Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 5) - Chương 04 - Phần 2

Hồi lâu sau, hắn thở dài buồn bã, khuôn mặt trở nên xám xịt. “Hoàn muội muội, trên thế gian này, chỉ có muội là khiến ta không biết phải làm thế nào cả, ngoài việc nghe theo muội ra, ta thực không có cách nào khác. Muội nói thế nào thì hãy làm thế đó đi, muội bảo vệ cho người khác, còn ta thì liều mạng bảo vệ muội là được rồi.” Hắn ủ rũ gượng cười. “Muội đã nhận định chuyện gì thì chưa bao giờ chịu quay đầu lại, ta đúng là chỉ uổng công vô ích mà thôi!” Hắn ngồi xuống, bàn tay cầm chén trà không ngừng run lẩy bẩy. “Muội muốn ta làm thế nào thì hãy nói đi.”

Tôi khẽ nhấp một ngụm mật quế hoa, dùng vị ngọt để tạm xua đi nỗi đắng chát nơi đầu lưỡi, sau khi suy nghĩ một lát mới chậm rãi nói: “Đầu tiên huynh phải nói với Hoàng thượng, muội mới chỉ có thai được hơn một tháng; thứ hai, hãy giúp muội nghĩ cách khiến cái bụng của muội trông nhỏ hơn tháng thực một chút; thứ ba, để che giấu thân hình, huynh phải nói với Hoàng thượng là cái thai của muội không ổn định, không tiện thân mật quá mức với y; cuối cùng, đến hồi sinh nở huynh hãy nói với Hoàng thượng là muội sinh con tám tháng, giống như lúc sinh Lung Nguyệt vậy. Còn về những việc khác, thực sự chỉ có thể nghe theo mệnh trời mà thôi.”

Hắn lẳng lặng uống chén trà Phổ Nhĩ trong tay, sắc mặt thấp thoáng vẻ u buồn, ảm đạm. Sau một thoáng trầm tư suy nghĩ, cặp mắt sâu thẳm của hắn ánh lên những tia đau đớn và dịu dàng vô hạn. “Nếu sớm biết có ngày hôm nay... ta thà để muội mãi mãi không bao giờ biết tin về cái chết của Thanh Hà Vương.”

Một làn gió nhẹ bỗng thổi vào, mang theo hơi thở của những sinh mệnh đang bừng bừng sức sống. Nhưng với tôi mà nói, làn gió ấy như một lưỡi dao sắc bén cứa vào da thịt, tuy không hề làm tôi cảm thấy đau nhưng sự lạnh lẽo thì cứ thế xộc thẳng vào trái tim tôi. Tôi hơi nhếch khóe môi. “Vậy nhưng huynh đã chính miệng nói cho muội biết tin này.”

Hắn nở một nụ cười thê thảm. “Cho nên, ta tự làm tự chịu. Ngoài việc giúp muội ra, ta chẳng còn cách nào khác nữa.” Định thần lại một chút, hắn nói tiếp: “Những điều muội nói, ta sẽ cố hết sức thực hiện, cũng sẽ bẩm với Hoàng thượng là cái thai của muội không ổn định, cần nghỉ ngơi tĩnh dưỡng. Còn về bụng muội... có lẽ có thể dùng vải lụa quấn lại hoặc là mặc áo rộng một chút, nhất định phải giấu giếm kĩ càng, bằng không qua một thời gian nữa, cái thai bốn tháng và cái thai hai tháng dù gì cũng không giống nhau.”

Tôi lo lắng hỏi: “Dùng vải quấn bụng liệu có gây hại gì cho thai nhi không?”

“Vương Mỹ nhân của Hán Linh Đế vì sợ uy thế của Hà Hoàng hậu nên tuy có thai nhưng không dám nói ra, mỗi ngày đều quấn bụng cho tới tận khi sinh nở. Hoàn muội muội không cần ngày nào cũng quấn, hơn nữa chỉ cần quấn chừng hai, ba tháng là được rồi, và cũng không phải quấn quá chặt, trong thời gian đó ta sẽ cho muội dùng thuốc cố thai. Ngoài ra nếu như quấn đúng cách còn có thể phòng việc xương thắt lưng nhô lên phía trước, chưa chắc đã chỉ có hại mà không có lợi.”

