Papillon - Người tù khổ sai - Chương 38 phần 1

Chương 38

Georgetown

Buổi chiều, sau khi được chích nhiều thứ thuốc vắc-xin khác nhau, chúng tôi được chuyển sang đồn cảnh sát của thành phố, một thứ trụ sở lớn có hàng trăm cảnh binh tấp nập ra vào không ngớt. Giám đốc cảnh sát của thành phố George, người cầm quyền tối cao, chịu trách nhiệm về sự an toàn của hải cảng quan trọng này, tiếp ngay chúng tôi tại phòng làm việc của ông. Quanh ông là các sĩ quan Anh mặc đồ ka-ki, quần cộc, bít tất trắng, trông chừng chạc không chê vào đâu được. Ông đại tá ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống trước mặt ông. Bằng tiếng Pháp chính cống, ông hỏi chúng tôi:

- Lúc người ta bắt gặp các anh trên biển, các anh từ đâu tới?

- Từ trại tù khổ sai ở Guyane thuộc Pháp.

- Các anh cho tôi biết những điểm chính xác mà từ đó các anh vượt ngục đi.

- Tôi ở đảo Quỷ. Các anh này ở một trại giam ở đất liền, một nửa là tù chính trị, tại Inini, gần Kourou trên đất Guyane thuộc Pháp.

- Anh bị kết án thế nào?

- Tù chung thân. Lý do: giết người.

- Còn bác người Tàu?

- Cũng giết người.

- Án ra sao?

- Chung thân.

- Nghề nghiệp?

- Thợ điện.

- Còn các anh kia?

- Nấu bếp.

- Các anh theo Degaulle hay Pétain?

- Chúng tôi không biết gì. Chúng tôi chỉ là những tù nhân muốn tìm cách sống lương thiện trong tự do.

- Chúng tôi sẽ để các anh ở một xà-lim dược mở cửa suốt ngày đêm. Chúng tôi sẽ trả tự do cho các anh sau khi xét lời các anh đã khai. Nếu các anh nói thật, các anh không phải sợ. Các anh phải hiểu là chúng tôi đang có chiến tranh, nên chúng tôi buộc lòng phải thận trọng hơn thời bình nhiều.

Tám ngày sau, chúng tôi đã mau chóng được trả tự do. Chúng tôi lợi dụng tám ngày ở lại đồn cảnh sát ấy để trang bị quần áo tươm tất. Chín giờ sáng mai anh Tàu và tôi đã ăn mặc chỉnh tề ra đường với giấy căn cước có dán ảnh.

Các nhà trong cái thành phố hai trăm năm mươi ngàn dân này hầu hết là bằng gỗ, kiến trúc kiểu Anh: tầng trệt bằng xi-măng, phần còn lại bằng gỗ. Đường xá và đại lộ chật ních những người thuộc đủ các chúng tộc: da trắng, da đen, Ấn Độ, có các phu phen, thủy thủ Anh, Mỹ, hoặc người phương Bắc. Chúng tôi hơi say sưa thấy mình được ở giữa đám đông sặc sỡ này. Một niềm vui mãnh liệt tràn ngập lòng chúng tôi, mạnh mẽ đến nỗi nó lộ rõ trên mặt chúng tôi, kể cả hai anh người Tàu, làm nhiều khách bộ hành nhìn chúng tôi và mỉm cười vui vẻ.

- Chúng tôi đi đâu bây giờ? - Quých hỏi.

- Tôi biết sơ sơ địa chỉ vài người. Một cảnh sát da đen đã cho tôi địa chỉ của hai người Pháp ở đường Penitence Rivers.

Hỏi thăm kỹ thì đấy là một khu đặc biệt chỉ có người Ấn Độ cư ngụ. Tôi đến gặp một cảnh sát viên ăn mặc đồ trắng, trông chừng chạc, tôi đưa địa chỉ cho anh ta coi. Trước khi trả lời, anh hỏi giấy tờ của chúng tôi. Tôi hãnh điện lấy ra đưa cho anh.

