Đông Cung - Chương 10 - Phần 01

Chương 10

Chúng tôi thúc ngựa về hướng nam, quả nhiên tới phủ đô hộ An Tây không cần tới nửa ngày đường, tầm xế chiều thành lũy đã hiện sừng sững ngay trước mắt. Khoảng hơn một trăm năm về trước, Hoàng đế Trung Nguyên đã lập phủ đô hộ An Tây rồi đóng quân, vỡ hoang, trấn giữ miền hiểm yếu này. Nơi đây vốn là tuyến xung yếu trên con đường thông thương mà mọi lái buôn từ Nam qua Bắc phải đi qua, cũng sầm uất không kém Vương thành Tây Lương.

Tôi cứ lo mình và Cố Tiểu Ngũ, hai kẻ thân cô thế cô, thế nào phủ đô hộ An Tây cũng tỏ ra phớt lờ, nào ngờ Cố Tiểu Ngũ dẫn tôi vào thành, xông thẳng đến trước cổng nha môn, gõ trống công đường.

Sau này tôi mới biết chiếc trống ấy có ý nghĩa rất lớn, tuy gọi là “trống thái bình” song thực ra nó còn được biết đến với cái tên “trống tỉnh”, hồi trống gióng lên kêu gọi chinh chiến. Đám lính canh xông ra, đưa chúng tôi vào phủ, chẳng cho chúng tôi giải thích một lời. Đô hộ đại nhân ngồi chễm chệ trên công đường. Ông ta mặc giáp, chòm râu rậm, rất có dáng vẻ uy phong, lẫm liệt của một viên mãnh tướng. Trong số những người Trung Nguyên tôi từng gặp, ông ta là người có dáng dấp của một vị tướng cầm binh xông pha trận mạc nhất.

Đô hộ đại nhân thấp giọng hỏi chúng tôi, tôi không hiểu tiếng Trung Nguyên, đành líu lưỡi nhìn Cố Tiểu Ngũ. Thế mà Cố Tiểu Ngũ lại ra hiệu bảo tôi tự trình bày, lần này chắc tôi đành chịu. May sao Đô hộ đại nhân biết nói tiếng Đột Quyết. Thấy tôi có vẻ không biết tiếng Trung Nguyên, ông ta liền hỏi bằng tiếng Đột Quyết:

- Kẻ dưới công đường kia vì sao mà gióng trống?

Mẹ tôi là người Đột Quyết nên tôi cũng thạo tiếng Đột Quyết. Tôi thuật lại chuyện Nguyệt Thị tràn quân sang địa phận của Đột Quyết rồi khẩn thiết xin ông ấy phái binh cứu Hách Thất.

Quan Đô hộ tỏ vẻ băn khoăn, cũng bởi từ khi Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây tới nay, trừ việc dẹp yên quân phiến loạn, họ chưa bao giờ can thiệp vào chuyện chính sự giữa các tiểu quốc ở Tây Vực. Tuy Nguyệt Thị xâm phạm lãnh thổ Đột Quyết là chuyện sai rành rành, nhưng suy cho cùng, Đột Quyết có quân đội hùng hậu, trong khi Nguyệt Thị vốn yếu, lấy yếu lấn áp mạnh, chuyện hiếm hoi này quả thật không hợp lẽ thường tình nên ông ấy lưỡng lự.

Quả nhiên, ông ta nói:

- Kỵ binh Đột Quyết nổi danh khắp quan ngoại, vì cớ gì người Đột Quyết không tự mình xuất binh mà phải cầu xin cứu viện?

Tôi nói, sở dĩ chúng tôi xin cứu viện của phủ đô hộ An Tây, cũng bởi lều chúa thường xuyên di rời không cố định, còn Tả Cốc Lãi vương dù cũng ở gần, song từ đây đến đó e là mất không ít thời giờ, tôi chỉ mong phủ đô hộ có thể cứu kịp thời Hách Thất.

