Lang Gia Bảng (Tập 3) - Chương 45 - Phần 01

Chương 45

Gió lạnh đầy lầu

Nhưng hôm đó Phi Lưu không thể đợi được Tĩnh vương trong mật thất, bởi vì Tiêu Cảnh Diễm vốn không ở trong phủ.

Vụ huyết chiến xảy ra ngoài cửa thành tây đó, mặc dù trước đó tuần phòng doanh không hề biết nhưng khi đã xảy ra rồi thì không thể không nghe tin được.

Tĩnh vương nhanh chóng nhận được bẩm báo về việc Huyền Kính ti áp giải trọng phạm vào kinh và bị tấn công ở cửa thành.

Có điều do Huyền Kính ti trực thuộc ngự tiền, là một cơ quan độc lập, thường không thông báo với các phủ ti về công việc của mình nên lúc đầu Tĩnh vương không hề quá để ý đến chuyện này mà chỉ dặn dò thống lĩnh tuần phòng doanh Âu Dương Kích lưu tâm, nếu Huyền Kính ti tiến hành vây bắt nghi phạm cướp tù chạy trốn thì trừ phi có minh chỉ, nếu không phải thông qua tuần phòng doanh để điều phối công việc, không được tự ý nhiễu dân. Sau đó Tĩnh vương liền ra ngoài, đi thăm hoàng thúc Lật vương đang mắc bệnh nặng.

Khác hẳn lúc đầu bị thất sủng, giờ đây thân phận của Tiêu Cảnh Diễm đã không thể đánh đồng với trước kia. Các tôn thất triều thần khác đến Lật vương phủ thăm bệnh thấy hắn đều phải đến hàn huyên, sau khi nấn ná tiếp khách một hồi thì đã là buổi chiều.

Lúc này Âu Dương Kích đến bẩm báo, nói là bên phía Huyền Kính ti không liên lạc tới, cũng không tự ý tiến hành lùng bắt trong kinh thành mà có vẻ không hề để ý tới đám nghi phạm chạy trốn, ngược lại đã tập trung đại bộ phận binh lính phong tỏa trông coi gã trọng phạm mới áp giải vào thành.

Đến lúc này, trong lòng Tĩnh vương mới bắt đầu nghi ngờ, ngẫm nghĩ nửa ngày cũng không nghĩ ra gã trọng phạm kia có thể có liên quan gì tới những chuyện gần đây.

Nhưng hắn xưa nay vẫn luôn xích mích với Huyền Kính ti, biết có sai người đến hỏi cũng chỉ tự làm mất mặt, hơn nữa do năm nay không còn Thái tử nên rất nhiều trình tự của buổi tế lễ cuối năm đã được thay đổi. Hoàng đế Đại Lương lệnh cho hai thân vương là hắn và Dự vương cùng phụ lễ. Hắn lại khác Dự vương, nhiều năm không chen chân vào cao tầng của triều đình nên không quá quen thuộc các lễ nghi này, phải mời thượng thư bộ Lễ mới kế nhiệm là Liễu Ký đích thân kèm cặp, bây giờ đang là lúc bận rộn nhất, vì vậy dù có nghi hoặc nhưng cuối cùng vẫn không điều tra rõ ràng, chỉ dặn dò Âu Dương Kích tiếp tục theo dõi tình hình rồi đi vào nội thư đình.

Sau khi tập các loại nghi lễ gần một canh giờ, mặc dù Tĩnh vương chưa hề mệt mỏi nhưng Liễu thượng thư hơn sáu mươi tuổi đã thở hồng hộc. Ông ta là đường đệ của Trung thư lệnh Liễu Trừng, xuất thân thế tộc, danh vọng trong triều không thấp, đãi ngộ từ trước đến nay đều không hề khác biệt so với các hoàng tử. Tĩnh vương cũng chưa hề có ý lôi kéo ông ta, chỉ có điều lúc này thông cảm người già sức yếu nên cũng lấy cớ cần thỉnh giáo quy chế các đời để mời ông ta ngồi xuống nghỉ ngơi, không ngờ trò chuyện một hồi lại thấy rất hợp nhau.

