Hậu cung Chân Hoàn truyện (Tập 7) - Chương 25 - Phần 1

Chương 25

Hoa tàn người vắng ai mà biết ai[27]

[27] Trích Táng hoa từ, Tào Tuyết Cần. Dịch thơ: nhóm Vũ Bội Hoàng. Nguyên văn Hán Việt: Hoa lạc nhân vong lưỡng bất tri - ND.

Màn đêm tựa nỗi u buồn không ngớt dâng lên nơi đáy lòng tôi lúc này, hết sức lạnh lẽo và hiu quạnh.

Chợt Lý Trường vội vã chạy từ xa tới, cười trừ, nói: “Rốt cuộc nô tài cũng tìm được nương nương và công tử rồi, Hoàng thượng nói là muốn dùng bữa tối với hai vị đấy!”

Tôi khẽ gật đầu. “Phiền công công đi báo lại một tiếng rằng bản cung thay xiêm y xong sẽ lập tức cùng huynh trưởng qua bên đó ngay.”

Lý Trường ngẩng đầu nhìn tôi, dè dặt nói: “Ly Phi đột nhiên qua đời, vậy...”

Tôi đưa mắt nhìn những áng mây phiêu đãng giữa bầu trời đêm mông lung, mờ mịt, trầm giọng nói: “Công công cũng đã nói là đột nhiên rồi cơ mà. Chuyện lần này là tự bản thân cô ta nghĩ quẩn đấy thôi, hoàn toàn không liên quan tới người khác.”

“Nương nương nói rất phải.” Lý Trường lén đưa mắt liếc qua phía ca ca, tôi biết ý của y, bèn nói: “Gia huynh suốt cả buổi chiều đều ở trong cung của bản cung, chưa từng tới nơi nào khác, ắt không có tin đồn bậy bạ nào truyền ra ngoài đâu, công công cứ yên tâm.”

Lý Trường khẽ mỉm cười. “Dạ phải, xét cho cùng đều là tại đám người hầu hạ Ly Phi không cẩn thận đó thôi.”

“Ừm.” Tôi đưa mắt liếc y. “Công công hẳn đã biết rõ nên bẩm báo thế nào với Thái hậu rồi.” Lý Trường khom người rời đi, tôi quay sang nói với ca ca: “Ca ca hãy quay về rửa mặt đi đã.”

Ca ca thoáng lộ vẻ uể oải, hờ hững nói: “Ta thấy hơi mệt rồi!”

Tôi khẽ kéo tay áo ca ca, nhẹ nhàng cất tiếng: “Nếu không đi thì tức là còn mang lòng oán hận. Tâm tư của y rất khó đoán, ca ca nhất định phải cẩn thận mới được.”

Níu tay áo nhau trò chuyện thế này vốn là cử chỉ thân mật giữa hai huynh muội chúng tôi hồi còn ở nhà, y không kìm được khẽ nở một nụ cười mỉm, thở dài than: “Hoàng thượng từng hoài nghi ta như thế, bây giờ gặp mặt thực là có chút khó xử.”

Tôi khẽ cười, nói: “Ca ca, làm người không chỉ cần xem kịch, còn phải biết diễn kịch nữa mới được. Huynh thử nghĩ mà xem, ngay đến Hoàng thượng còn có thể tỏ ra thản nhiên như thế, tại sao huynh lại không thể? Làm bạn với vua như chơi với hổ, ơn vua vô thường, chẳng có ai đắc thế vĩnh viễn, cũng chẳng có ai thất thế vĩnh viễn, điều quan trọng là huynh có còn giá trị lợi dụng hay không. Hiểu được điều này rồi thì huynh sẽ chẳng còn muốn để tâm xem ơn vua là thật tình hay là giả bộ nữa.”

Ca ca chăm chú nhìn tôi một lát, cất giọng xót xa: “Hoàn Nhi, hình như muội đang nói tới chính bản thân mình.”