Cứ nghĩ đến việc phe Hách Thất chỉ có mấy chục mạng người mà phải chống cự với ngần ấy binh sĩ Nguyệt Thị là ruột gan tôi lại nóng như có lửa đốt. Đô hộ đại nhân vẫn do dự, bấy giờ Cố Tiểu Ngũ bất ngờ nói một câu bằng tiếng Trung Nguyên.

Cố Tiểu Ngũ vừa dứt lời, gã quan Đô hộ kia có vẻ giật mình kinh hãi, đứng bật dậy. Cố Tiểu Ngũ tiến lên, khom người hành lễ, giọng hắn lí nhí khiến tôi chẳng nghe thấy gì, huống hồ tôi lại không biết tiếng Trung Nguyên. Chỉ thấy quan đô hộ gật đầu lia lịa sau vài câu nói của hắn.

Lát sau, quan Đô hộ đã phái một viên Thiên phu trưởng[68] dẫn theo hai nghìn binh sĩ, tháp tùng chúng tôi lên đường cứu người ngay trong đêm.

[68] Đây là chức võ quan chỉ huy đơn vị gồm một nghìn quân. Ngày xưa, người ta chia quân đội thành những đơn vị mười người, năm mươi người, một trăm người, một nghìn người, một vạn người và tương ứng có các chức vụ: thập phu trưởng, ngũ thập phu trưởng, bách phu trưởng, thiên phu trưởng, vạn phu trưởng.

Tôi mừng rơn. Lúc rời phủ đô hộ An Tây, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ:

- Huynh nói gì mà gã quan đó lại đồng ý phái quân đi cứu người thế?

Cố Tiểu Ngũ nở nụ cười xảo quyệt, nói:

- Chuyện này không thể tiết lộ với muội được!

Tôi dẩu môi hờn dỗi.

Quân đội Trung Nguyên có kỷ luật rất nghiêm ngặt, tuy hành quân trong đêm, song đội ngũ vẫn chỉnh tề, ngoài tiếng vó ngựa chen lẫn tiếng mai giáp thỉnh thoảng cọ vào nhau sàn sạt, tiếng bó đuốc cháy phần phật, tuyệt không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào khác. Tôi để ý thấy người Trung Nguyên dùng đuốc cán gỗ quấn sợi thô, tẩm dầu hỏa. Dầu hỏa chính là thứ có rất nhiều dưới núi Thiên Hằng, màu đen, rất dễ bắt lửa, thỉnh thoảng dân du mục vẫn dùng để đun nước. Có điều người trong Vương thành chê nó nhiều khói, nặng mùi nên ít khi dùng. Không ngờ quân sĩ Trung Nguyên lại tẩm lên đuốc. Tôi thấy người Trung Nguyên quả là thông minh, bọn họ nghĩ ra những cách mà chúng không tài nào nghĩ ra được.

Chúng tôi hành quân suốt đêm, lúc tảng sáng mới đuổi kịp đám quân lính của Nguyệt Thị. Bấy giờ chúng đã vào đến lãnh thổ Nguyệt Thị.

Đạo quân Nguyệt Thị đi rất nhanh, lúc chúng tôi bắt kịp đã chẳng thấy màu cờ trắng đâu, thậm chí Hách Thất và mấy chục dũng sĩ Đột Quyết, cả người lẫn ngựa đều mất tăm. Tôi hốt hoảng, chỉ sợ chúng đã giết toàn bộ quân của Hách Thất. Cố Tiểu Ngũ quay sang bàn bạc với tay Thiên phu trưởng bằng tiếng Trung Nguyên, binh sĩ Trung Nguyên truyền lệnh rồi bắt đầu dàn đội hình.

Cha tôi từng nói, người Trung Nguyên rất chú trọng trận pháp trong lúc giao chiến, lấy ít địch nhiều vô cùng lợi hại. Nhất là lúc này, binh lực Trung Nguyên hơn hẳn quân sĩ bên Nguyệt Thị một bậc, họ đang ngầm bố trí vòng vây. Gã Tướng quân phe Nguyệt Thị liền ghìm ngựa quay lại, quát tháo om sòm.

