Papillon - Người tù khổ sai - Chương 02 phần 2

- Cám ơn Dega. Nhờ bác tôi đã nhận được plan.

- Có thấy vướng lắm không

- Không.

- Mỗi lần đi ngoài, phải rửa cho kỹ rồi hẵng đút vào.

- Vâng. Nó kín lắm, vì mấy tờ giấy bạc đều khô ráo. Thế mà tôi đã mang plan trong bụng đến bảy ngày nay rồi chứ có ít đâu.

- Thế thì plan tốt đấy.

- Dega ạ, bác định sao đây?

- Tớ sẽ làm trò thằng khùng đây. Tớ không muốn đi đày ở lại Pháp, có lẽ tớ sẽ ngồi từ tám hay mười năm. Tớ có quen với một số người thân thế, cho nên hạn tù có thể giảm ít nhất là năm năm.

- Bác bao nhiêu tuổi?

- Bốn mươi hai.

- Bác điên à! Nếu ngồi tù mười năm, khi ra bác đã già mất rồi còn gì. Bác sợ khổ sai lắm à?

- Ừ! Tớ sợ lắm. Nói với cậu như vậy tớ không xấu hổ đâu, Papi ạ. Ở Guyane kinh lắm cậu ạ. Mỗi năm tù chết tám mươi phần trăm. Các chuyến tàu chở tù cứ kế tiếp nhau bù vào đấy, mỗi chuyến từ một ngàn tám trăm cho đến hai ngàn người. Nếu cậu không nhiễm bệnh hủi thì cũng mắc bệnh sốt vàng hay kiết lỵ, hai bệnh này không tha ai đâu. Hoặc nếu không thì cũng là ho lao, sốt rét, malaria ác tính. Nếu cậu thoát được tất cả các thứ ấy, cậu sẽ có đầy đủ khả năng bị ám sát để lấy plan hay là chết trong khi vượt ngục. Cậu hãy tin tớ Papi ạ, tớ nói thế không phải để cho cậu nản lòng, nhưng tớ có quen mấy người tù khổ sai trở về Pháp sau năm bảy năm ở tù, cho nên tớ biết. Họ chỉ còn là những đống giẻ rách. Năm nào cũng phải chín tháng nằm ở bệnh viện. Còn vượt ngục thì họ đều nói là nó không bở như nhiều người vẫn tưởng đâu.

- Tôi tin bác chứ, nhưng tôi cũng tin tưởng tôi, và tôi biết chắc là tôi sẽ không ngồi yên ở bên ấy lâu đâu. Tôi là thủy thủ, tôi biết rõ nghề đi biển, và bác cứ tin chắc là tôi sẽ chuẩn bị rất nhanh để vượt ngục. Còn bác, bác có hình dung được cái cảnh ngồi tù cấm cố mười năm hay không? Nếu họ giảm cho bác năm năm (điều chẳng chắc chắn gì) liệu bác có thể chịu đựng được mười cái năm còn lại hay không, hay là lại hóa điên vì cảnh biệt lập hoàn toàn? Như tôi đây, vào giờ này, trong căn xà-lim mà tôi ở một mình, không có sách báo, không được ra ngoài, không được nói với ai, thì hai mươi bốn giờ mỗi ngày cần phải nhân lên không phải là sáu mươi phút mà là sáu trăm! Mà nói thế vẫn còn xa sự thực đấy.

- Có thể như thế, nhưng cậu, cậu còn trẻ chứ tôi đã bốn mươi hai tuổi đầu rồi.

- Này Dega ạ, nói thật, bác sợ cái gì nhất. Sợ bọn tù khổ sai khác chứ gì?

- Thật thế đấy Papi ạ. Ai cũng biết tớ là triệu phú, và từ chỗ đó đến chỗ ám sát tớ vì tin rằng tớ mang trong người năm mươi hoặc một trăm ngàn quan chẳng xa xôi gì cả.