- Rất tốt, cám ơn, - và anh ta sốt sắng đưa chúng tôi đến một chiếc tàu điện và nói gì với người lái. Chúng tôi đi ra ngoài thành phố và hai mươi phút sau, người lái tàu bảo chúng tôi xuống. Chắc là đến nơi rồi. Chúng tôi hỏi đường.

- Anh là người Pháp hả?

Một thanh niên ra hiệu cho chúng tôi đi theo anh ta. Anh ta đưa chúng tôi đến thẳng một căn nhà thấp. Tôi vừa tới nơi thì thấy có ba người đi ra, điệu bộ niềm nở:

- Sao lại thế này, Papi, anh ở đây à? - Vô lý, người già nhất, tóc bạc trắng nói. - Vào đi! Đây là nhà tôi. Hai người Tàu này đi với anh đấy?

- Phải.

- Vào đi, mời các anh vào cả.

Người tù già này tên là Guitto Auguste, còn gọi là Le Guittou, dân Marseille chính cống. Chín năm trước, năm 1933, anh lên tàu La Martinière cùng một chuyến với tôi. Sau một chuyến vượt ngục thất bại, anh được tha tội chính và đã bỏ trốn đi, cách đây ba năm, theo như lời anh nói. Hai người kia, một là Louis Nhỏ, người ở Ardes, một người dân Toulouse tên là Julot. Cả hai cùng trốn đi sau khi mãn hạn tù, đáng lẽ họ phải ở lại Guyane thuộc Pháp một thời gian tương đương với thời gian họ bị giam, mười năm và mười lăm năm (gọi là thời gian quản thúc).

Căn nhà có bốn gian: hai phòng, một căn bếp, kiêm phòng ăn và một xưởng nhỏ. Họ đóng giày bằng balata, một thứ cao-su thiên nhiên kiếm ở trong rừng, cứ bỏ vào nước nóng là có thể nhào nặn thành đồ dùng rất dễ dàng. Nhược điểm của nó là đề lâu ngoài nắng thì bị chảy, vì đó là thứ cao su chưa được lưu hóa. Người ta khắc phục khuyết điểm đó bằng cách cho những lớp vải xen kẽ với các lớp balata.

Chúng tôi được tiếp đón nồng hậu, với tấm lòng cao thượng của một người đã từng đau khổ, Guittou đã thu xếp cho ba chúng tôi một văn phòng và để chúng tôi ở nhà anh không hề do dự chút nào. Chỉ có một vấn đề là con heo của Quých-Quých, nhưng Quých bảo đảm là nó không làm dơ nhà và chắc chắn là nó biết ra ngoài một mình để đi đái.

Guittou nói:

- Được, rồi sẽ tính sau, bây giờ anh em cho nó ở với anh.

Tạm thời chứng tôi lấy ba tấm chăn cũ của lính trải ra đất làm giường nằm.

Sáu người chúng tôi ngồi trước cửa, hút vài điếu thuốc, tôi kể cho Guittou nghe những chuyện gian truân của tôi trong chín năm qua. Hai người bạn của anh và anh hết sức chăm chú lắng nghe và như cùng sống lại những biến cố đó và họ cũng qua những kinh nghiệm thực tế của bản thân để cảm thông được. Có hai người biết Sylvain, đã than vãn về cái chết của anh ta. Trước mặt chúng tôi, rất nhiều người thuộc đủ các chủng loại đi qua đi lại. Thỉnh thoảng có người vào mua một đôi dép hay một cây chổi, vì Guittou và các bạn anh còn làm cả chổi để kiếm sống. Qua họ tôi biết là trong số tù khổ sai và đi đày có chừng ba chục người vượt ngục đã đến ở thành phố George. Ban đêm, họ gặp nhau tại một quán rượu ở trung tâm thành phố để uống rượu rhum hay bia. Julot nói với tôi là tất cả đều làm việc để sinh sống và đa số có thái độ tốt.