Thực ra trong chuyện này Tĩnh vương có một lợi thế rất lớn, đó chính là xưa nay ấn tượng hắn để lại cho các triều thần đều là cảm giác lạnh lùng, cứng nhắc, chỉ am hiểu chuyện vũ lực, không hiểu chuyện văn trị. Nhưng thực ra từ khi còn bé, Tĩnh vương đã được thụ giáo mẫu thân và Thần phi ở trong cung, sau khi lớn lên lại được đại hoàng tử Kỳ vương đích thân dạy bảo, nền tảng không hề mỏng, chẳng qua năm đó bị gã Lâm Thù thiếu soái Xích Diễm kỳ tài ngút trời, tự do phóng khoáng kia lấn át nên mới không được mọi người chú ý đến mà thôi.

Khoảng mười năm sau khi vụ án phản nghịch của Kỳ vương xảy ra, Tiêu Cảnh Diễm quả thật đã cực kì chán ghét triều đình, cho nên chính hắn cũng bị phụ hoàng trục xuất ra ngoài, tài năng mặt này cũng trở thành vô dụng.

Nhưng bất kể thế nào thì hắn cũng từng được bậc túc nho dạy bảo, được danh thần chỉ dẫn, cùng học tập với Lâm Thù, hơn nữa học hành cũng không hề thua kém. Nếu chỉ nghĩ hắn là một gã võ phu thì đương nhiên sau khi quen thân sẽ không khỏi cảm thấy kinh ngạc và bất ngờ.

Tới gần tối Tĩnh vương mới rời khỏi nội thư đình, tình cờ gặp Mông Chí bên ngoài cung thành, nhân tiện hỏi Mông Chí có biết Huyền Kính ti bắt được người nào hay không, Mông Chí hoàn toàn không biết, hai người chỉ nói chuyện vài ba câu rồi ai đi đường nấy.

Sau đó Tĩnh vương liền đi thẳng về vương phủ của mình.

Đáng tiếc là một khắc trước khi hắn đi vào tẩm phòng, Phi Lưu lần thứ ba vào mật thất gõ cửa mà không thấy có ai trả lời cũng vừa quay về, thời gian chỉ sai biệt có một chút. Mà đến đêm sau khi bệnh tình trở nên nặng hơn, Mai Trường Tô cũng không còn sức lực để sai Phi Lưu đi tìm người lần thứ tư nên đêm đó hai người không thể gặp nhau.

Sáng sớm hôm sau, Tĩnh vương vào cung vấn an.

Vì đã là cuối năm nên từ hai ngày trước triều đình đã phong ấn miễn triều, các hoàng tử ngày ngày vào vấn an đều đi thẳng tới điện Vũ Anh nên lúc Tĩnh vương đi vào lại gặp người đã lâu không gặp là Dự vương, cũng không biết là khéo hay không khéo.

“Cảnh Diễm đến rồi à?” Dự vương tươi cười chào đón, cầm tay Tĩnh vương, trông như huynh đệ thân thiết. “Xem ngươi mặt mày hồng hào, tối qua nhất định là ngủ rất ngon đúng không?”

Tĩnh vương xưa nay vẫn không thích lá mặt lá trái với hắn, Mai Trường Tô cũng không cảm thấy ngoài mặt hi hi ha ha với Dự vương thì có ích lợi gì, trong tình huống hai người cùng thống nhất ý kiến như vậy, thái độ của Tĩnh vương khi gặp Dự vương dù chưa đến mức thất lễ nhưng cũng khó tránh khỏi lãnh đạm, chẳng hạn như lúc này, hắn cũng chỉ hơi cúi người thi lễ, sau đó nhẹ nhàng rút bàn tay đang bị Dự vương nắm về.

“Nào nào, chúng ta cùng đi vào, nghe nói hôm nay phụ hoàng rất vui vẻ.” Dự vương sớm đã quen với thái độ không mặn không nhạt của hắn nên không hề để ý. Hắn đưa tay mời, hai người vai sánh vai cùng cất bước đi vào điện Vũ Anh.