- Bác ạ, bây giờ chúng mình làm giao kèo với nhau nhé? Bác hứa với tôi là đừng giả vờ điên còn tôi, tôi hứa với bác là sẽ luôn luôn ở bên cạnh bác. Chúng mình sẽ dựa vào nhau. Tôi khỏe và nhanh, tôi đã học đánh nhau từ hồi rất trẻ và tôi biết dùng dao rất thành thạo. Vậy thì về phía bọn tù khổ sai bác cứ yên tâm: họ sẽ không những nể chúng mình mà còn sợ nữa. Khi vượt ngục, chúng mình sẽ không cần đến ai hết. Bác có tiền, tôi cũng có tiền, tôi biết sử dụng địa bàn và điều khiển thuyền đi biển. Bác còn muốn gì hơn nữa?

Dega nhìn thẳng vào mắt tôi hồi lâu... Chúng tôi ôm lấy nhau. Thế là bản giao kèo đã được ký kết.

Một lát sau, cửa mở ra. Dega vác bạc đà đi về phía bác, còn tôi đằng tôi. Phòng giam của chúng tôi không xa nhau lắm. Vả lại thỉnh thoảng chúng tôi có thể gặp nhau ở phòng cắt tóc, ở phòng bác sĩ, hay ở nhà nguyện của khám nếu là ngày chủ nhật.

Dega bị sa lưới trong vụ giá mạo phiếu Đảm phụ Quốc phòng. Có một gã chuyên làm bạc giả đã chế tạo ra các phiếu Đảm phụ này một cách khá độc đáo. Hắn tẩy những tập phiếu năm trăm francs và in lên đấy những con số mười nghìn francs một cách cực kỳ khéo léo. Vì giấy phiếu như nhau, cho nên các nhà ngân hàng và các thương gia khi nhận những tờ phiếu này không hề nghi ngờ gì hết. Tình hình này kéo dài nhiều năm và Phòng tài chính của Bộ tư pháp không còn biết đằng nào mà lần nữa, cho đến ngày người ta bắt được quả tang một người trong bọn tên là Brioulet. Lúc bấy giờ Louis Dega làm chủ một tiệm rượu ở Marseille, nơi tụ hợp những phần tử tinh hoa trong giới giang hồ miền Nam, và là nơi hẹn hò quốc tế của những tay du lịch giàu có một cách khả nghi của khắp thế giới. Kể đến năm 1929, Dega đã có vốn bạc triệu. Bác ta rất yên tâm.

Một đêm nọ, có một người đàn bà trẻ, đẹp, ăn mặc trang nhã đến tìm ông Louis Dega ở tiệm rượu.

- Thưa bà chính tôi đây, bà cần gì ạ? Xin mời bà sang phòng bên.

- Ông ạ, tôi là vợ của Brioulet. Nhà tôi đang ở tù ở Paris, vì tội bán phiếu giả. Tôi đã đến thăm ông ấy ở nhà lao Santé, ông ấy có cho tôi địa chỉ tiệm này và dặn tôi đến xin ông hai mươi ngàn francs để trả tiền trạng sư.

Thế là Dega, một trong những tay bợm lớn nhất của nước Pháp, trước cơn hoạn nạn của một người đàn bà biết rõ vai trò của bác ta trong vụ phiếu giả, đã đưa ra câu trả lời duy nhất không nên có trong hoàn cảnh này.

- Thưa bà, tôi tuyệt nhiên không biết chồng bà và nếu bà cần tiền, bà nên bán một ít phấn son là đủ. Bà xinh đẹp thế kia, làm chi mà chẳng kiếm được thừa xài?

Người đàn bà đáng thương kia ức quá, vừa bỏ chạy vừa khóc. Bà ta vào nhà lao gặp chồng kể lại câu chuyện vừa xảy ra. Hôm sau Brioulet công phẫn tố cáo tất cả những gì hắn biết cho viên dự thẩm nghe, chính thức buộc tội Dega là kẻ cung cấp phiếu đảm phụ cho cả bọn. Lập tức một đội gồm những cảnh sát viên tinh nhuệ nhất của nước Pháp được thành lập để điều tra, theo dõi Dega. Một tháng sau, Dega, hai người chuyên tẩy khắc và in phiếu giả cùng với mười một người đồng lõa bị bắt vào cùng với một giờ ở những nơi khác nhau, và bị tống giam. Họ bị đưa ra tòa Đại hình quận sông Seine, và phiên tòa đã xử mười bốn ngày liền. Mỗi bị cáo nhận đều được trạng sư cỡ lớn bào chữa chọ Brioulet không một lần nào phản cung. Rốt cục, chỉ vì hai mươi ngàn francs khốn nạn và một câu trả lời ngu xuẩn mà tên bợm già giặn nhất của nước Pháp đã phá sản với mười lăm năm tù khổ sai. Và đó chính là người vừa mới cùng tôi ký kết một bản giao kèo cùng sống cùng chết.