Trong khi chúng tôi ngồi hóng mát ở cửa có một người Tàu đi qua, Quých liền gọi anh ta lại. Rồi không nói gì với tôi, anh và anh cụt đi theo người nọ. Chắc họ không đi xa vì con heo cũng theo sau. Hai giờ sau, ba gác nhỏ. Anh vênh vang như Artaban, ghìm con lừa dừng lại và nói với nó bằng tiếng Tàu. Con lừa có vẻ hiểu được thứ tiếng này. Trong xe, có ba cái giường sắt, ba tấm nệm, gối và ba chiếc va-li. Anh đưa cho tôi một chiếc va li đầy trong có áo sơ-mi, quần đùi, áo lót cùng hai đôi giày, v.v...

- Anh kiếm ra những thứ này ở đâu vậy, Quých?

- Các bạn đồng hương của tôi cho tôi đấy. Ngày mai chúng ta đến thăm họ nhé?

- Đồng ý. Chúng tôi tưởng Quých lại dắt con lừa và chiếc ba gác đi, nhưng không. Anh tháo lừa ra, buộc nó ở trong sân.

- Họ tặng tôi cả con lừa và chiếc xe này. Họ nói, với những thứ ấy, tôi có thể kiếm sống dễ dàng. Sáng mai, một người cùng quê với tôi sẽ đến đây chỉ cho tôi.

Dân Tàu, làm gì cũng mau thật.

Guittou bằng lòng cho chiếc xe và con lừa được ở tạm trong sân. Ngày tự do đầu tiên của chúng tôi trôi qua tốt đẹp. Buổi tối, sáu chúng tôi ngồi quanh bàn làm việc, ăn ngon lành món xúp rau, do Julot nấu, và một đĩa mì ống.

- Lần lượt, mỗi người thay phiên nhau dọn nhà và rửa bát chén- Guittou nói.

Bữa ăn chung này tượng trưng cho một tập thể nhỏ đầy nhiệt tình. Cảm giác biết mình được giúp đỡ trong bước đầu của cuộc đời tự do làm chúng tôi vững lòng. Quých, anh cụt và tôi thấy sung sướng thật sự và hoàn toàn. Chúng tôi có một mái nhà, một cái giường, những người bạn hào phóng, tuy nghèo nhưng cũng có tinh thần cao thượng đã giúp đỡ chúng tôi. Còn cần đòi hỏi gì hơn nữa?

- Đêm nay, cậu có muốn làm gì không. Papillon? - Guittou hỏi tôi. - Cậu muốn đến quán rượu ở trung tâm, nơi các tay tù vượt ngục đều tới không?

- Tôi thích ở nhà đêm nay hơn. Anh muốn đi thì cứ đi. Mặc tôi.

- Được tôi sẽ đi vì tôi cần gặp một người.

Tôi sẽ ở lại với Quých và anh cụt.

Louis nhỏ và Guittou ăn mặc chỉnh tề, thắt và vạt và đi về phía trung tâm. Chỉ có Julot ở lại để làm nốt vài đôi giày cho xong. Các bạn tôi và tôi đi một vòng quanh các đường phố lân cận cho biết. Tất cả dân ở đây đều là người Ấn Độ. Rất ít người da đen, hầu như không có dân da trắng, rải rác có vài tiệm ăn Tàu.

Penitence Rivers, tên khu phố này, là một góc nước Ấn Độ hay xứ Nam Dương. Các thiếu phụ và thiếu nữ đều rất đẹp, và các ông cụ đều mặc áo dài trắng. Nhiều người đi chân đất. Khu phố nghèo nhưng mọi người đều ăn mặc sạch sẽ. Đường phố thiếu đèn, những quán ăn, uống, đều đông nghẹt người, đâu đâu cũng nghe thấy âm nhạc Ấn Độ.

Một người da đen bồ hóng mặc đồ trắng, thắt và vạt chặn tôi lại:

- Ông là người Pháp phải không, thưa ông?

- Phải.

- Được gặp người đồng hương, tôi mừng lắm. Mời ông muốn một ly với tôi.

- Cũng được, nhưng tôi còn hai người bạn.

- Không sao, họ có nói được tiếng Pháp không?

