc cách đây bốn chục năm. Ngoài sàn nhảy có chừng năm sáu cặp đang khiêu vũ.

“Chẳng có gì cho tôi ở đây,” gã thanh niên nói sau khi quan sát tình thế, rồi gã lập tức mời Tereza ra sàn nhảy.

Ông chủ nhiệm hợp tác xã và Tomas ngồi xuống bàn trống và gọi một chai rượu.

“Tôi không uống,” Tomas nhắc ông ta. “Tôi phải lái xe.”

“Ông đừng vớ vẩn, bọn mình ở lại qua đêm.” Đoạn ông bước ra quầy khách đặt hai phòng ngủ.

Lúc Tereza và gã thanh niên từ sàn nhảy trở về bàn, ông chủ nhiệm mời cô ra nhảy và cuối cùng đến phiên Tomas.

“Tomas,” cô bảo anh lúc hai người ra sàn nhảy, “tất cả những trắc trở xảy ra trong đời anh đều do lỗi em gây ra. Vì em anh bị xuống thấp đến mức này, thấp đến nỗi không thể thấp hơn được nữa.”

“Thấp? Em đang nói gì vậy?”

“Nếu ở lại Zurich, anh vẫn là bác sĩ.”

“Và em vẫn là nhiếp ảnh gia.”

“So sánh như thế vớ vẩn lắm,” Tereza bảo. “Công việc của anh đối với anh là tất cả; còn em, em đâu màng gì nó, em có thể làm bất cứ chuyện gì, em chẳng hề mất mát; chính anh mới là người mất mát mọi thứ.”

“Tereza, em không thấy anh sung sướng được sinh sống nơi đây sao?”

“Làm bác sĩ giải phẫu là sứ mệnh của anh.” Cô bảo.

“Tereza, sứ mệnh là cái gì hết sức ngu xuẩn. Anh chẳng có sứ mệnh gì cả. Không ai có. Và thật nhẹ nhõm khi nhận ra mình không còn nặng nợ một sứ mệnh nào.”

Giọng nói anh chắc nịch rạch ròi. Cô nhớ chuyện ban sáng lúc cô nhìn anh thay bánh xe tải và trông anh thật già nua. Cô đạt đến đích rồi: cô luôn mong mỏi anh già nua. Một lần nữa cô nghĩ đến con thỏ cô ôm sát mặt mình trong căn phòng thời thơ ấu.

Biến thành thỏ là ngụ ý gì? Là mất đi sức mạnh. Là không còn mạnh mẽ hơn ai nữa.

Hai người khiêu vũ theo điệu nhạc. Tereza ngả đầu lên vai Tomas. Y như lúc hai người ngồi trên phi cơ bay xuyên qua những đám mây giông bão. Cô thấy trong lòng dâng lên cảm giác sung sướng lẫn buồn rầu như lúc đó. Buồn rầu nghĩa là: chúng ta đang ở trạm cuối. Vui sướng nghĩa là: chúng ta đang ở cạnh nhau. Buồn là hình thức, vui là nội dung. Niềm vui tràn ngập khoảng chứa của nỗi buồn.

Hai người trở lại bàn. Cô nhảy thêm hai bản nữa với ông chủ nhiệm hợp tác xã và một bản với gã thanh niên, gã say đến nỗi kéo cô ngã chúi ra khỏi sàn nhảy.

Đoạn mọi người kéo nhau lên lầu và tách ra thành hai nhóm vào hai phòng ngủ.

Tomas tra chìa khóa mở cửa rồi bật ngọn đèn trên trần. Tereza cảm thấy trong phòng có hai cái giường ngủ kê sát nhau, cạnh đầu giường là cái bàn đêm, trên bàn đặt cái đèn chụp. Từ trong chụp đèn, một con bướm đêm hoảng hốt vì ánh sáng đèn trần, vụt lên rồi bắt đầu bay vòng vòng quanh gian phòng. Tiếng dương cầm hòa lẫn tiếng vĩ cầm văng vẳng vọng lên từ bên dưới.