Trạng sư Raymond Hubert có đến thăm tôi. Ông ta dĩ nhiên chẳng lấy gì làm phấn khởi, cho nên trong khi nói chuyện với tôi ông lộ vẻ lúng túng rõ ràng. Tôi không trách móc ông ta một câu nào.

... Một, hai, ba, bốn, năm, quay đằng sau... Một, hai, ba, bốn, năm, quay đằng sau. Tôi đi đi lại lại như thế từ cửa sổ đến cửa lớn của phòng giam suốt mấy tiếng đồng hồ. Tôi hút thuốc lá, tôi cảm thấy mình tỉnh táo, cân bằng và đủ sức chịu đựng bất cứ điều gì. Tôi tự hứa với mình là giờ đây sẽ không nghĩ đến chuyện trả thù vội.

Cái tên công tố viên kia thì ta hãy tạm bỏ hắn đứng ở nơi mà tôi đã trói hắn vào mấy cái vòng đóng trên tường, cứ để mặt hắn ở đấy: tôi vẫn chưa quyết định được là mình sẽ làm cho hắn chết bằng cách nào. Bỗng một tiếng hét chói chang, một tiếng hét tuyệt vọng, não nuột một cách khủng khiếp, đã lọt vào cửa phòng giam, không biết từ đâu vang đến. Cái gì thế nhỉ? Nghe như tiếng kêu gào của một người đang bị tra tấn. Nhưng ở đây đâu có phải là nơi hỏi cung của cảnh sát hình sự? Không có cách nào biết được việc gì đang xảy ra. Những tiếng hét trong đêm khuya đã làm cho tôi gan ruột rối bời. Và tiếng hét ấy không biết nó mạnh đến mức nào mà có thể xuyên qua được tấm cửa có đệm da dày này. Có lẽ đó là một người điên. Bị giam một mình trong những căn xà-lim như thế này, không có một chút gì từ bên ngoài vào, thì phát điên cũng chẳng khó khăn gì. Tôi nói to lên một mình, tự chất vấn bản thân: “Những tiếng hét ấy thì có liên quan gì đến mày? Mày hãy nghĩ đến bản thân mày, chỉ nghĩ đến bản thân mày và đến người cộng sự mới của mày là Dega.” Tôi cúi xuống, thẳng người dậy, rồi đấm một phát vào ngực mình. Đau lắm. Và như thế có nghĩa là mọi sự vẫn còn ổn: các bắp thịt trên tay tôi vẫn hoạt động một cách hoàn hảo. Thế còn chân? Hãy khen ngợi đôi chân ấy đi, vì đi đi lại lại hơn mười sáu tiếng đồng hồ rồi mà vẫn chưa thấy mỏi.

Người Tàu đã phát minh ra cái giọt nước nhỏ đều đều xuống đầu tội nhân. Còn người Pháp thì đã phát minh ra sự im lặng. Họ loại trừ mọi phương tiện khuây khỏa. Không có sách, không có giấy, không có bút, khung cửa sổ có song sắt lớn bị bịt kín bằng những tấm ván, chỉ khoét mấy cái lỗ nhỏ đủ để lọt một ít ánh sáng mờ mờ.

Người nôn nao vì tiếng hét não nùng kia, tôi quay cuồng trong xà lim như một con thú bị nhốt trong chuồng. Tôi thật sự có cái cảm giác là bị mọi người ruồng bỏ và bị chôn sống theo nghĩa đen. Phải, đúng là tôi hoàn toàn chỉ có một mình, và tất cả những gì ở thế giới bên ngoài có thể thấu được đến tôi trước sau cũng chỉ là tiếng hét ấy.

Có ai mở cửa. Một ông linh mục già bước vào. À, bây giờ thì mày không phải chỉ có một mình nữa, trước mặt mày đã có một ông linh mục.