“Tất cả mọi người trong thiên hạ đều chỉ là thần tử của y, nói tới ai mà không giống nhau đây? Ca ca bất tất phải nghĩ nhiều làm gì.” Tôi giúp y chỉnh lại cây trâm bạch ngọc cài trên búi tóc, dịu giọng nói: “Chúng ta đi thôi!”

Tôi cố tình ăn mặc thật đơn giản, không đeo bất cứ món đồ trang sức hoa lệ nào, sau đó một tay dắt Lung Nguyệt, một tay bế Linh Tê, cùng ca ca bế theo Dư Hàm đi tới chỗ Huyền Lăng. Chúng tôi vừa định hành lễ thì Lung Nguyệt đã giãy ra khỏi tay tôi, chạy tới nhào vào lòng Huyền Lăng cất giọng ngọt ngào: “Phụ hoàng.”

Huyền Lăng bế con bé lên, cười, nói: “Hôm nay con ngoan lắm, lại biết tự đi theo mẫu phi cơ đấy, đã ra dáng một tỷ tỷ lắm rồi.”

Lung Nguyệt chớp chớp cặp mắt tròn xoe. “Đó là vì phụ hoàng thương Lung Nguyệt, Lung Nguyệt tất nhiên phải ngoan rồi.” Hơi dừng một chút, con bé lại ngó quanh bốn phía. “Sao mẫu phi còn chưa tới thế?” Lung Nguyệt lúc này đã có mấy phần khí thế của một công chúa, ngoảnh mặt qua nói với Tiểu Hạ Tử: “Đức phi nương nương hãy còn chưa tới, Tiểu Hạ Tử, ngươi mau đi mời đi!”

Tiểu Hạ Tử không biết phải trả lời ra sao, đành nói: “Thục phi nương nương đã tới rồi.”

Lung Nguyệt trề môi làm bộ giận dữ, Huyền Lăng vội cười, nói: “Hôm nay cữu cữu của con tới đây, chỗ ngồi thì lại không đủ, Đức phi liền nói là nhường cho cữu cữu của con.”

Tôi đành khom người dỗ dành: “Đức mẫu phi biết là con thích ăn bánh bao thịt cua nhất, đang sai người đi làm. Bánh bao thịt cua khó làm lắm, cần phải trông coi cẩn thận mới được. Nếu bây giờ Đức mẫu phi của con tới đây, nhỡ đám nô tài làm hỏng mất bánh bao thì biết phải làm thế nào?”

Lung Nguyệt hơi chu miệng lên, nhưng rồi lại nghĩ tới bánh bao thịt cua mà chỉ mùa thu mới được ăn, thế là đành im lặng không nói gì. Sau phen náo loạn của Lung Nguyệt, nghi lễ quân thần tất nhiên đã bị gạt bỏ, bầu không khí theo đó ấm áp hơn mấy phần. Huyền Lăng nhìn ca ca, nói: “Chất Thành bây giờ đã khỏe lại rồi, nhưng dịp này trời nổi gió thu, thường ngày vẫn cần chú ý giữ gìn mới được.”

“Chất Thành” là tên tự của ca ca, thường ngày chỉ có những người gần gũi mới xưng hô như vậy. Nghe giọng Huyền Lăng hiển nhiên là thân mật vô cùng, cũng không để ý tới lễ nghĩa quân thần. Ca ca nghe vậy liền khom người nói: “Đa tạ Hoàng thượng quan tâm.”

Tôi cười, nói: “Tứ lang suốt ngày chỉ biết nói người khác thôi, bản thân thì chẳng chú ý tới thân thể gì cả.” Dứt lời liền ngoảnh đầu gọi Hoa Nghi lại, chỉ tay vào một bát canh trên bàn, nói tiếp: “Biết là Hoàng thượng tối nay nhất định sẽ kêu Ngự thiện phòng làm canh gạch cua, mà cua vốn tính mát, do đó thần thiếp đã bảo Hoa Nghi hâm nóng rượu vàng với cánh hoa cúc, đợi lát nữa uống vừa hay có thể làm ấm dạ dày.”