Lúc này, trong điện có ba người, Hoàng đế Đại Lương, thủ tôn Huyền Kính ti Hạ Giang và thống lĩnh cấm quân Mông Chí. Xem ra bọn họ vừa mới bàn bạc về chuyện gì đó, một người tựa vào ngai rồng bóp trán trầm tư, một người chậm rãi vuốt râu như cười như không, còn một người trên mặt không có biểu cảm gì, nhưng da mặt rõ ràng đang căng hết cỡ.

Lúc hai vị thân vương đi vào, Hạ Giang nhìn Dự vương, hơi gật đầu, còn Mông Chí thì cau mày với Tĩnh vương.

“Nhi thần vấn an phụ hoàng.” Hai huynh đệ cùng quỳ gối thi lễ.

“Ờ, ngồi đi!” Hoàng đế Đại Lương day day huyệt thái dương, chậm rãi ngẩng lên nhìn hai con trai trước mặt. Dự vương và Tĩnh vương phục sức giống hệt nhau, càng có vẻ giống như huynh đệ, dáng người và tướng mạo cũng không sai biệt nhiều, chỉ có điều một người rắn rỏi, trầm mặc, còn người kia thì khôn ngoan, lanh lợi.

Vị Hoàng đế Đại Lương này mười mấy năm qua luôn thiên vị Dự vương, đến gần đây mới bất mãn vì dã tâm của Dự vương quá lớn nên cố ý giảm chút ân sủng, dù trong lòng vẫn còn sủng ái. Còn Tĩnh vương sau khi có cơ hội làm cho ông ta chú ý thì hành sự ngày càng hợp ý ông ta, ngày càng giành được nhiều thiện cảm, cho nên lúc này nhìn hai đứa con, chính Hoàng đế Đại Lương cũng không thể nói được là mình yêu quý đứa nào hơn.

Đột nhiên nghĩ đến Kỳ vương, nghĩ đến đứa con lớn ưu tú đến mức khiến ông ta không thể khống chế được kia, Hoàng đế Đại Lương chợt thấy trong lòng đau đớn, không biết là vì tuổi già hay là vì Hạ Giang vừa kéo ra những ký ức ông ta đã cố ý xóa nhòa.

“Phụ hoàng sao vậy?” Dự vương ân cần cúi người đi tới. “Chẳng lẽ vừa rồi phụ hoàng đang thảo luận chuyện gì khó khăn? Nhi thần có thể san sẻ với phụ hoàng không?”

Hoàng đế Đại Lương phất phất tay. “Tết nhất thì có chuyện gì khó khăn chứ?”

“Đúng vậy.” Hạ Giang thấy Hoàng đế Đại Lương nói đến đây rồi không có ý nói tiếp liền đỡ lời: “Tết là ngày lành, đâu có chuyện khó khăn gì? Chuyện bắt được phạm nhân phản nghịch trốn chạy nhiều năm thực ra chính là một điềm lành.”

“Phạm nhân phản nghịch?” Dự vương ra vẻ kinh ngạc. “Gần đây có vụ án phản nghịch nào? Tại sao ta không biết?”

Hạ Giang cười ha ha. “Điện hạ đương nhiên biết, chỉ có điều không phải vụ án gần đây mà là từ mười ba năm trước đây.”

“A, ý thủ tôn là...” Dự vương vừa tiếp lời vừa liếc nhìn Tĩnh vương.

Tĩnh vương nghe vậy quả nhiên ngẩng đầu, ánh mắt bốc lửa nhìn Hạ Giang.

“Mười ba năm trước đây còn có vụ nào khác nữa? Đương nhiên là vụ án Xích Diễm rồi.” Hạ Giang nói với giọng rất thoải mái. “Xích Diễm quân thông địch phản quốc, tội danh đã định. Chỉ có điều năm đó, lúc bao vây tiêu diệt bọn chúng ở Mai Lĩnh thì trời lại có tuyết lớn rồi chuyển thành bão tuyết, trong số mười bảy tướng lĩnh của quân phản nghịch mà bệ hạ giáng chỉ cần tróc nã thì chỉ bắt sống được bốn tên, tìm được mười một thi thể, còn hai tên không biết là trốn được hay đã chết mất xác rồi. Vì thế nhiều năm qua Huyền Kính ti chưa hề dám lười nhác. May mà có thánh đức của Hoàng thượng ban phúc, lưới trời khó thoát, mười ba năm sau Huyền Kính ti lại bắt được một tên nghịch phạm trong đó.”