Tôi khom người, cảm kích nói: “Thực Sơ ca ca, mọi việc sau này đều trông cậy vào huynh cả đấy!” Dừng một chút, tôi lại tiếp: “Việc muội về cung chỉ có Hoàng thượng nói thôi thì chưa đủ, còn cần Thái hậu gật đầu mới được. My Trang tỷ tỷ ngày ngày hầu hạ bên cạnh Thái hậu, việc này huynh chỉ có thể nói với một mình tỷ ấy thôi, để tỷ ấy tìm cơ hội nhắc đến trước mặt Thái hậu là tốt nhất, có điều nhất định phải là sau khi Hoàng thượng đã mở lời.”

Ôn Thực Sơ khẽ gật đầu. “Ta biết.” Ánh mắt hắn chất chứa nỗi xót thương. “Muội nhớ phải chú ý chăm sóc bản thân đấy!”

Tiễn Ôn Thực Sơ đi rồi, Cận Tịch bước vào đỡ tôi tới ngồi xuống giường, xoa ngực nói: “Nô tỳ đứng bên ngoài nghe mà lo lắng quá, nếu Ôn đại nhân không chịu giúp đỡ, chúng ta không biết còn phải tốn bao nhiêu công sức nữa đây. Nói một câu thực lòng, nương nương còn ở bên ngoài ngày nào thì Ôn đại nhân còn có hy vọng ngày đó, một khi về cung rồi thì y thật sự chẳng thể trông mong gì nữa cả.”

Tôi tựa người lên chiếc gối mềm sau lưng, thấp giọng nói: “Y tuy đã hết hy vọng nhưng lại không phải là một người ích kỷ.”

Cận Tịch thổn thức nói: “Tình ý của Ôn đại nhân với nương nương thực sự đáng quý.” Dứt lời, nàng ta liền mở một chiếc rương, lấy từ bên trong ra hai dải vải lụa. “Trước khi đi, Ôn đại nhân đã dạy nô tỳ cách quấn bụng cho nương nương, cứ nên làm ngay từ bây giờ là tốt nhất, chẳng biết khi nào thì Hoàng thượng sẽ tới đây nữa.”

Tôi khẽ “ừm” một tiếng, để Cận Tịch quấn bụng giúp mình, lại uống thuốc an thai, sau đó mới nằm xuống, từ từ chìm vào giấc ngủ.

Hai ngày cứ thế trôi qua, buổi sáng hôm nay tôi uể oải thức giấc, nhưng vẫn nán lại trên giường không trở dậy. Bên ngoài trời đang mưa rả rích, những hạt mưa rất dày và nhỏ, bầu không khí trở nên ẩm ướt hơn nhiều. Giữa sân, gốc đào già vẫn đang nở hoa rực rỡ, một làn gió nhẹ thổi qua, rất nhiều cánh hoa đào rơi lả tả, bay khắp trời, khiến khung cảnh trở nên giống như mộng ảo.

Trong phòng có đốt đàn hương, hết sức thanh tịnh, tôi lặng im ngửi mùi hương ấy mà nhắm mắt bần thần.

Phía bên ngoài chợt có một giọng nói khe khẽ vang lên: “Hoàn Hoàn vẫn ngủ sao?”

“Sáng nay ngủ dậy, nương nương cảm thấy buồn nôn, sau khi uống thuốc xong thì lại ngủ tiếp. Để nô tỳ đi gọi nương nương dậy.”

“Không cần, trẫm cứ chờ ở đây là được.”

Lòng tôi thầm máy động, liền dứt khoát trở mình giả vờ ngủ. Áng chừng nửa canh giờ sau, tôi uể oải cất tiếng: “Cận Tịch, mang nước lại đây.” Nhưng sau khi mở mắt ra, người đầu tiên xuất hiện trước mắt tôi lại là Huyền Lăng với khuôn mặt tràn ngập nụ cười, tôi cố gắng trở dậy định hành lễ thỉnh an, y vội vàng đưa tay giữ tôi lại. “Đã là lúc nào rồi, còn để ý đến quy củ làm gì nữa.”

Tôi đưa tay dụi mắt. “Tứ lang tới khi nào vậy? Hoàn Hoàn chẳng hay biết gì”, sau đó liền oán than: “Sao Cận Tịch lại không gọi thiếp dậy như thế chứ?”