Tôi chẳng hiểu hắn đang nói gì, Cố Tiểu Ngũ buôn chè qua các nước Tây Vực, tất hiểu tiếng Nguyệt Thị. Hắn nói:

- Gã đó đang chất vấn chúng ta, sao lại dẫn binh tràn vào lãnh thổ Nguyệt Thị.

Tôi nói:

- Tối qua hắn dẫn binh xông vào địa phận của Đột Quyết thì sao? Đã thế còn dám nói ta là nô tì đi lạc của chúng nữa chứ, bây giờ lại dám giở cái lẽ cây ngay không sợ chết đứng à?

Cố Tiểu Ngũ nói dăm ba câu với Thiên phu trưởng đứng bên cạnh, Thiên phu trưởng liền sai người đi đáp lời. Cố Tiểu Ngũ cười, nói:

- Ta nói với bọn họ rằng, chúng ta đang hộ tống Công chúa Tây Lương về, tiện đường đi ngang qua, rồi bảo bọn họ không cần hoảng loạn, chúng ta tuyệt không xâm phạm lãnh địa Nguyệt Thị.

Tôi thầm nghĩ, nếu nói đến loại người trơ tráo, vô liêm sỉ, Cố Tiểu Ngũ mà tự nhận mình đệ nhị thiên hạ thì đố ai dám vỗ ngực xưng mình đệ nhất. Hắn nói dối mà hùng hồn, lý lẽ đâu ra đấy, phải chăng người dân Trung Nguyên ai cũng như hắn? Không chỉ sư phụ mà Cố Tiểu Ngũ cũng vậy.

Đôi bên vẫn đang lời qua tiếng lại, tay Thiên phu trưởng đã dẫn một nghìn kỵ binh, nhân lúc trời tờ mờ sáng đánh bọc sườn từ phía sau, đợi khi phe Nguyệt Thị kịp nhận ra thì quân tiên phong từ đằng này đã bắt đầu đột kích.

Trận chiến này có thắng cũng chẳng có gì lạ. Quân Nguyệt Thị thua to, gần như không kẻ nào thoát được, đa số đều bỏ mạng dưới tên đao sắc bén của kỵ binh Trung Nguyên, số còn lại đương nhiên địch không nổi, liền buông vũ khí quy hàng. Cố Tiểu Ngũ tuy chỉ là gã buôn chè nhưng cũng thật gan góc. Đứng trước cảnh máu chảy đầu rơi, thương vong vô số này, hắn lại không hề chau mày, cứ như cảnh tàn sát vừa rồi chỉ là một trò vui. Tay Thiên phu trưởng người Trung Nguyên hiển nhiên đã quen nơi chiến trường, gã giải quyết những kẻ đầu hàng đâu ra đấy. Hai nghìn kỵ binh áp giải khoảng trăm tên tàn binh của Nguyệt Thị đi về phía đông.

Nhân lúc nhốn nháo, tôi lao vào giữa đám quân Nguyệt Thị tìm Hách Thất, song chẳng thấy tăm hơi huynh ấy đâu. Tay Tướng quân Nguyệt Thị bị bắt làm tù binh, bị người ta trói chặt, dẫn đến trước mặt Thiên phu trưởng, gã Thiên phu trưởng lại cung kính giao người cho Cố Tiểu Ngũ. Tôi để Cố Tiểu Ngũ thẩm vấn gã Tướng quân Nguyệt Thị kia, song gã ngang bướng, kiên quyết không chịu khai. Cố Tiểu Ngũ lạnh lùng phán:

- Đã không khai thì giữ lại có ích gì?

Tay Thiên phu trưởng nghe vậy, lập tức sai người lôi hắn đi chặt đầu. Quân lệnh như sơn, đầu của gã Tướng quân Nguyệt Thị lập tức bị người ta chém bay. Bọn họ còn nắm tóc, giơ cái đầu dâng lên trước mặt chúng tôi. Máu tươi từ cổ chảy xuống bãi cỏ xanh biếc.