Lung Nguyệt lập tức nói: “Cũng chuẩn bị cho mẫu phi một phần nữa.”

Dư Hàm và Linh Tê đã dần hiểu chuyện, đang lúc bi bô tập nói, Dư Hàm nghe Lung Nguyệt nói xong liền học theo tỷ tỷ: “Cũng chuẩn bị cho phụ hoàng một phần nữa.”

Huyền Lăng vô cùng mừng rỡ, không kìm được nở một nụ cười hiền từ rất mực, bế Dư Hàm lại thơm lấy thơm để, ca ca thì chỉ mỉm cười ngồi nhìn. Huyền Lăng ngẩng đầu thấy y như vậy thì cười, nói: “Bây giờ ngươi cứ cô độc một mình thế này cũng không hay, trong nhà chẳng có ai chủ trì công việc, phụng dưỡng cha mẹ thật là không tiện chút nào. Thân thể dù sao cũng khỏe lại rồi, ngươi nên nghĩ tới việc lập gia thất mới đi thôi.”

Nụ cười của ca ca trở nên cứng đờ, tôi biết là y không kìm được nhớ tới tẩu tẩu và Trí Ninh. Tẩu tẩu chết thảm, An Ly Dung lại vừa đột ngột qua đời, lúc này ca ca tất nhiên không có lòng dạ nào mà nghĩ tới chuyện cưới hỏi, nhưng nếu như thoái thác thì rất có khả năng Huyền Lăng sẽ nghi ngờ rằng ca ca vẫn còn ghi hận chuyện năm xưa. Tôi cười tủm tỉm, rót một chén rượu đưa tới bên môi Huyền Lăng, nói: “Trách nhiệm của cữu cữu không nhỏ chút nào đâu, nếu ca ca cưới vợ về rồi thì đâu còn thời gian nữa. Thần thiếp vốn muốn ca ca đích thân dạy Hàm Nhi đọc sách, cưỡi ngựa, bắn cung, tứ lang thì hay lắm, lại định để huynh ấy có cơ hội lười nhác.”

Huyền Lăng bật cười, nói: “Chất Thành, nhìn muội muội của ngươi xem này, mồm mép càng lúc càng lợi hại hơn rồi.” Sau đó đưa đũa gắp một miếng thịt luộc cho tôi. “Trẫm vốn cũng chỉ có ý tốt thôi, nếu nàng không thích thì trẫm xin lỗi nàng là được chứ gì.” Cười đùa một phen xong, Huyền Lăng không nhắc gì tới việc kia nữa. Dư Hàm tuy còn ít tuổi nhưng rất giữ quy củ, trông rất đáng yêu, Lung Nguyệt thì nói cười như nhả ngọc, làm ai cũng thích, bầu không khí thực là vui vẻ vô cùng. Tôi gọi Hoa Nghi lại dặn dò: “Ngươi hãy về xem tứ điện hạ đã ngủ dậy chưa, nếu dậy rồi thì nhớ kêu Bình Nương nấu cháo sữa bò cho điện hạ ăn.”

Hoa Nghi vâng lời rời đi. Sự bình lặng bất ngờ bị những bước chân dồn dập của Lý Trường phá vỡ, y ghé đến bên cạnh Huyền Lăng, nói khẽ: “Hoàng thượng, Ly Phi nương nương qua đời rồi.” Vừa nói, y vừa lén liếc nhìn sắc mặt Huyền Lăng, ngay sau đó lập tức cúi đầu.

Huyền Lăng không kìm được rùng mình một cái, đôi đũa bạc trong tay rung lên nhè nhẹ. Ca ca vội vàng đứng dậy, nói: “Hoàng thượng xin hãy bớt đau thương.”

Huyền Lăng ngẩn ra, kế đó liền hờ hững nói: “Chỉ là một tội nhân mà thôi, bớt đau thương gì chứ?”