Lý Trường cười híp mắt, nói: “Hoàng thượng đến được nửa canh giờ rồi, vì thấy nương nương ngủ ngon nên không nỡ gọi nương nương dậy.”

Huyền Lăng cũng mỉm cười. “Đừng trách Cận Tịch, trẫm nghe nói nàng mang thai vất vả nên mới để nàng ngủ thêm một lát.” Y không để tâm đến việc có người khác ở bên, ôm tôi vào lòng, mừng rỡ nói: “Lý Trường nói với trẫm là nàng đã có thai, trẫm thật mừng rỡ vô cùng.”

Tôi làm bộ hờn trách: “Hoàng thượng cũng thật là, mừng thì cứ việc mừng thôi, hôm nào tới mà chẳng được, hôm nay trời đang mưa, đường núi lại không dễ đi, việc gì phải vội vã tới đây như thế chứ!”

Lý Trường đứng bên cười, nói: “Vốn dĩ Hoàng thượng nghe nô tài nói xong liền muốn tới đây ngay, nhưng vừa khéo gặp lúc trong cung có nhiều việc, thành ra không thể kiếm cớ ra ngoài được. Hôm qua nghe Ôn đại nhân báo cáo lại về tình hình của nương nương, Hoàng thượng quả thực mừng rỡ vô cùng, thế là hôm nay vừa sáng sớm đã tới đây ngay.”

Tôi ôn tồn nói: “Hoàng thượng rời cung như thế, chỉ e sẽ khiến Thái hậu và Hoàng hậu lo lắng vô cùng.”

Huyền Lăng nắm chặt lấy bàn tay tôi, nhìn tôi đắm đuối, trong mắt tràn ngập những tia mừng rỡ khó mà miêu tả bằng lời. “Trẫm lo lắng cho nàng mà. Nghe Ôn Thực Sơ nói cái thai của nàng không ổn định, lại không cho phép thế này không cho phép thế kia, trẫm thực lo lắng vô cùng. May mà sau một hồi dặn dò, Ôn Thực Sơ có nói chỉ cần làm theo lời y thì sẽ không có vấn đề gì lớn, tới lúc ấy trẫm mới yên tâm hơn một chút.”

Lý Trường cười, nói: “Chính vì hiện giờ Thái hậu và Hoàng hậu đều đang không khỏe nên Hoàng thượng mới có thể kiếm cớ lên chùa dâng hương lễ Phật, bằng không muốn xuất cung đúng là chẳng dễ dàng gì.”

Tôi hơi cau mày lại. “Thái hậu và Hoàng hậu đều đang không khỏe, vậy mà Hoàn Hoàn còn khiến Tứ lang phải bận lòng, quả đúng là...”

Y khẽ đặt ngón tay trỏ lên môi tôi, cất giọng chứa chan tình cảm: “Nàng có thai là chuyện mừng lớn bằng trời, trẫm vui còn chẳng kịp ấy chứ. Rốt cuộc vẫn là nàng có phúc, trẫm mới lần đầu tiên tới thăm mà nàng đã có thai rồi.” Sau đó y lại thở dài. “Dung Nhi phúc bạc, Quản thị cũng thế, được trẫm sủng ái như vậy mà vẫn chẳng có chút động tĩnh nào.”

Lý Trường tươi cười rạng rỡ. “Đây là cái phúc của nương nương, cũng là cái phúc của Hoàng thượng và triều đình Đại Chu chúng ta.”

Vừa khéo lúc này Cận Tịch bước vào, trong tay là một bát canh da gà nấu măng chua nóng hổi. Nàng ta cười, nói: “Hôm qua nương nương nói muốn ăn đồ chua, giờ đã có canh da gà nấu măng chua đây rồi, nương nương mau tranh thủ ăn đi cho nóng.”

Tôi đưa mắt liếc qua, cau mày, nói: “Sao nhìn toàn là mỡ thế kia, ta thật không sao nuốt nổi.”

Cận Tịch rầu rĩ nói: “Nương nương ăn uống thất thường đã mấy ngày nay rồi, cứ tiếp tục thế này thì làm sao được chứ.”

Huyền Lăng ngẩn ra, quay sang hỏi Cận Tịch: “Chiêu nghi đã mấy ngày nay ăn uống không ngon miệng rồi ư?”