Tôi không kìm nổi lòng mình, thêm vào đó, cả ngày trời chưa có thứ gì lót dạ, đầu tôi váng vất từng cơn, người bên cạnh trông sắc mặt tôi kém tươi, có lòng đưa tôi túi nước, nhưng tôi uống không vào, chỉ nghe tiếng Cố Tiểu Ngũ sai người dẫn tới một tay lính Nguyệt Thị khác. Trước tiên cho gã thấy thủ cấp của tướng quân mình, sau hỏi tăm tích của Hách Thất. Người Nguyệt Thị tuy dũng mãnh, thiện chiến, song kẻ bị bắt làm tù binh ắt sa sút ý chí, lại tận mắt chứng kiến tướng lĩnh bị chém, sợ đến nỗi khai hết từ đầu đến cuối.

Thì ra đám Hách Thất vừa đánh vừa lui về chân núi Thiên Hằng. Bọn họ chiếm núi đá cố thủ, cho đến lúc dùng cạn tên. Song bọn lính Nguyệt Thị cũng không giết mà chúng cướp ngựa, đuổi bọn họ vào tận sâu trong núi hoang. Lũ Nguyệt Thị ấy thật tàn ác, trong núi có bầy sói dữ, mà Hách Thất lại không tên không ngựa, giả như gặp bầy sói, vậy chỉ có chết chứ sống sao được!

Trong lòng tôi nóng như lửa đốt, vội vã dẫn người đi tìm Hách Thất. Cố Tiểu Ngũ nói:

- Người Đột Quyết đâu có dễ chết thế?

Thoạt nghe, tôi có cảm giác hắn đang an ủi mình, nhưng sau đó lại thấy bực bội, khó chịu.

Chúng tôi tìm quanh núi Thiên Hằng, mãi đến khi mặt trời gác núi, tôi gần như tuyệt vọng. Núi Thiên Hằng rộng lớn thế này, rốt cuộc đến lúc nào mới tìm ra Hách Thất? Tôi cầu nguyện Hách Thất sẽ không bị lũ sói ăn thịt, huynh ấy mà bị sói ăn thịt, ông ngoại chắc chắn sẽ đau lòng lắm. Nhưng tôi lại tự nhủ Hách Thất là dũng sĩ có tiếng trên thảo nguyên, đâu dễ bị lũ sói ăn thịt, tuy bên người không ngựa, trên tay không tên nhưng Hách Thất là Hách Thất cơ mà, thế nào huynh ấy cũng sống sót trở về.

Mặt trời sắp xuống núi, gió thổi mang theo nhiều hơi lạnh của đêm, mấy tên lính đi trước bỗng la lên, tôi vội ghì cương ngựa, hỏi:

- Sao rồi?

Đám người ấy liến thoắng la hét bằng tiếng Trung Nguyên, rồi tôi thấy Hách Thất lồm cồm bò lên từ vách đá, tay trái siết chặt một hòn đá nhọn, cánh tay phải đẫm máu, theo sau có vài người cũng bò dậy, đứng trên vách đá. Dáng vẻ họ nhếch nhách, mặt mũi đầy bụi đất, song ánh mắt vẫn anh dũng, quả cảm nhìn toán quân sĩ Trung Nguyên.

Tôi gào toáng lên, lật mình nhảy phắt xuống ngựa, tất tưởi nhào tới ôm chầm lấy Hách Thất. Chắc tôi chạm phải vết thương trên người Hách Thất khiến huynh ấy nhăn nhó mặt mày, song huynh ấy vẫn nhoẻn miệng cười:

- Tiểu Công chúa!

Cả đội vui mừng hò reo, trông đám lính Trung Nguyên phấn khởi hơn hẳn chiến thắng lúc sáng.