- Được.

Cả bốn chúng tôi vào ngồi một bàn kê bên lề đường, trước một quán rượu. Anh chàng Martinique này nói một thứ tiếng Pháp còn chọn lọc hơn chúng tôi. Anh bảo chúng tôi phải đề phòng bọn da đen Anh, vì theo anh, họ đều nói dối.

- Chúng nó không như người Pháp chúng ta đâu, chúng ta chỉ nói một lời, bọn chúng không như vậy.

Tôi cười thầm vì thấy anh chàng đa đen Tombouctou này tự xưng là người Pháp chúng ta, song tôi lại thực sự lúng túng. Đúng m- xừ này là một người Pháp, chính cống hơn tôi, tôi nghĩ vậy, vì anh ta nhận quốc tịch mình một cách đầy nhiệt tình và tin tưởng. Anh ta có thể chết vì nước Pháp, còn tôi thì không. Do đó anh ta Pháp hơn tôi. Cho nên tôi cũng phụ họa theo anh.

- Được gặp đồng hương và nói tiếng mẹ đẻ tôi rất thích vì tôi nói tiếng Anh tồi lắm.

- Còn tôi, tôi nói được, tôi nói tiếng Anh thạo và đúng văn phạm nữa. Anh cần gì, tôi sẵn sàng giúp anh. Anh ở thành phố George này đã lâu chưa?

- Mới được tám ngày, không hơn.

- Anh ở đâu đến?

- Ở Guyane thuộc Pháp.

- Không thể thế được, anh là dân vượt ngục hay là người coi tù chạy theo De Gaulle?

- Tôi vượt ngục.

- Còn các bạn anh?

- Cũng vậy.

- Henri ơi, tôi không muốn biết quá khứ của anh, bây giờ là lúc phải giúp đỡ nước Pháp để chuộc tội. Tôi theo De Gaulle và tôi đang chờ tàu để sang Anh đây.

- Ngày mai anh lại tìm tôi ở Câu lạc bộ Martiner nhé. Địa chỉ đây. Tôi rất sung sướng nếu anh cùng tham gia với chúng tôi. Anh tên là gì?

- Homère.

- Me-xừ Homère ơi, tôi không thể quyết định ngay được. Tôi phải tìm hiểu tình hình gia đình tôi và suy xét kỹ trước khi quyết định một việc quan trọng như vậy ông Homère ơi, nước Pháp đã làm tôi đau khổ và đối xử với tôi vô nhân đạo lắm.

Anh chàng Martinique đã cố thuyết phục tôi với tất cả nhiệt tình sôi nổi vô hạn độ của trái tim anh. Nghe những lý lẽ của con người này đi bảo vệ nước Pháp đã bị tàn phá của chúng tôi, thật vô cùng cảm động.

Chúng tôi về nhà rất muộn và khi đi nằm, tôi nghĩ lại rất cả những gì người dân Pháp lớn đó đã nó với tôi tôi phải suy nghĩ đứng đắn về đề nghị của anh tạ Nói cho cùng thì bọn cảnh sát, bọn quan tòa, chính quyền nhà tù đâu phải là nước Pháp. Tôi cảm thấy mình vẫn còn rất yêu nước Pháp. Thế mà lại có bọn Đức trên đất Pháp. Trời ơi, những người thân của tôi đau khổ biết bao nhiêu, và đối với tất cả những người dân Pháp, thật là nhục nhã biết chừng nào.

Khi tôi tỉnh dậy, con lừa, chiếc xe ba gác, con heo, Quých và anh cụt đã biến đâu mất.

- Cậu ngủ ngon chứ? - Guittou và các bạn anh hỏi.

- Ngủ say lắm, cảm ơn.

- Cậu muốn uống cà phê sữa hay trà? Cà-phê với bánh mì phết bơ.

- Cảm ơn!

Tôi vừa ăn vừa xem họ làm việc.

Julot chuẩn bị balata dần dần theo nhu cầu cần thiết, anh ta bỏ thêm những tảng balata rắn chắn vào nước nóng và nhào lẫn với cái khối đã mềm.