Cận Tịch nói: “Dạ chính thế, nương nương đang có thai nên vốn đã ngủ không ngon, mấy ngày nay lại ăn uống không ngon miệng nữa. Hai ngày trước, nương nương từng muốn ăn đường sương ngọc phong nhi[3], nô tỳ và Hoán Bích không kiếm đâu ra được, thực là áy náy vô cùng.”

[3] Đây là tên một món ăn được ghi lại trong sách Võ lâm cựu sự của Chu Mật, chỉ xuất hiện ở thời Nam Tống, và đến nay thì các chuyên gia vẫn chưa thể xác định nó được làm từ cái gì và chế biến như thế nào, người dịch tạm để nguyên tên - ND.

Lý Trường lộ vẻ lúng túng: “Đó là thứ đồ điểm tâm sở trường của Chu sư phụ trong ngự thiện phòng, bên ngoài làm sao có được. Thực khổ cho nương nương quá, đang có thai mà muốn ăn chút đồ ăn cũng không được.”

Tôi áy náy nói: “Đều tại Hoàn Hoàn kén ăn quá, thực ra bất kể là ăn cái gì cũng đều như nhau cả thôi.”

Huyền Lăng ngoảnh đầu lại dặn dò Lý Trường: “Đem cháo tổ yến đã mang tới đây đi hâm nóng lại một chút đi, rưới thêm chút sữa bò nữa, trước đây Chiêu nghi thích ăn món này nhất đấy!” Lý Trường vâng lời rời đi, tôi và Huyền Lăng trò chuyện được chừng một tuần trà thì canh tổ yến đã được Cận Tịch bưng lên, Huyền Lăng đón lấy rồi khẽ mỉm cười. “Để trẫm bón cho nàng.”

Tôi thẹn thùng nói: “Tứ lang sao lại đi làm chuyện như vậy chứ?”

Huyền Lăng khẽ cười một tiếng, trên mặt tràn ngập vẻ dịu dàng khó tả, tựa làn gió xuân mát mẻ từ ngoài cửa sổ thổi vào. “Vì nàng, vì đứa con của chúng ta, không có chuyện gì là không thể.” Y kê vào sau lưng tôi một chiếc gối mềm, múc một thìa cháo tổ yến lên thổi mấy hơi cho bớt nóng, cất giọng dịu dàng: “Dù thấy không ngon miệng đến mấy cũng phải cố ăn một chút, nàng không nghĩ cho bản thân thì cũng nên nghĩ cho con của chúng ta.”

Tôi ngoan ngoãn ăn thìa cháo mà y bón cho rồi nghiêng đầu, khẽ mỉm cười. “Hoàn Hoàn biết.”

Thấy tôi đã ăn được quá nửa, Huyền Lăng mới khẽ thở dài một tiếng. “Vốn Yến Nghi có thai cũng là việc mừng, nên trẫm mới phong cho nàng ta làm tiệp dư, ai ngờ Khâm Thiên giám lại nói có điềm chẳng lành là Nguy Nguyệt Yến xung nguyệt, rồi Thái hậu bệnh nặng, Hoàng hậu cũng đau ốm, khiến khắp hậu cung chẳng được yên ổn, trẫm hết cách chỉ đành cấm túc nàng ta.” Dừng một chút, y dịu giọng nói tiếp: “Hoàn Hoàn, nếu không có cái thai này của nàng, trong cung xảy ra nhiều chuyện như thế, trẫm thật chẳng còn biết vui vẻ là gì nữa.”

Tôi cầm lấy bàn tay y áp lên má mình, mỉm cười điềm đạm nói: “Có thể khiến Tứ lang vui như vậy, tự bản thân Hoàn Hoàn cũng thấy vui. Thiên tượng chẳng qua chỉ là điềm báo nhất thời, đợi vận xui qua đi rồi, Từ Tiệp dư sinh cho Hoàng thượng một vị tiểu hoàng tử là mọi việc đều tốt đẹp cả thôi!”

Huyền Lăng đưa tay kéo tôi vào lòng, nhẹ nhàng cất tiếng: “Hoàn Hoàn, Trường tương tư vẫn ở chỗ nàng, hãy đàn cho trẫm nghe một khúc nhạc đi.” Y dường như hết sức thương cảm. “Nàng rời cung đã bốn năm, không còn ai có thể gảy được những khúc nhạc đầy ý vị như thế nữa rồi.”