“Là ai thế?”

Hạ Giang liếc Tĩnh vương, lạnh lùng nói: “Nguyên phó tướng Xích Vũ doanh, Vệ Tranh.”

Hai tay Tĩnh vương đặt trên đầu gối đã không kìm được nắm chặt thành nắm đấm, trong lồng ngực như có một trận cuồng phong.

Nhưng hắn đã bị chèn ép suốt mười năm, dạo này lại được tôi luyện rất nhiều, không còn là thiếu niên lỗ mãng trước kia nên chỉ cắn răng, hạ thấp mí mắt để che khuất ngọn lửa đang cháy bùng trong mắt.

“Ai da, đây quả nhiên là chuyện tốt!” Âm điệu cố ý nâng cao của Dự vương nghe có vẻ sắc bén mà chói tai. “Nhi thần chúc mừng phụ hoàng! Nghịch phạm lẩn trốn hơn mười năm cuối cùng cũng vẫn sa lưới, thật sự có thể tỏ rõ thịnh uy của triều đình ta. Gã Vệ Tranh này nhất định phải công khai xử trọng hình mới có thể răn đe những kẻ có lòng bất trung trong thiên hạ.”

Hạ Giang giả bộ suy tư một hồi rồi mới chậm rãi tán đồng: “Dự vương điện hạ quả nhiên phản ứng nhanh nhạy, ngẫm nghĩ thì quả thật đúng như thế. Hễ là những kẻ nghịch tặc ăn ở hai lòng thì giáo hóa đều là vô dụng, nhất định phải trừng phạt thật nặng thì mới có thể khiến thiên hạ e dè. Phạm nhân Vệ Tranh chạy trốn hơn mười năm, chứng tỏ hắn không hề hối cải, thần cho rằng chém ngang lưng thị chúng là thích hợp nhất.”

Cơ mặt Tĩnh vương giật giật, hắn đột nhiên ngẩng lên định mở miệng nhưng Mông Chí đã quỳ xuống trước, nói: “Bệ hạ, bây giờ đang là ngày tết, lại trong lúc quốc tang, thật sự không nên thi hành hình phạt tàn khốc này!”

“Lời này của Mông thống lĩnh sai rồi.” Hạ Giang bình thản nói. “Mưu nghịch là tội không thể dung tha, có liên quan gì tới quốc tang chứ? Xử lý nghịch tặc nghiêm khắc, đối đãi trung lương nhân hậu, thuận thì hưng quốc, nghịch thì vong quốc, vậy mới là thuận ý trời, Tĩnh vương điện hạ thấy có đúng không?”

Hắn nhẹ nhàng đẩy vấn đề sang cho Tĩnh vương, nhất định phải ép Tĩnh vương mở miệng.

Mà Tĩnh vương đã mở miệng thì e rằng sẽ nói ra những lời không trái lương tâm, cũng có nghĩa là lời khó nghe.

Mông Chí cuống lên, muốn ngắt lời lần nữa nhưng lại sợ làm quá sẽ phản tác dụng. Trong lúc Mông Chí đang không biết phải làm sao thì Tĩnh vương đã khấu đầu, thản nhiên nói rõ ràng từng chữ: “Nhi thần có ý kiến khác.”

Lúc nói câu này, giọng của Tiêu Cảnh Diễm không lớn nhưng ngữ điệu lại lộ vẻ cương quyết, cứng rắn. Hai hàng lông mi đang cụp xuống của Hoàng đế Đại Lương lập tức run lên, đôi mắt đã có chút mờ đục mở to rồi khẽ nheo lại nhưng lại toát ra ánh sáng sắc bén, ánh mắt rơi vào gương mặt Tĩnh vương.

“Ngươi... có ý kiến gì?” Ngữ điệu kéo dài của Hoàng đế Đại Lương nghe không ra hỉ nộ nhưng rõ ràng chẳng có bao nhiêu thiện ý.