- Chào con. Con hãy tha thứ cho cha vì mãi đến hôm nay cha mới vào được. Mấy hôm trước cha về quê nên không biết. Con có khỏe không?

Và ông linh mục già xuề xòa bước thẳng vào xà-lim, ngồi bệt xuống cái giường tồi tàn và thấp lè tè của tôi.

- Con người xứ nào?

- Vùng Ardèche.

- Bố mẹ ra sao?

- Mẹ con mất hồi con mới mười một tuổi. Hồi trước bố con thương con lắm.

- Ông ấy làm nghề gì?

- Dạy học.

- Bố con còn sống chứ?

- Vâng ạ.

- Bố con còn sống, thì sao con lại nói là “trước kia”?

- Bởi vì bố con thì còn sống nhưng con thì chết rồi.

- Ôi! Con đừng nói thế. Con đã làm gì mà bị án?

Trong một khoảnh khắc tôi nghĩ đến cái ấn tượng lố bịch mà tôi sẽ gây nên nếu tôi nói rằng mình vô tội.

Và tôi trả lời thật nhanh:

- Cảnh sát nói là con đã giết người; mà cảnh sát đã nói thế thì hẳn là phải đúng như thế.

- Đấy là một thương gia à?

- Không, hắn làm ma cô.

- Và vì một chuyện lôi thôi gì đấy trong giới du đãng mà người ta xử con tội khổ sai chung thân à? Cha không hiểu. Đây là một vụ giết người có chủ đích à?

- Không ạ, chỉ là một vụ giết người thường thôi.

- Tội nghiệp, thật khó mà tin được. Liệu cha có thể làm gì giúp con không? Ta cùng cầu nguyện nhé?

- Thưa cha, xin cha tha thứ, con không biết cầu nguyện, vì con không hề được giáo dục về tôn giáo.

- Không sao đâu con ạ, cha sẽ cầu nguyện cho con. Đức Chúa lòng lành thương yêu tất cả những đứa con của Người, đù đã rửa tội hay chưa cũng vậy thôi. Bây giờ cha nói gì con cứ thế mà nhắc lại nhé, được không?

Đôi mắt ông linh mục dịu hiền quá, gương mặt bầu bĩnh của ông toát ra lòng nhân từ trong sáng quá, đến nỗi tôi không nỡ từ chối, và khi thấy ông quỳ xuống, tôi cũng quỳ theo. “Lạy Cha chúng con ở trên Trời... ”

Tôi ứa nước mắt, và ông linh mục thấy thế liền đưa ngón tay múp míp hứng lấy một giọt lệ lớn đang lăn trên má tôi và đưa lên môi uống.

- Con ơi, những giọt nước mắt của con đối với cha là phần thưởng lớn nhất mà Chúa có thể gửi cho cha ngày hôm nay qua tâm hồn con. Cảm ơn con nhiều lắm.

Ông linh mục hôn lên trán tôi.

Hai chúng tôi lại ngồi cạnh nhau trên cái giường tù.

- Đã bao lâu con không khóc?

- Mười bốn năm.

- Mười bốn năm, tại sao?

- Ngày mẹ con mất.

Ông già cầm tay tôi và nói:

- Con hãy tha thứ cho những kẻ đã làm con đau khổ đến như vậy.

Tôi giật phắt bàn tay tôi ra khỏi bàn tay ông linh mục và bất giác vùng dậy, lùi ra phía giữa phòng giam.

- Ồ không, cái đó thì không đời nào! Con sẽ không bao giờ tha thứ cho chúng nó. Cha có muốn nghe một lời tâm sự của con không, thưa Chha? Vậy thì đây: hàng ngày, hàng đêm, hàng giờ, hàng phút con chỉ làm có mỗi một việc là nghĩ cho ra cách gì và bao giờ con sẽ giết hết được tất cả, những kẻ đã giam con vào đây.

- Con nói thế, và con tin là như thế, vì con hãy còn trẻ, còn trẻ lắm. Rồi sau này khi đã có tuổi, con sẽ từ bỏ ý định trừng phạt và trả thù.

Ba mươi bốn năm sau, tôi đã nghĩ đúng như ông linh mục nói.

- Cha có thể làm gì để giúp con? - Ông linh mục nhắc lại.

- Cha có thể làm một việc phạm pháp không?