Tôi lấy Trường tương tư ra, chỉnh lại dây đàn một cách thuần thục mà máy móc, mỗi lần ngón tay chạm vào dây đàn, trái tim lại nhói đau, người khi xưa từng đàn sáo hợp tấu với tôi nay đã không còn trên đời nữa rồi.

Suy nghĩ ấy vừa mới nổi lên, nước mắt tôi đã không kìm được tuôn rơi lã chã, bắn đầy lên bảy sợi dây đàn.

Huyền Lăng vội vàng lau nước mắt giúp tôi. “Đang yên đang lành sao lại khóc thế, có ai khiến nàng phải chịu ấm ức sao?”

Tôi khẽ lắc đầu, rơm rớm nước mắt, nói: “Hoàn Hoàn đã lâu không gảy Trường tương tư, bây giờ có thể gảy lại trước mặt Tứ lang, thật có cảm giác như đã qua kiếp khác.”

Huyền Lăng cũng thổn thức không thôi. “Trẫm bây giờ có nàng ở bên, cũng cảm thấy như đã qua kiếp khác vậy. Hoàn Hoàn, trước đây nàng thích gảy bài Sơn chi cao, chi bằng hôm nay hãy gảy lại lần nữa đi.”

Tôi vâng lời đưa tay lướt nhẹ dây đàn.

Núi cao cao, trăng nho nhỏ.

Trăng nho nhỏ, sáng vằng vặc!

Ta có người thương trên đường xa.

Một ngày không gặp chừ, lòng ta nao nao.

Tôi chậm rãi gảy liền hai lượt. Bài Sơn chi cao này tôi xưa nay chỉ gảy nửa đầu, bởi cái ý tâm tư của nửa đầu miên man thấm vào tận sâu trong xương tủy, còn nửa sau thì tràn ngập nỗi thương tâm và một điềm báo chẳng lành. Thế nhưng trong một thoáng ngẩn ngơ, điệu nhạc phát ra từ Trường tương tư không ngờ đã đổi khác, biến thành nửa sau của bài Sơn chi cao.

Tay hái cỏ đắng, ở nơi núi nam.

Xiết bao lo lắng, biết chịu ra sao?

Lòng chàng như vàng đá, lòng thiếp như băng tuyết.

Ta ước hẹn trăm năm, chợt gặp hồi ly biệt.

Mây sớm mưa chiều bao nhớ nhung, ngàn dặm tương tư cùng trăng sáng.

Ta hẹn ước trăm năm, chợt gặp hồi ly biệt!

Nỗi đớn đau trong lòng không ngớt trào dâng, tôi cơ hồ muốn nằm gục xuống bàn mà khóc lóc một hồi. Nửa sau của bài Sơn chi cao mà tôi xưa nay vẫn không dám gảy, giờ không ngờ lại trở thành vận mệnh thê lương của tôi và Huyền Thanh. Thậm chí chúng tôi ngay đến “ngàn dặm tương tư cùng trăng sáng” thôi cũng không thể.

Thế nhưng dù khó chịu đến mấy, tôi vẫn phải cố gắng nở một nụ cười hết mực dịu dàng.

Sau một thoáng trầm ngâm, Huyền Lăng chợt nói: “Nàng theo trẫm về cung đi.”

Tôi thoáng ngẩn ra, trái tim bất giác từ từ buông lỏng... Y rốt cuộc đã chịu nói ra lời này rồi. Tôi rơm rớm nước mắt nhìn y, xót xa nói: “Sao Hoàn Hoàn còn có thể về cung nữa đây? Việc năm xưa đã xảy ra, chẳng cách nào có thể quay đầu được nữa rồi.”

Huyền Lăng kéo tôi lại, ôm tôi vào lòng, cất lời cảm thán: “Tiếng đàn của Hoàn Hoàn vẫn hệt như xưa, chẳng hề thay đổi, tại sao lại không thể quay đầu cơ chứ?”

Thì ra y vẫn không hiểu gì hết, tiếng đàn vốn chẳng có trái tim, cho nên mới không dễ gì thay đổi. Nhưng con người thì khác, con người có trái tim, biết cách phân biệt thứ tình cảm nào là thực, thứ tình cảm nào là giả; thứ tình cảm nào hời hợt, thứ tình cảm nào sâu sắc. Mà quay đầu, tức là phải nhẫn nhịn chịu đựng những sự cay đắng và nhục nhã trước đây, thực khó khăn vô cùng, khó đến mức khiến tôi ngay cả nghĩ cũng không dám nghĩ.