Buổi tối, chúng tôi dựng trại dưới chân núi Thiên Hằng. Lều trại người Trung Nguyên mang theo không nhiều, toàn bộ đều dành cho những người bị thương. Hách Thất bị gãy tay phải, Thiên phu trưởng sai người đắp thuốc trị thương cho huynh ấy. Hách Thất không hề kêu rên. Tìm được Hách Thất, tôi thấy lòng nhẹ nhõm hơn hẳn, ăn một lát đã hết cả chiếc bánh nướng to tướng. Cố Tiểu Ngũ ngồi đối diện, lặng lẽ nhìn tôi ăn bánh. Tôi đang ăn ngon lành, bỗng dưng bị hắn nhìn chằm chằm nên miếng cuối cùng mắc ở cổ họng, nuốt không trôi, mà nhả cũng không ra. Thấy tôi bị nghẹn, Cố Tiểu Ngũ cười ngặt nghẽo, đến nước uống cũng chẳng đưa cho tôi.

Trầy trật rất lâu tôi mới tìm được túi nước của mình, uống cả túi nước, miếng bánh nướng mới chịu trôi xuống bụng. Đang tính hỏi chuyện hắn nên tôi chẳng thèm so đo với hắn làm gì. Tôi hỏi:

- Tối hôm qua, lúc ở phủ đô hộ An Tây, huynh nói gì mà quan Đô hộ lại đồng ý phát binh đi cứu viện thế?

Cố Tiểu Ngũ cười tươi, khoe hàm răng trắng bóng:

- Ta nói với ông ta rằng, ông ta cứ thấy chết mà không cứu đi, rồi từ nay về sau không có chè ngon mà uống nữa đâu.

Tôi tin mới lạ đấy!

Bầu trời lấp lánh ánh sao, tôi ngẩng đầu trông, ngàn sao trên trời chẳng khác nào những cụm đèn lồng treo tít trên cao, nhỏ xíu, ánh sao sáng tỏ. Giữa ngàn sao có dải sáng trắng mờ mờ, nghe người ta nói, những nàng tiên thường tắm gội ở một dòng sông sao. Lúc những nàng tiên tắm gội, hẳn sẽ vốc những ngôi sao lên tay như chúng ta hay dùng tay vốc cát, thế rồi hàng ngàn, hàng vạn giọt sao trượt qua kẽ tay, hòa mình vào dòng sông sao, thỉnh thoảng có giọt bắn tóe lên, liền biến thành sao băng. Đúng lúc ấy, một vệt sao băng nhỏ xinh lao vút về đằng chân trời như một mũi tên, loáng cái đã biến mất. Tôi chỉ kịp thốt lên: “Á!” Người ta nói, thấy sao băng là phải nhanh tay thắt đai áo, vừa thắt vừa ước điều gì đó thì điều ước ắt sẽ linh nghiệm. Nhưng tay chân tôi lóng ngóng, lần nào gặp sao băng cũng vậy, mải cầu nguyện thì quên thắt đai áo, mải thắt đai áo thì quên mất phải cầu nguyện. Tôi chán nản nằm phịch xuống thảm cỏ, sao băng mất hút rồi còn đâu. Cố Tiểu Ngũ hỏi tôi:

- Muội vừa “á” gì đấy?

- Có sao băng!

- Sao băng có gì hay mà phải “á” lên?

- Thấy sao băng trước tiên phải thắt đai áo, vừa thắt vừa ước thì điều ước đó ắt sẽ thành hiện thực. - Tôi thật sự chẳng muốn giải thích cho hắn hiểu. - Người Trung Nguyên các huynh không hiểu đâu.

Hình như hắn vừa phì cười:

- Muội định ước gì thế?

Tôi bặm môi không thèm trả lời. Tôi không dễ bị dụ đâu. Hắn cũng im lặng một hồi, lát sau, hắn bỗng cao giọng, nói:

- À, ta biết rồi nhé, muội ước mình sẽ lấy được Thái tử Trung Nguyên chứ gì?

Tôi bật phắt dậy:

- Thái tử Trung Nguyên là cái gì chứ, còn lâu ta mới lấy hắn!