Dự vương ngồi bên trái ông ta lập tức cung kính điều chỉnh tư thế ngồi, khóe môi nhếch lên, có điều một thoáng đắc ý này lập tức bị chính hắn phát hiện và khống chế được.

Tĩnh vương lại không thèm nhìn Dự vương, chỉ khấu đầu lần nữa, trả lời: “Nhi thần cho rằng bất kể vụ án năm đó rốt cuộc như thế nào thì cũng là nỗi đau của hoàng thất, là tổn hại của triều đình, là họa chứ không phải phúc, tại sao giờ đây nhắc tới lại có thể vui vẻ như vậy, hoàn toàn không có chút buồn bã nào? Hạ thủ tôn làm việc luôn có tiếng lạnh lùng sắt đá, thật sự khiến người ta bội phục, nhưng giờ đây phụ hoàng cai trị không phải là thời loạn thế, sao có thể dùng mấy chữ trừng trị thật nặng được? Còn cái gọi là đạo hưng quốc, đạo vong quốc thì xưa có các bậc thánh hiền viết sách ghi lời, nay có phụ hoàng thánh minh tại thượng, Hạ thủ tôn lại hỏi ta có đúng không, làm sao ta dám trả lời Hạ thủ tôn?”

Tĩnh vương chưa bao giờ có tiếng là giỏi hùng biện lại có thể trả lời một câu cao tay như vậy khiến những kẻ đối nghịch với hắn cũng phải giật mình.

Dự vương ngồi thẳng lưng, đang định nghĩ cách bác bỏ mấy câu thì Hạ Giang đã bật cười ha ha, nói: “Nghị sự trước mặt bệ hạ, có chính kiến bất đồng cũng là chuyện thường. Nếu điện hạ không tán thành đề nghị của ta thì cứ việc phủ nhận là được, cần gì phải tức giận như vậy? Chẳng lẽ vừa rồi ta có câu nào chọc điện hạ không vui? Nếu vậy thì lão thần xin bồi lễ tạ tội.”

“Đúng vậy, Cảnh Diễm, ngươi...” Dự vương vội hùa theo, nhưng mới nói vài chữ đã thấy Hạ Giang liếc nhìn nên lập tức dừng lại.

Hắn là một người thông minh, chỉ giây lát đã hiểu Hạ Giang không muốn để hai người một nâng một đập quá ăn ý khiến Hoàng đế Đại Lương nghi ngờ, lời ra đến đầu lưỡi lại nuốt vào, cũng may là hắn chuyển giọng cực nhanh: “... Thực ra Cảnh Diễm nói cũng không sai, chẳng qua hơi nặng lời một chút. Có điều Hạ thủ tôn cũng thật đa nghi, ngươi biết tính tình Cảnh Diễm như thế, chẳng lẽ còn cho rằng hắn có ý khác?”

“Tĩnh vương điện hạ có ý khác hay không thì lão thần không biết, có điều vừa rồi Tĩnh vương điện hạ nói “bất kể vụ án năm đó thế nào” thì lão thần quả thật nghe không hiểu. Vụ án này do bệ hạ đích thân thẩm định, hoàn toàn không có khúc mắc gì, chẳng lẽ đến tận hôm nay mà điện hạ vẫn không phân biệt được rõ ràng hay sao?”

Thực ra lúc này Tĩnh vương chỉ cần giải thích vài câu như: “Không hề có ý này” hay: “Không phải có dị nghị gì về vụ án năm đó” thì chuyện này cũng coi như xong, Hạ Giang có là trọng thần nguyên lão thì cũng chỉ là hạ thần, không thể cố chấp theo sát không buông được. Nhưng Tĩnh vương vẫn là Tĩnh vương, sự kiên định và cố chấp suốt mười ba năm không phải có thể xóa nhòa trong vòng nửa năm ngắn ngủi, thậm chí có thể nói chính một số sự việc mới phát hiện gần đây đã khiến ngọn lửa kích động trong lòng hắn càng vượng hơn, cho nên lúc này mặc dù biết rõ Hoàng đế Đại Lương bề ngoài như không bận tâm thực ra đang chờ xem phản ứng của hắn, nhưng nếu bắt hắn bất chấp bản tâm của mình để nói ra những lời xu nịnh thì Tiêu Cảnh Diễm thật sự không làm được.