Vậy nhưng tôi lại không thể không nghĩ.

Tôi buồn bã thở dài một tiếng, cúi đầu than: “Hoàn Hoàn là phế phi, mang tấm thân chẳng lành, cho dù có mang thai thì cũng không dám vọng tưởng có thể về cung.”

“Phế phi?” Y khẽ lẩm bẩm hai chữ này, trong mắt ánh lên một tia kiên quyết. “Đã là phế phi, vậy ta sẽ sắc phong lại, lần này không ai có thể ngăn cản được ta.”

Tôi do dự nói: “Thái hậu...”

“Nàng đã mang thai rồi, chắc Thái hậu sẽ không ngăn cản gì đâu. Vì chuyện của Từ Tiệp dư mà ai ai cũng phiền lòng, chúng ta hãy dùng việc này để xoa dịu trái tim Thái hậu cũng tốt, nàng cứ theo trẫm về cung là được.”

Tôi quỳ xuống, những giọt nước mắt khẽ đậu trên bờ mi. “Hoàng thượng tình sâu ý nặng như thế, Hoàn Hoàn cảm kích vô cùng. Nhưng thần thiếp cứ thế này mạo muội về cung, tuy Thái hậu ngoài miệng không nói gì nhưng trong lòng hẳn sẽ không thoải mái, vì Hoàng thượng còn chưa thương lượng gì với người mà đã tự ý quyết định việc này, chi bằng Hoàng thượng hãy bẩm rõ với Thái hậu trước đã.” Tôi lộ vẻ buồn bã và ấm ức, nói tiếp: “Hơn nữa, nếu thần thiếp về cung, các phi tần trong cung nhất định sẽ xôn xao bàn tán, Hoàn Hoàn thà một mình ở lại đỉnh Lăng Vân này để được thanh tịnh.”

Y dịu dàng đỡ tôi đứng dậy. “Trẫm biết nàng lo nghĩ điều gì, nhưng người khác bàn tán thế nào thì cứ mặc kệ họ. Bây giờ Tam phi còn thiếu một người, trẫm sẽ chiêu cáo thiên hạ phong nàng làm phi, đứng ngang hàng với Đoan Phi và Kính Phi. Đường Lê cung của nàng giờ Huệ Quý tần đang ở, trẫm sẽ xây cho nàng một tòa cung điện mới, sau khi bẩm rõ với Thái hậu thì đón nàng về cung với quy cách bằng một nửa nghi trượng của Hoàng hậu, để xem ai còn dám lén bàn tán gì sau lưng nàng. Nàng cứ yên tâm dưỡng thai rồi sinh cho trẫm một vị hoàng tử là được.” Y chăm chú nhìn tôi một lát, bàn tay dịu dàng vuốt ve bờ má tôi, cưng nựng nói: “Hoàn Hoàn, trẫm đã để nàng xa trẫm bốn năm, bốn năm là đủ lắm rồi, trẫm sẽ không để nàng xa trẫm nữa đâu.” Y khẽ hôn lên bàn tay tôi, nói tiếp: “Bốn năm nay, không lúc nào trẫm không nhớ tới nàng.”

Không lúc nào không nhớ tới tôi? Tôi thầm cười lạnh một tiếng, chính như Phương Nhược nói, Huyền Lăng dù biết rõ là mình đã sai cũng sẽ không chịu thừa nhận, bởi sự uy nghiêm của bậc đế vương mới là thứ y để tâm nhất, còn những người khác dù có phải hy sinh cũng chẳng có gì là quan trọng.

Tôi mừng đến rơi nước mắt, nhưng đằng sau sự mừng rỡ ấy là vô số nỗi bi ai và căm hận dâng trào. Tôi tựa vào ngực y, biến nỗi oán hận trong lòng thành sự dịu dàng vô hạn, nói: “Tứ lang có được tấm lòng như thế, Hoàn Hoàn thực đã thỏa mãn lắm rồi.”

Ngoài cửa sổ, mưa vẫn rơi rả rích, khuôn mặt y toát ra một vẻ trịnh trọng tột cùng. “Sau khi an bài xong tất thảy, trẫm sẽ hạ chỉ ngay, nàng chỉ cần chờ thêm mấy ngày nữa là được.”