Tôi làm bộ như vừa mới hay tin, cất tiếng hỏi: “Chuyện xảy ra khi nào vậy?”

“Dạ, vào giờ Dậu một khắc, Ly Phi nương nương nói là muốn ăn hạnh nhân, liền kêu người mang tới một ít. Kỳ thực lượng hạnh nhân như thế hoàn toàn không thể gây ra chuyện gì, ai ngờ Ly Phi nương nương đã tích trữ hạnh nhân từ nhiều ngày trước, đến hôm nay mới mang ra ăn. Thái y sau khi kiểm tra đã nói là chết do trúng độc vì ăn quá nhiều hạnh nhân.”

Huyền Lăng thoáng lộ vẻ buồn bã, đặt mạnh đôi đũa xuống bàn, trầm giọng nói: “Nhất định là cô ta đã hay tin An Bỉ Hòe bị xử tử, do đó mới ôm lòng tìm đến cái chết. Trẫm đã rộng lượng tha mạng cho cô ta rồi, thế mà cô ta còn không biết cảm kích ơn vua, có chết cũng không đáng tiếc.”

Lý Trường vội vàng quỳ xuống, nói: “Đều tại nô tài không cẩn thận nên mới để Ly Phi nương nương tự vẫn như thế.” Y hơi dừng lại, cúi đầu lộ rõ vẻ tự trách. “Phi tần tự vẫn là việc chẳng lành, tất thảy đều là lỗi của nô tài.”

Huyền Lăng nghe nhắc tới hai chữ “chẳng lành” thì thoáng để lộ một tia chán ghét và buồn bã không dễ gì phát giác, đoạn y xua tay một cái ra hiệu cho Lý Trường đứng dậy. “Nếu không vì có lòng tìm tới cái chết từ sớm thì An thị đã chẳng tích trữ hạnh nhân như vậy rồi, chuyện này không trách ngươi được.”

“An thị vốn đắc sủng nhiều năm, bây giờ lại bị cấm túc trong Cảnh Xuân điện như vậy thì làm sao chịu nổi. Theo thần thiếp thấy, cô ta tự vẫn chẳng phải vì phụ thân mình mà là vì tuyệt vọng đó thôi.” Tôi nhìn Huyền Lăng chăm chú. “An thị tuy gây ra rất nhiều tội ác nhưng dù sao cũng từng hầu hạ Hoàng thượng nhiều năm...”

Y cất giọng kiên quyết: “Trẫm sẽ không đi thăm cô ta đâu.”

“Dạ!” Hơi dừng một chút, tôi lại nói tiếp: “Kỳ thực dù Hoàng thượng không ban cho cô ta chút thể diện nào sau khi chết thì cũng không sao, có điều nói gì thì nói, thể diện của hoàng gia vẫn là quan trọng nhất, nếu tin Ly Phi vốn đắc sủng nhiều năm bỗng dưng tự vẫn truyền ra ngoài thì chỉ e người ta sẽ cho rằng Hoàng thượng vì phụ thân cô ta mà trút giận lên cô ta, như thế thì thực là không hay chút nào.”

Y trầm giọng hỏi: “Nàng không hận cô ta ư?”

Tôi nở một nụ cười điềm đạm, thản nhiên nói: “Thần thiếp và An thị vào cung cùng năm, bấy lâu nay vẫn luôn giao hảo, thực không ngờ An thị lại ám hại thần thiếp như vậy. Chính vì oán hận nên thần thiếp mới không muốn đứng ra chủ trì tang lễ của cô ta, nhưng để chặn họng người đời thì việc này không làm không được, do đó xin Hoàng thượng hãy mời Hoàng hậu đứng ra an bài việc này.” Tôi hơi khom người hành lễ. “Mong Hoàng thượng hãy đích thân đi dặn dò Hoàng hậu, vậy cũng coi như là tỏ chút lòng thành cuối cùng với Ly Phi.”