- Việc gì?

- Đến xà-lim số ba bảy nói với Dega là phải nhắn trạng sư xin cho được chuyển sang nhà lao trung tâm Caen, và báo cho Dega biết là con cũng vừa làm đơn như thế xong. Cần phải rời nhà lao Conciergerie thật nhanh để chuyển sang một nhà lao trung tâm nơi tập hợp những đoàn tù gửi sang Guyane. Vì nếu lỡ mất chuyến tàu thứ nhất thì phải đợi thêm hai năm nữa trong nhà lao cấm cố mới có một chuyến khác. Khi cha đã gặp Dega rồi thì xin cha quay trở lại đây cho con biết tình hình ra sao.

- Cha sẽ lấy lý do gì để trở lại đây?

- Chẳng hạn cha cứ nói là bỏ quên quyển kinh. Con đợi câu trả lời của Dega.

- Nhưng tại sao con lại vội đi? Mà lại vội đi đến một nơi khủng khiếp như cái nhà tù khổ sai ấy?

Tôi nhìn lên gương mặt của ông linh mục, người tín sứ của Thượng đế lòng lành, và tin chắc rằng ông sẽ không phản bội tôi, tôi nói:

- Thưa cha, để vượt ngục cho thật nhanh.

- Chúa sẽ giúp con, con ạ, cha tin chắc như vậy, và con sẽ làm lại cuộc đời của con, cha cảm thấy thế. Vì con có đôi mắt của một chàng trai trung hậu, và vì tâm hồn con cao thượng. Cha đến phòng ba bảy đây. Con hãy ngồi đợi câu trả lời.

ông linh mục quay trở lại phòng tôi rất nhanh.

Dega đồng ý. Ông linh mục để lại cuốn kinh cho tôi mượn đến mai.

Ngày hôm nay một tia nắng của Trời đã lọt vào đây làm cho phòng giam của tôi sáng rực lên, nhờ lòng nhân hậu của con người thánh thiện ấy.

Nếu Thượng đế có thật, tại sao Người lại cho phép có những con người khác nhau đến như vậy sống trên trái đất? Lão công tố viên, bọn cảnh sát, bọn Polein, rồi lại có ông linh mục, ông cha xứ của nhà lao Conciergerie?

Chuyến đến thăm của con người thánh thiện ấy vừa an ủi tôi lại vừa được việc cho tôi.

Hai lá đơn của chúng tôi đã sớm có kết quả. Chỉ một tuần sau, hai chúng tôi đã ở trong số một tốp bảy người đứng xếp hàng trong hành lang nhà lao Conceiergene lúc bốn giờ sáng. Toàn thể đội cảnh sát đã có mặt ở đấy.

- Cởi hết ra!

Ai nấy đều chậm rãi cởi áo quần. Trời lạnh, tôi nổi cả da gà lên.

- Để đồ đạc ngay trước mặt. Đằng sau, quay! Lui một bước, bước! - Trước mặt mỗi người đã có một xáp áo quần.

- Mặc vào!

Chiếc áo sơ-mi vải phin mịn mà tôi mặc ban nãy được thay thế bằng một cái áo vải thô cứng, và bộ com-lê trang nhã của tôi nhường chỗ cho một cái blouson và một cái quần bằng dạ thô. Đôi giày của tôi đã biến đâu mất, và tôi phải xỏ chân vào một đôi guốc sabot*(*một thứ giày đẽo bằng gỗ, có mu, thường dùng ở vùng nông thôn)

Kể cho đến ngày hôm nay, chúng tôi còn có cái vẻ của người bình thường. Tôi đưa mắt nhìn sang sáu người kia: thật kinh khủng! Không còn lấy một dấu vết nào của bản sắc riêng: trong hai phút đồng hồ ai nấy đều đã hóa thành tù khổ sai.

- Bên phải, quay? Nhìn trước, thẳng! Đi đều, bước.

Được khoảng hai mươi tên cảnh sát áp giải hai bên, chúng tôi ra sân và lần lượt được đưa lên xe, mỗi người nhốt kín trong một cái ngăn hẹp trên thùng xe. Thế là chúng tôi lên đường đến khám Beaulieu, tên gọi của nhà lao trung tâm ở thành phố Caen.