Louls nhỏ chuẩn bị sẵn những mảnh vải, còn Guittou hoàn tất chiếc giày.

- Các anh làm được nhiều không?

- Không. Bọn mình làm đủ kiếm hai mươi đô-la một ngày. Trả tiền nhà và ăn năm đô-la. Còn lại cho mỗi đứa năm đô-la làm tiền túi, may mặc và tiền hớt tóc.

- Các cậu bán hết à?

- Không, thỉnh thoảng, một đứa trong bọn mình phải đi bán giày và chổi ở các đường phố: Đi bán dạo như vậy, dưới nắng, gay lắm.

- Nếu cần, tớ cũng muốn cùng làm với các cậu ở đây tớ không thích là kẻ ăn bám. Tớ cũng phải góp phần vào bữa ăn chứ.

- Tốt thôi, Papi.

Suốt ngày, tôi đi dạo ở khu phố người ấn của thành phố George. Tôi trông thấy một bảng quảng cáo chiếu bóng và thấy thèm xem một phim màu, có tiếng nói, lần đầu tiên trong đời. Chiều nay tôi sẽ bảo Guittou dẫn tôi đi coi. Tôi đi trên đường Penitence Rivers suốt cả ngày. Thái độ lịch thiệp của những người dân ở đó làm tôi mến họ vô cùng. Họ có hai đức tính: họ rất sạch và rất lễ độ. Cái ngày thơ thẩn một mình tại đường phố ở khu này của thành phố George đối với tôi còn lớn lao hơn nhiều so với ngày tôi đến Trinidad chín năm trước.

Ở Trinidad, giữa những cảm giác kỳ diệu do được đi lẫn trong đám đông, tôi luôn luôn tự nhủ: một ngày nào, trong hai tuần lễ nữa là nhiều nhất, tôi lại phải ra đi trên biển. Nước nào sẽ vui lòng nhận tôi? Có quốc gia nào cho tôi cư trú không? Tương lai sẽ ra sao? Ở đây khác hẳn. Tôi được hoàn toàn tự do, và nếu tôi muốn, tôi có thể sang Anh, tham gia các lực lượng tự do nước Pháp. Tôi phải làm gì? Nếu tôi quyết định đi theo De Gaulle, người ta có thể nói là tôi chẳng biết đi đâu nên phải đâm đầu vào đấy? Giữa những người lành mạnh, biết đâu họ sẽ chỉ coi tôi như một tên tù khổ sai chẳng ẩn náu được vào đâu, nên phải đến với họ? Người ta đồn là nước Pháp bị chia ra làm hãi, một bên theo Pétain và bên kia theo De Gaulle. Sao một thống chế Pháp lại không biết đâu là danh dự và quyền lợi của nước Pháp nhỉ? Nếu tôi tham gia các lực lượng tự do sau này, tôi có phải bắn vào những người Pháp không? Ở đây thật là khó, rất khó tạo cho mình một chỗ đứng tạm chấp nhận được. Guittou, Julot và Louis nhỏ không phải là những thằng đần, mà họ vẫn làm việc để kiếm năm đô-la một ngày. Trước hết, tôi phải tập sống tự do đã. Từ năm 1931 - bây giờ là 1942 - tôi là tù nhân. Tôi không thể giải quyết được những ẩn số trong ngày tự do đầu tiên. Tôi không còn biết có những vấn đề gì được đặt ra cho một người muốn tạo cho mình một chỗ đứng trong cuộc sống. Tôi chưa bao giờ làm việc bằng tay của mình. Tôi chỉ là một anh thợ điện quèn. Tôi chỉ tự hứa với mình một điều duy nhất: sống sao cho sạch sẽ, ít ra cũng sạch sẽ nhất trong khuôn khổ đạo đức của riêng mình.

Tôi về đến nhà thì đã mười bốn giờ.

- Thế nào Papi, lần đầu tiên hít không khí tự do khoái chứ? Cậu đi chơi vui hả?