“Chuyện năm đó xảy ra thế nào, thực sự ta không biết. Ta chỉ biết khi ta phụng chỉ đi sứ Đông hải, Kỳ vương vẫn là hiền vương được thiên hạ kính trọng, Lâm soái vẫn là trung thần công huân cao ngất, Xích Diễm quân vẫn là hùng binh bảo vệ biên giới phía bắc Đại Lương. Nhưng lúc ta trở về lại được cho biết rằng bọn họ đã trở thành nghịch tử, phản thần, tội nhân, người thì chết, người thì vong, ngoài mồ hoang và linh bài, thậm chí ngay cả một cái xác ta cũng không được nhìn thấy, vậy thì làm sao ta có thể phân biệt rõ ràng?”

“Thì ra là thế.” Hạ Giang gật đầu, vẻ mặt không hề thay đổi. “Thì ra trong lòng điện hạ, chỉ cần có đức danh của hiền vương, có quân công cao lấn chủ, có hùng binh là không thể mang lòng mưu nghịch hay sao?”

Sau câu hỏi ác ý này của Hạ Giang, Mông Chí cố hết sức liếc mắt với Tĩnh vương, ra hiệu cho hắn hãy tỉnh táo một chút.

Nhưng máu nóng đã sôi trào thì rất khó có thể nguội được, khi vết thương đau đớn, sâu thẳm nhất trong đời bị người khác đạp dưới chân, Tiêu Cảnh Diễm ba mươi hai tuổi thật sự không thể giữ mình nhẫn nhịn được. “Cái gọi là mưu nghịch không có chứng cứ xác thực, những gì ta nhìn thấy chỉ là một bản tấu chương bẩm báo vụ án của Hạ thủ tôn nhà ngươi mà thôi.”

“Sao lại có thể như thế được? Ngươi chỉ nhìn thấy tấu chương bẩm báo vụ án của Hạ thủ tôn?” Dự vương nói xen vào với giọng nhã nhặn. “Cảnh Diễm, chẳng lẽ ngay cả chiếu thư xử trí do phụ hoàng đích thân ban hạ mà ngươi cũng không nhìn thấy sao?”

Nghe đến đây, Hoàng đế Đại Lương đang ngả người dựa vào gối cuối cùng cũng đặt bàn tay đang chống cằm xuống, ngồi thẳng người, nhìn thẳng vào mắt Tĩnh vương, nói chậm rãi: “Cảnh Diễm, về cách xử trí vụ án Xích Diễm... Ngươi có gì bất mãn sao?”

Câu này mặc dù nghe rất bình thường nhưng nghĩ kĩ thì thấy rất nặng nề, Tĩnh vương lập tức chuyển từ ngồi thành quỳ, cúi sát xuống đất, nhưng lúc ngẩng lên thì lời nói vẫn không có ý nhượng bộ.

“Không phải nhi thần có bất mãn gì với phụ hoàng, nhi thần chỉ cho rằng, Kỳ vương xưa nay...”

“Là dân đen Tiêu Cảnh Vũ!” Hoàng đế Đại Lương đột nhiên nổi giận, cao giọng nói. “Còn cái gì mà Lâm soái, đó là nghịch thần Lâm Tiếp! Ngươi còn không học được cách xưng hô tấu biểu trước mặt vua hay sao?”

Tĩnh vương cắn môi thật chặt, dấu răng ngập sâu, cơ mặt co rút mới bớt căng cứng một chút.

Mông Chí lập tức quỳ xuống, bẩm: “Bệ hạ, Tết sắp đến rồi, xin bệ hạ tạm nguôi cơn giận của thiên tử để tạo phúc dân sinh...”

“Cảnh Diễm cũng nói ít thôi.” Dự vương cũng nhỏ giọng khuyên nhủ. “Trước mặt ta và ngoại thần, sao lại chống đối phụ hoàng như vậy chứ?”