Hắn cười tít mắt, nói:

- Ta biết muội không thèm lấy hắn, muội ước lấy được ta chứ gì?

Bấy giờ tôi mới nhận ra mình mắc bẫy của hắn, bèn “xì” một tiếng rồi lờ hắn luôn.

Tôi lại thả người xuống bãi cỏ, ngắm nhìn bầu trời đêm đầy sao, gần và thấp thế kia, chỉ cần với tay là chạm tới. Nơi thiên thần trú ngụ quây quần nhiều vì sao thế kia, hẳn phải đông vui lắm.

Có chú dế mèn nhảy lên đầu rồi bị vướng vào tóc tôi, lại còn kêu rả rích nữa chứ. Tôi chụp tay bắt nó, từ từ gỡ nó ra khỏi tóc, nó cựa quậy trong lòng bàn tay tôi, tôi thổi phù đưa nó xuống bãi cỏ rồi nó biến mất hút. Chắc nó vẫn quanh quẩn gần đây thôi, vì tôi vẫn nghe thấy tiếng dế rỉ rả trong đêm.

Cố Tiểu Ngũ cũng ngả mình nằm gối lên yên ngựa của hắn. Cứ tưởng hắn ngủ rồi, nhưng hắn đang nhắm mắt, uể oải nói:

- Này! Muội hát một bài đi!

Cơn gió hiền hòa, dịu êm như bàn tay mẹ vỗ về khuôn mặt tôi. Tuy tâm trạng đã khá hơn, song tôi vẫn quen thói tranh cãi với Cố Tiểu Ngũ:

- Sao huynh cứ bảo ta hát thế? Sao huynh không hát cho ta nghe?

- Ta không biết hát.

- Gì chứ? Ai mà chẳng biết hát. Hát đi! Hát bài hồi nhỏ mẹ huynh hay hát cho huynh nghe ấy.

Cố Tiểu Ngũ im lặng một lúc lâu, mãi sau tôi mới thấy hắn nhẹ nhàng lên tiếng:

- Ta không có mẹ.

Tôi có anh trai, có mẹ, còn mẹ hắn ngã bệnh rồi qua đời đã lâu, tôi bỗng thấy áy náy. Nhớ lại những lần thấy mẹ tiếp hắn niềm nở hơn hẳn tiếp tôi, trong lòng tôi tự hiểu, có lẽ vì hắn mồ côi mẹ từ nhỏ, cho nên mẹ tôi mới quan tâm tới hắn nhiều hơn. Tôi bật dậy, trộm nhìn sắc mặt Cố Tiểu Ngũ, chỉ sợ hắn cảm thấy tủi thân. Nhưng dưới ánh sao mờ, sắc mặt hắn ra sao, tôi cũng không rõ.

“Có con cáo nhỏ cô đơn,

Ngồi trên cồn cát ngắm trăng một mình,

Cơ mà đâu phải ngắm trăng,

Cáo đang mong đợi cô nàng chăn dê.

Có con cáo nhỏ bơ vơ,

Ngồi trên cồn cát thẩn thơ sưởi mình,

Nào đâu cáo muốn sưởi mình,

Cáo đợi cô mình cưỡi ngựa đi qua.”

Cuối cùng Cố Tiểu Ngũ cũng lên tiếng. Hắn nhăn nhó nói:

- Khó nghe thế! Đổi bài khác đi!

- Ta chỉ biết bài này...