Huyền Lăng thoáng trầm ngâm rồi nói: “Trẫm rõ rồi.” Y đứng dậy, gọi Lý Trường lại: “Trẫm bỗng thấy hơi mệt, tới chỗ Vinh Tần thôi.” Sau đó lại ngoảnh đầu dặn dò tôi: “Thục phi, nàng hãy ngồi với Chất Thành trêm chút nữa, trẫm qua thăm Xích Thược.”

Tôi vội vàng đứng dậy tiễn y tới bên ngoài nghi môn, giữa làn gió đêm se lạnh, chiếc áo bào màu xanh sẫm thêu hình chín con rồng bằng chỉ vàng của y không ngừng bay lất phất. Y khẽ nắm lấy bàn tay tôi, trầm giọng nói: “Vừa rồi khi trẫm đề nghị ca ca nàng lấy vợ, y hình như có vẻ buồn bã không vui thì phải.”

Tôi không khỏi thầm ngạc nhiên về sự nhạy bén của y đêm nay, bèn ôn tồn nói: “Tẩu tẩu là thê tử duy nhất của ca ca, lại còn Trí Ninh nữa, nó còn nhỏ như vậy mà đã chết yểu cùng ngày với mẫu thân rồi, ca ca rất xem trọng vợ con nên bấy lâu nay vẫn luôn thương tâm rất mực. Năm ấy ca ca thần chí thất thường cũng là do việc này mà ra.”

“Trẫm cũng thương y mất vợ mất con, có điều người còn sống dù gì cũng phải sống tiếp thôi.”

Tôi khẽ nói: “Dạ, Hoàng thượng nói rất phải, có điều việc này dù sao cũng cần có thời gian xoa dịu mới được.”

Y gật đầu, nói: “Vậy được rồi, thời gian cũng không còn sớm nữa, nàng nhớ tiễn ca ca nàng rời cung cho cẩn thận.” Y hơi dừng một chút rồi dặn dò thêm: “Hãy nói với ca ca nàng, chuyện trước đây đã trôi qua rồi, trẫm sẽ không để uổng phí tài năng của y đâu.”

Tôi khom người tiễn y rời đi, Cận Tịch bước tới đỡ lấy tôi, ghé đến bên tai tôi, khẽ nói: “An thị là người Thái hậu ghét bỏ, lẽ ra không cần Hoàng thượng hao tâm tổn sức như thế mới đúng.”

Tôi vuốt nhẹ mép áo một chút, hờ hững nói: “Người Thái hậu ghét bỏ chưa chắc Hoàng thượng đã ghét bỏ, mà cho dù có ghét bỏ thì cũng chưa chắc đã cạn tình. Lần này để cho y trọn tình trọn nghĩa, như thế sau này ắt sẽ chẳng còn nghĩ tới những chỗ tốt của cô ta nữa.”

“Tình cảm đã cạn, sau này ắt sẽ không còn mối hậu họa như Mộ Dung thị nữa, xem ra hôm nay nương nương quả đã phải hao tâm tổn trí một phen.” Nàng ta lén đưa mắt nhìn tôi. “Lần này làm phiền tới Hoàng hậu, chắc hẳn nương nương cũng đã có những ý đồ riêng rồi.”

Tôi trầm ngâm suốt một hồi lâu rồi mới nói: “Lý Trường là một người rất có chủ kiến, y đã ôm lòng muốn dồn Ly Phi vào chỗ chết từ lâu, mỗi lần đều đưa một ít hạnh nhân tới cho cô ta, thời gian lâu rồi cô ta cũng sẽ trúng độc mà chết, thần không biết quỷ không hay.”

Cận Tịch hơi cụp mắt xuống. “Phen nhục nhã do Ly Phi mang tới khi xưa, nô tỳ và Lý Trường suốt đời không quên.”