Thực ra từ lúc bắt đầu tranh luận tới nay, Tĩnh vương chỉ nói hai câu với Hoàng đế Đại Lương, hai câu này đều không có gì gọi là chống đối, nhưng Dự vương chụp tội danh này xuống, dường như bất cứ câu nào Cảnh Diễm nói đều là cố ý nhằm vào Hoàng đế, thật sự là một chiêu mềm dẻo mà thâm độc.

Trên trán Mông Chí đã bắt đầu đổ mồ hôi, nhưng ông ta cũng không phải một người nhanh trí, nhất thời đâu nghĩ được cách nào để hóa giải cục diện hiện nay, chỉ có thể lo lắng suông trong lòng mà thôi.

“Bệ hạ...” Cao Trạm vẫn quỳ hầu trong góc điện lúc này mới nhẹ nhàng bò tới, ghé vào bên tai Hoàng đế Đại Lương, nói nhỏ: “Nô tài bạo gan nhắc nhở bệ hạ, đã đến giờ bệ hạ ngâm chân thuốc nước hằng ngày rồi, Chỉ La cung đã đưa tin, Tĩnh phi nương nương đã chuẩn bị xong xuôi...”

Hoàng đế Đại Lương ngực vẫn phập phồng, đưa mắt nhìn những người ngồi dưới đang có những vẻ mặt khác nhau... Mông Chí lo sợ bất an, Dự vương cố gắng tỏ ra bình thản, kính cẩn, Hạ Giang mặt không biểu cảm và cả Tĩnh vương đang quỳ, không tiếp tục biện bạch nhưng cũng không hề thỉnh tội.

Vị Hoàng đế già đã quá tuổi nhĩ thuận[1] đột nhiên cảm thấy nản lòng, nhắm mắt lại, phất phất tay, nói: “Lui ra đi, tất cả đều lui ra đi...”

[1]. Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận.

Dự vương có chút thất vọng, vốn muốn nói thêm mấy lời nữa nhưng bị Hạ Giang đưa mắt cản lại nên đành nhẫn nhịn, cùng những người khác thi lễ rồi lui ra.

Ra tới ngoài điện, Tĩnh vương sầm mặt không thèm nhìn hai người bên cạnh mà rảo bước đi ngay.

Trong nhiều năm tranh đấu với Thái tử, Dự vương đã quen với môn Thái cực hòa thuận bề ngoài, rất không quen với phong cách lạnh lùng, kiêu ngạo này. Hắn ngơ ngác nhìn bóng lưng Tĩnh vương, hồi lâu sau mới giậm chân, quay lại nói: “Hạ thủ tôn, ngươi xem hắn như vậy...”

“Cũng không mất chính trực. Điện hạ an tâm chớ vội, lão thần cũng cáo lui.” Hạ Giang lại trả lời một câu ngắn gọn rồi chắp tay, lui lại.

Dự vương biết vì sao hắn cẩn thận như thế, hắn nhìn quanh một vòng, không nói thêm nữa, chào đáp lễ rồi cáo lui.

Ba người vừa đi được một lát thì liễn của Hoàng đế đã được khiêng tới trước điện Vũ Anh. Cao Trạm cẩn thận dìu Hoàng đế Đại Lương đi ra, trèo lên liễn đi đến Chỉ La cung.

Mấy tháng gần đây chứng phong thấp của Hoàng đế Đại Lương phát tác, thường xuyên đau đớn, thái y kê thuốc nhưng cũng không có hiệu quả, chỉ có liệu pháp ngâm thuốc của Tĩnh phi là có thể khiến những cơn đau thuyên giảm. Vì vậy ngày nào ông ta cũng ngâm thuốc đúng giờ, vừa rồi Cao Trạm nhắc nhở cũng không phải bịa đặt, chẳng qua thời điểm nhắc nhở có chút khéo léo mà thôi.

Đương nhiên Tĩnh phi không biết những sóng gió ở điện Vũ Anh, có điều dù biết thì thái độ bình thản, thờ ơ của bà cũng chưa chắc đã có gì thay đổi.