- Hay lắm, Guittou ơi, tôi cứ quanh di quẩn lại mãi trên các đường phố ở vùng ngoại ô lớn này.

- Anh có gặp bọn Tàu không?

- Không.

- Họ ở ngoài sân. Các bạn anh rất tháo vát. Họ đã kiếm bốn mươi đô-la và họ nhất định bắt tôi phải nhận hai mươi đô. Tất nhiên, tôi không chịu. Anh ra mà xem.

Quých đang thái một cây bắp cải cho con heo của anh ăn. Anh cụt đang kỳ cọ con lừa. Nó cứ đứng yên, có vẻ thích cho lắm.

- Thế nào Papillon?

- Tốt, còn các anh ra sao?

- Chúng tôi thích lắm, chúng tôi đã kiếm được bốn mươi đô-la.

- Các anh làm gì?

- Chúng tôi đi từ ba giờ sáng về vùng quê với một người đồng hương để anh ta chỉ dẫn cho. Anh ta mang theo hai trăm đô-la. Với số tiền ấy, chúng tôi mua cà chua, rau xà-lách, cà tím, nghĩa là các loại lau tươi và xanh. Vài con gà, trứng và sữa dê. Chúng tôi mang ra chợ ở gần bến tàu và thoạt tiên chúng tôi bán cho người ở đây bán lẻ ít một, sau bán cho thủy thủ Mỹ. Họ bằng lòng về giá cả và họ bảo tôi là ngày mai, tôi không phải vào chợ nữa, tôi cứ đợi ở cổng trước bến. Họ sẽ mua tất cả cho. Tiền đây. Anh là người chỉ huy, anh cầm lấy tiền.

- Quých, anh biết là tôi cũng có tiền, tôikhông cần đến món tiền này.

- Anh cứ giữ lấy. Nếu không, chúng tôi không làm việc nữa.

- Các anh hãy nghe tôi. Người Pháp có năm đô-la là sống được rồi. Chúng ta mỗi người cũng lấy năm đô-la để riêng cho mình, năm đô-la góp tiền ăn. Còn lại ta cất đi để trả nợ cho đồng hương các anh số hai trăm đô-la mà họ cho anh mượn.

- Đồng ý.

- Ngày mai, tôi muốn đi với các anh.

- Không, anh cứ ngủ. Nếu anh muốn, bảy giờ sáng anh tìm chúng tôi trước cổng bến tàu.

- Được.

Mọi người đều vui vẻ. Trước tiên, chúng tôi thấy đã kiếm sống được, không còn là gánh nặng cho các bạn. Sau Guittou và hai anh kia, họ tuy tốt thật, nhưng họ cũng phải lo không biết bao nhiêu lâu nữa chúng tôi mới có thể tự đi kiếm sống được.

- Để ăn mừng việc làm phi thường này của bạn anh, Papillon ơi, chúng ta phải uống hai lít rượu.

Julot đi một lát thì về, mang theo rượu mía trắng và đồ nhắm: Một giờ sau, chúng tôi uống rượu như ở Marsille. Rượu vào lời ra, và những tiếng cười vui đời vang lên giòn giã hơn thường lệ. Những người ân hàng xóm nghe nói ở bên nhà người Pháp có tiệc cũng sang chơi tự nhiên, có ba người đàn ông và hai cô gái. Họ mang những xiên thịt gà và thịt dê được tẩm rất nhiều tiêu ớt. Hai cô gái đẹp lạ thường, cả hai mặc toàn trắng, đi chân đất, cổ chân trắng đeo vòng bạc. Guittou nói với tôi:

- Cẩn thận, con gái trinh nguyên cả đấy. Anh đừng vì thấy họ để ngực trần dưới tấm voan mỏng trong mà ăn nói sàm sỡ với họ. Đối với họ thế là tự nhiên. Tôi thì không sao, tôi già rồi. Hồi mới tới đây, Julot và Louis nhỏ đã thử bờm sơm chút đỉnh, cả hai đã lãnh đủ. Các cô này không chịu sang đây từ lâu rồi.