Tôi vỗ nhẹ mu bàn tay nàng ta tỏ ý thương xót, thấp giọng nói: “Chuyện dù sao cũng qua rồi, kỳ thực cô ta sống như thế còn chẳng bằng chết luôn đi cho gọn ghẽ.”

Ngoài sân có trồng mấy khóm “Vãn ngọc đinh hương”, giống hoa này có thời gian nở hoa rất dài, thường phải vào thu mười mấy ngày rồi mới bắt đầu có dấu hiệu lụi tàn. Lúc này trên nền gạch xanh rơi đầy những cánh hoa đinh hương màu tím, khung cảnh xiết nỗi u buồn.

Người chết cũng giống hoa rơi, chỉ cần một cơn gió thổi qua là chẳng còn tăm tích, tựa như chưa từng đến cõi đời này.

Hoàng hậu đã bị ghẻ lạnh một thời gian dài, thế mà lần này lại được Huyền Lăng đích thân tới nhờ cậy chủ trì tang lễ, tất nhiên không dám sơ suất chút nào. Nàng ta vì muốn cầu phúc cho hậu cung nên đã cho đặt linh vị của Ly Phi tại Diên Niên điện và mời pháp sư tới khấn vái đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày, đồng thời bắt đầu an bài mọi việc trong tang lễ.

Lúc này đã là đầu đông, Hoa Nghi ôm một bó hoa mai nở sớm về cắm vào bình, chậm rãi nói: “Phi tần tự vẫn là việc chẳng lành, Hoàng hậu liền nói với bên ngoài là Ly Phi đột ngột qua đời để bưng bít. Kỳ thực mọi người trong cung tuy ngoài miệng không nói gì nhưng ai mà chẳng biết cô ta sợ tội tự sát. Xét cho cùng vẫn là An thị gặp may, được chôn cất với tên thụy là Ly Âm Quý tần.”

“Ly Âm Quý tần?” Tôi cười phì một tiếng, đưa tay khẽ vuốt ve chiếc nhẫn bạc trên ngón tay trắng ngần. “Chắc đây chính là kiệt tác của Hoàng hậu rồi.”

“Dạ!” Hoa Nghi nhíu chặt đôi mày, cất giọng nghi hoặc: “Hoàng thượng đã lâu lắm rồi không qua thăm Hoàng hậu, chẳng dễ dàng gì mới nhờ cậy cô ta một việc thế này, ấy vậy mà cô ta lại không tự mình lo liệu, các sự vụ đều giao cả cho Lưu An nhân và Tiễn Thu, chỉ nói là mình vẫn chưa hết đau đầu. Cô ta chịu hao tâm tổn sức để nghĩ tên thụy cho An thị như thế thật chẳng rõ là vì nguyên nhân gì nữa?”

“Có gì đâu mà phải nghĩ nhiều.” Tôi đưa tay hái lấy một bông mai đỏ vừa hé nở, thoạt nhìn trên đầu ngón tay tựa như có một bông hoa máu đỏ tươi. “Mọi người trong chốn hậu cung này dù có làm gì đi chăng nữa thì xét cho cùng cũng đều là vì bản thân mà thôi.”

Hoa Nghi “dạ” một tiếng, lại nói tiếp: “Sau khi được Hoàng thượng ghé thăm, Hoàng hậu vẫn chẳng thể nào đắc sủng trở lại. Bây giờ tang lễ của Ly Âm Quý tần đã kết thúc, dường như Hoàng thượng lại càng ghét bỏ Hoàng hậu, thường ngày rất ít khi gặp mặt.”

Tôi khẽ gật đầu, khoác áo đứng dậy, nói: “Bản cung đi thăm Trinh Phi một chút.”

Khi tôi tới nơi thì Yến Nghi đang ngồi xem sách trong điện, dáng vẻ hết sức say mê. Trên người nàng ta là một chiếc áo cân vạt màu xanh nõn chuối thêu những đường hoa văn màu đỏ tía, phía dưới thì là một chiếc váy dài màu xanh lục, mái tóc được búi lại gọn ghẽ trên đầu và cố định bằng một cây trâm vàng. Tôi không kìm được thầm khen ngợi, màu xanh nõn chuoái kia thực là hợp với tính cách dịu dàng, trầm lặng của Yến Nghi.