Bỗng nghe đâu đó có tiếng kèn vang lên, tôi mừng vui khôn tả, vội vã đứng dậy nhìn quanh, hóa ra là Hách Thất ngồi dưới sườn dốc thoải, đang thổi kèn tất lật. Trước đây, tôi chỉ nghe danh thần cung của Hách Thất, không ngờ huynh ấy thổi kèn lại hay thế. Hách Thất chỉ dùng một tay nên nhiều nốt không ấn được, nhưng tiếng kèn vẫn dìu dặt, lúc trầm lúc bổng, quyện trong làn gió đêm mát rượi, nghe êm tai quá. Tôi ngẩng đầu nghe, tiếng kèn của Hách Thất nghe thật não nề, dần dần chỉ còn tiếng hát của mười mấy người Đột Quyết nọ, giọng những người đàn ông trầm ấm mà âm vang, càng nghe càng thấy bi thương, hùng tráng. Giọng hát ấy tựa gió sa mạc, lại giống cánh chim ưng chao liệng giữa thảo nguyên, quanh quẩn nơi sâu thẳm rồi không ngừng ngân vang. Trời đất lặng lẽ như tờ, côn trùng núp trong lùm cỏ không còn cất tiếng ngân nga, con ngựa nhỏ cũng thôi hí rền, những người Trung Nguyên cũng bặt tiếng… Làn điệu đồng ca lắng đọng trong lòng.

Tôi nghe đến ngây người, tận khi những người Đột Quyết thôi hát, lại rộ tiếng cười đùa. Cố Tiểu Ngũ hỏi một câu bâng quơ:

- Họ hát bài gì thế?

- Bài ca xuất chinh của người Đột Quyết. - Tôi nghĩ một lúc rồi nói. - Trước khi ra trận, họ thường hát bài này. Tang Cách trong bài hát vốn là một mỹ nhân nức tiếng người Đột Quyết, người yêu của nàng phải đi chinh chiến bốn phương, sau này không thấy trở về, chỉ có con ngựa quay lại. Bấy giờ nàng vuốt ve yên ngựa, nhìn ống tên trống rỗng của người yêu rồi hát khúc ca này.

Hình như hắn mỉm cười:

- Sao lại phải đi chinh chiến bốn phương?

- Bọn họ là dũng sĩ của Đột Quyết, chiến đấu vì Đột Quyết, chinh chiến bốn phương là điều bất đắc dĩ thôi. - Tôi bực mình lườm hắn. - Có nói huynh cũng không hiểu.

Hắn nói:

- Có gì mà không hiểu chứ? Người Trung Nguyên có câu: “Cốt khô Vô Định, xót thương. Trong mơ, khuê nữ còn vương vấn tình”[69], thực ra cũng như nhau cả thôi.

[69]Trích Lũng Tây hành của Trần Đào, bản dịch của Phụng Hà.

Vừa nghe có chuyện hay, tôi liền háo hức, nằng nặc đòi Cố Tiểu Ngũ kể cho nghe bằng được. Thấy tôi chèo kéo, hắn ngẫm một lúc rồi nói:

- Được rồi, kể cũng được, nhưng muội không được hỏi gì đâu đấy, chỉ cần một câu: “Tại sao lại thế?”, ta sẽ không kể tiếp nữa.

Tuy điều kiện có vẻ hà khắc song cố kìm không hỏi: “Tại sao lại thế?” thì cũng dễ, tôi lập tức gật đầu đồng ý. Cố Tiểu Ngũ nghĩ một lúc rồi kể:

- Rất lâu, rất lâu về trước, có một vương quốc ảo, ở vương quốc ảo đó, có một cô nương tuổi đương độ xuân thì...

- Cô nương ấy đẹp không? Dễ thương không? - Tôi nóng lòng hỏi. - Biết cưỡi ngựa không?

Hắn bật cười:

- Cô nương ấy rất đẹp, rất đáng yêu, cũng biết cưỡi ngựa. Mỗi lần cưỡi ngựa dạo chơi ở vương quốc ảo, cô ấy thường đeo mạng che mặt, chính là loại mũ có rèm sa ấy. Một hôm, cô nương ấy đang thong dong cưỡi ngựa, gió bỗng thổi bay chiếc mũ... Một vị công tử nhặt được chiếc mũ ấy, liền trả lại cho cô nương kia. Hai người họ tuy lần đầu gặp mặt, song đã một lòng hẹn ước phải thành thân, tức là cưới gả ấy…

Tôi rất thích thú với đoạn mở đầu câu chuyện, liền hỏi:

- Vị công tử kia trông đẹp trai chứ? Có xứng với cô nương xinh xắn đó không?