Sau khi tiếp giá vào cung, ngoài những lễ nghi cần có, bà không hề nhiều lời nửa chữ, chỉ bận rộn hầu hạ Hoàng đế ngồi dựa vào ghế mềm, tháo giầy cởi tất, ngâm chân xoa bóp cho ông ta.

Thường ngày, những lúc như thế này Hoàng đế Đại Lương sẽ nói với bà mấy lời câu được câu chăng để giải buồn, có điều hôm nay tâm tình ông ta không tốt, vừa ngồi xuống đã nhắm mắt lại như đang ngủ, chỉ có những nếp nhăn trên trán cho thấy trong lòng ông ta đang không vui.

Tĩnh phi cũng không hỏi nguyên do, thấy ông ta nhắm mắt liền cầm khăn mềm ủ hương ngâm nước nóng, gấp thành dải nhẹ nhàng đắp lên mắt cho ông ta, cứ cách nửa khắc lại thay một chiếc khăn khác. Sau khoảng hơn nửa canh giờ ngâm chân xong, Tĩnh phi đi đôi tất trắng bằng vải bông mềm cho Hoàng đế, đặt hai chân ông ta lên ghế dài mới được cung nữ mang đến, gót chân hơi kê cao rồi bắt đầu xoa bóp bàn chân.

Trong lúc bà đang bận rộn, Hoàng đế Đại Lương đột nhiên đưa tay bỏ chiếc khăn trùm mắt ra, cúi người nắm lấy cổ tay Tĩnh phi, kéo bà tới trước mặt mình, gọi một tiếng: “Tĩnh phi!”

“Dạ!” Tĩnh phi ngoan ngoãn để ông ta kéo tới. “Bệ hạ có gì phân phó?”

“Nàng nói với trẫm, nàng nghĩ thế nào về án phản nghịch của Xích Diễm năm đó?”

Nghe thấy câu hỏi bất ngờ này, đôi mắt lúc nào cũng phẳng lặng như nước của Tĩnh phi cũng thoáng rung động, bà chần chừ hỏi lại: “Sao bệ hạ lại hỏi như vậy...”

“Nàng cứ trả lời trẫm đi, rốt cuộc nàng nghĩ thế nào, trẫm muốn nghe lời nói thật.”

Tĩnh phi chậm rãi thu đôi tay đang xoa bóp chân cho Hoàng đế, lùi một bước, quỳ xuống, cúi đầu nói: “Bệ hạ hỏi, thần thiếp không dám không đáp, chỉ có điều bất kể thần thiếp trả lời thế nào thì cũng khó tránh khỏi khiến bệ hạ đau lòng, cho nên thần thiếp thỉnh tội trước, bệ hạ thứ lỗi!”

Hoàng đế Đại Lương có chút xúc động, ngồi dậy hỏi: “Nàng nói vậy nghĩa là sao?”

“Thần thiếp xuất thân Lâm phủ, có qua lại mật thiết với cố Thần phi, bệ hạ đã biết từ lâu, nếu thần thiếp dùng ác ngữ đánh giá, há bệ hạ không sầu não Thần phi sống không có bằng hữu, chết không có người tưởng nhớ? Nhưng vụ án Xích Diễm do bệ hạ đích thân xử trí, với sự thánh minh của bệ hạ thì việc xử án nhất định là củng cố được cục diện triều đình, nếu thần thiếp nhớ tới tình riêng với Thần phi mà bào chữa cho người của Xích Diễm thì bệ hạ lại khó tránh khỏi cho rằng thần thiếp không hiểu nỗi khổ tâm an ổn đại cục của bệ hạ... Thần thiếp chỉ là một phi tử nhỏ bé trong thâm cung, bất kể cái nhìn của thần thiếp đối với vụ án Xích Diễm như thế nào thì cũng chỉ là chuyện nhỏ không đáng nhắc tới, nhưng nếu câu trả lời của thần thiếp khiến bệ hạ đau lòng thì đó chính là tội lỗi rất lớn của thần thiếp, vì vậy thần thiếp cả gan xin bệ hạ lượng thứ trước.” Dứt lời, Tĩnh phi quỳ xuống bái, những giọt lệ đã tràn mi rơi xuống.