Không Thúy điện hết sức thoáng đãng, rộng rãi, bên trong còn vương vất mùi hoa mai dìu dịu. Ánh dương bị bức rèm ngăn lại một phần, chiếu vào trong điện vô số đốm sáng li ti, nhìn hệt như những bông hoa vàng ươm rực rỡ, lại càng tôn lên dáng vẻ thanh tao của Yến Nghi lúc này.

Tôi vén rèm đi vào, khẽ cười, hỏi: “Muội đang xem sách gì thế? Trông bộ dạng thực là say mê quá chừng.”

Nàng ta nhìn thấy tôi thì đặt cuốn sách qua một bên, cười, nói: “Có gì đâu mà say mê, Bái Nhi khó khăn lắm mới chịu ngủ, muội chẳng qua chỉ đọc sách để giết thời gian thôi.”

Trên bức tường bên cạnh nàng ta có treo một bức Trang Tử thu thủy đồ vừa vẽ, bên trên chỉ có vài nét đơn sơ nhưng ý cảnh lại được thể hiện mạch lạc vô cùng, thực không giống như tác phẩm của một nữ tử trong khuê các. Tôi gật đầu cười, nói: “Tài vẽ của muội muội đúng là ngày càng tiến bộ. Có điều nếu muội vẽ tranh chim cá cỏ cây hoặc là non nước hữu tình, có lẽ Hoàng thượng sẽ vừa ý hơn đấy.”

Nàng ta mỉm cười, nói: “Hoàng thượng không thường xuyên tới đây, tới rồi cũng chẳng để ý tới mấy tiểu tiết này, do đó vẽ gì cũng như nhau cả, tốt nhất là cứ vẽ những thứ mình thích.”

Tôi nhẹ nhàng ngồi xuống bên cạnh nàng ta. “An thị đã chết, muội muội bây giờ cũng có thể nhẹ lòng hơn được phần nào rồi.”

Nàng ta khẽ cười. “Khi Ly Phi còn tại thế, muội vẫn luôn oán hận cô ta, nhưng bây giờ suy nghĩ thông suốt rồi, kỳ thực không có cô ta thì cũng có người khác thôi. Hoàng thượng vốn chẳng có bao nhiêu tình cảm với muội, sẽ không vì người khác mà thêm hay bớt đi mấy phần đâu.”

Tôi nhìn nàng ta chăm chú. “Nếu muội muội thật sự nghĩ được như vậy thì hoàn toàn không cần để ý tới Vinh Tần làm gì.”

Trong mắt nàng ta lộ ra một nét buồn thương man mác. “Nghĩ được như vậy là một chuyện, còn có làm được hay không lại là chuyện khác.”

Ly Phi đã qua đời, tam phi bây giờ chỉ còn lại nàng ta và Hân Phi. Kỳ thực trong các phi tần, ngoài tôi ra thì chỉ có nàng ta là sinh được hoàng tử, địa vị tất nhiên không tầm thường. Nhưng mỗi lần đến cung của nàng ta, tôi đều cảm thấy thời gian thật dài đằng đẵng, trên tay Yến Nghi luôn có một tấm khăn thêu mãi vẫn không xong, có một cuốn sách đọc mãi cũng không hết. Ngẫm phận nàng ta thật giống như cây quạt tròn bị gác bỏ một bên giữa mùa thu, trong lòng luôn chứa chan những nỗi niềm u uất vô biên vô tận.

Nàng ta tự tay rót cho tôi một chén trà đắng, điềm đạm nói: “Bây giờ An thị đã qua đời, thế mà còn phải nhận một cái tên thụy kỳ quái như Ly Âm Quý tần, quả là cay đắng.”