Hắn nói:

- Đẹp hay không thì chưa rõ, song vị công tử này là con trai của Đại tướng quân, vô cùng dũng mãnh, thiện chiến. Ước hẹn chưa được bao lâu, vị công tử kia được lệnh xuất chinh, liền dẫn binh xông pha trận mạc. Cô nương nọ ở nhà đợi chàng, đợi mãi, nhiều năm ròng không thấy chàng trở về. Người nhà của cô gái giục cô đi lấy chồng, tuổi thanh xuân không phải là mãi mãi, chỉ e không ai chịu lấy. Cô nương ấy khăng khăng không chịu, một mực đợi chờ, nào ngờ tin từ biên ải gửi về, thì ra chàng công tử kia đã hy sinh nơi trận mạc.

Hắn kể đến đó thì dừng lại, tôi rối rít hỏi:

- Vậy cô nương ấy thế nào? Biết tin chàng công tử kia chết rồi, cô ấy sẽ ra sao?

- Nàng rất buồn, song một mực không tin, võ nghệ của chàng công tử kia rất cao cường, lại tinh thông binh pháp, hơn nữa, hằng năm đều xuất chinh, trải qua bao nhiêu lần chiến sự, sao có thể rơi vào trận địa mai phục của địch, rồi bị quân địch giết dễ dàng thế được? Nàng nhốt mình trong phòng suy nghĩ suốt mười ngày đêm, cuối cùng hạ quyết tâm, phải tìm cho ra chân tướng sự việc. Nhưng nàng chỉ là phận gái chân yếu tay mềm, không có quyền thế gì, dẫu người nhà làm quan thì cũng không đủ bản lĩnh để giải quyết những việc này. Lúc ấy, vừa hay Quốc vương của vương quốc ảo hạ chiếu thư tuyển phi tần. Với vẻ đẹp trời ban, nàng tự nguyện nhập cung, trở thành phi tử của hoàng đế. Tính nàng dịu dàng, hòa nhã, lại thông minh, nhạy bén, Quốc vương rất mực sủng ái, dần dần nàng đã có địa vị trong hậu cung. Rồi nàng kết giao với đám quần thần, lợi dụng tay chân của bọn họ, điều tra manh mối về trận chiến mấy năm trước, cốt tìm ra nguyên nhân khiến chàng công tử kia bỏ mạng nơi sa trường. Sau đó, nàng dần thu thập được manh mối, mới biết nguyên nhân cái chết của chàng không phải do địch mai phục, mà bị chính phe mình hãm hại. Nàng liền lần theo manh mối để điều tra, kết quả thật sự nằm ngoài sức tưởng tượng, hóa ra Hoàng hậu cũng dính líu đến việc này.

- Hoàng hậu đố kỵ nàng đã lâu, bởi Quốc vương hết mực sủng ái nàng, giờ đây nàng lại quyết tâm tìm ra chân tướng cái chết của chàng công tử kia. Chuyện này mà đến tai Quốc vương, Hoàng hậu có thể sẽ bị truất ngôi. Đúng lúc này, nàng hạ sinh cho Quốc vương một vị hoàng tử, Hoàng hậu liền sai người bỏ độc vào thuốc tẩm bổ. Nàng uống bát thuốc có thuốc độc, ngày một hao gầy, ốm yếu, về sau ngã bệnh mà qua đời. Trước lúc chết, nàng hy vọng có thể công khai nguyên nhân cái chết của chàng công tử nọ cho dân chúng được biết, nhưng không kịp. Hoàng hậu nói nàng bị bệnh lao rồi sai người giam lỏng, cấm người khác đến thăm, và còn ẵm mất Tiểu Hoàng tử mới chào đời...

Tôi thấy hồi hộp, bèn hỏi:

- Hoàng hậu còn muốn giết cả Tiểu Hoàng tử ư?