Đông Cung - Chương 09 - Phần 02
Tôi không ngừng ngoái đầu nhìn đám binh sĩ truy đuổi mình, bọn chúng đuổi tới sát tôi lắm rồi, ít nhất phải có đến nghìn tên. Giữa thảo nguyên, trông đám kỵ binh ấy quả thật tôi thấy rùng mình. E rằng đến cha tôi cũng không tùy tiện điều động nhiều người như vậy chỉ để bắt tôi. Vừa phi ngựa phóng như bay, tôi vừa thắc mắc, rốt cuộc, những binh sĩ đó là từ đâu đến?
Chẳng mấy chốc, vó ngựa của tôi đã tiến gần đến chân núi Thiên Hằng, phía xa xa, loáng thoáng trông thấy vài đốm đen, bên tai văng vẳng tiếng ngân dài. Đúng là bài ca chăn cừu của người Đột Quyết rồi, giai điệu ấy vọng vào tai tôi đầy thân thuộc, tôi tự nhủ đó hẳn là người do ông ngoại cử đến đón mình. Tôi bèn kẹp chặt bụng ngựa, thúc nó chạy nhanh hơn nữa. Toán người Đột Quyết cũng nhận ra tôi, họ đứng trên yên ngựa, gắng sức vẫy tay ra hiệu.
Tôi cũng vẫy tay chào lại, ắt họ cũng nhìn thấy đội quân phía sau tôi. Ngựa phi mỗi lúc một nhanh, tôi mỗi lúc một gần họ. Cờ trắng của Đột Quyết đã ở ngay trước mắt, đuôi cờ buông mình dài thượt, xõa tung trước gió chiều, chẳng khác nào một con cá dập dềnh giữa không trung. Tôi quen người cầm cờ, không ai khác chính là thần cung Hách Thất, vốn là cung thủ dưới trướng được ông ngoại trọng dụng nhất. Thấy đám kỵ binh đuổi theo tôi đông nghịt, Hách Thất liền cắm phịch cán cờ vào giữa khe đá, rút vội cây cung sau lưng.
Tôi đang rạp mình trên yên ngựa phóng băng băng nhưng cũng nhìn thấy rõ. Tôi cuống cuồng thét:
- Ta không biết bọn họ là ai đâu!
Vì chúng bám đuôi tôi nãy giờ nên tôi rất tò mò muốn biết, rốt cuộc chúng là lính phe nào.
Khi khoảng cách giữa tôi và Hách Thất rút ngắn còn khoảng mười trượng, tôi mới dần nới lỏng cương ngựa. Sau lưng Hách Thất có khoảng mấy chục cung thủ, dưới nắng chiều lấp lóa, tay họ lăm lăm cung tên màu xanh, vừa nheo mắt ngắm bắn đám kỵ binh đang đuổi theo tôi sát nút, vừa thúc ngựa quây tôi vào giữa phe mình. Hách Thất nở nụ cười tươi chào tôi:
- Kính chào Tiểu Công chúa!
Sở dĩ họ nể mặt mẹ tôi nên ngay từ thưở nhỏ, đám binh sĩ dưới trướng Đại thiền vu Đột Quyết đều xưng tụng tôi như thế, dù tôi không phải nữ vương Đột Quyết. Gặp được Hách Thất, tôi thấy yên tâm hẳn, thậm chí quên ngay đám kỵ binh đang truy đuổi phía sau. Tôi phấn khởi nói:
- Hách Thất, chào huynh!
Đội quân tinh nhuệ ấy chỉ còn cách chúng tôi chừng hai tầm tên bắn[65], chúng kéo đến làm trời rung đất chuyển, tiếng vó ngựa rầm rập sát bên tai.
[65] Người xưa dùng khoảng cách khi bắn tên làm thước đo.
- Chà! - Dường như Hách Thất vừa thở phì một tiếng, vẻ mặt khoái trá, nói. - Quân đông gớm, định đánh nhau với chúng ta chắc?
Dứt lời, Hách Thất liền giương cung, tên đã đặt trên dây, bên cạnh huynh ấy, lá cờ trắng của Đột Quyết no gió tung bay phần phật. Bất kỳ bộ tộc nào trên thảo nguyên hễ thấy lá cờ này giương lên ở đâu, sẽ tự hiểu dũng sĩ dưới quyền Đại Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt đang có mặt ở đó, kẻ nào dám đụng vào dũng sĩ của Đột Quyết, kỵ binh của Đột Quyết tất sẽ san bằng lán lều bọn chúng ở, bắt sạch dê bò bọn chúng nuôi, diệt tận gốc thị tộc của bọn chúng… Ở Ngọc Môn Quan này, có kẻ nào dám xấc láo, khinh thường lá cờ trắng này cơ chứ!
Đám kỵ binh kia càng lúc càng đến gần, bọn chúng nghênh ngang như thể từ xưa đến nay chưa hề nhìn thấy lá cờ này. Lớp giáp sắt dưới nắng chiều gay gắt trở nên vàng rực, trông càng sáng. Tôi bất giác hít một hơi thật sâu…
Giáp mỏng, yên ngựa, mũ sắt... chúng là kỵ binh của Nguyệt Thị. Tuy không có cờ hiệu, song tôi vẫn nhận ra, đây đích thị là quân của Nguyệt Thị. Mặc dù chưa một lần sang Nguyệt Thị nhưng tôi từng chứng kiến quân lính của Nguyệt Thị thao luyện ở phủ đô hộ[66] An Tây. Bộ tộc ấy nuôi toàn ngựa khỏe, giáp trụ rõ nét, cung tên sắc bén, lính tráng dũng mãnh, thiện chiến vô cùng... Hách Thất cũng nhận ra, huynh ấy ngoái đầu nhìn tôi, nói:
[66] Là cơ quan quản lý các khu vực biên giới của một số triều đại phong kiến ở Trung Quốc.
- Bẩm Công chúa, bây giờ người nên chạy ngựa về hướng đông, băng qua sông Tân Lý, lều của Đại Thiền vu ở phía đông con sông.
Tôi gào lên:
- Muốn đánh thì cứ đánh đi, chẳng lẽ ta lại tháo chạy một mình hay sao?
Hách Thất gật đầu rồi nhường đao của mình cho tôi. Lòng bàn tay tôi rịn mồ hôi khi cầm thanh đao. Đội quân của Nguyệt Thị lợi hại thế nào, tôi thừa hiểu, huống hồ quân địch ở trước mắt đông như kiến, phăm phăm lao tới như vũ bão. Dù Hách Thất là thần cung, song phe tôi chỉ có khoảng mấy chục người, e là khó lòng địch nổi.
Đảo mắt thấy đám kỵ binh kia mỗi lúc một áp sát, tay tôi bủn rủn, chực đánh rơi thanh đao. Tuy tôi luôn thấy mình chẳng thua kém gì các ca ca của tôi, song cũng phải nói thật, xuất trận đánh địch, có lẽ đây là lần đầu.
Cờ hiệu màu trắng phần phật tung bay ngay sau lưng tôi, vầng dương sắp lặn xuống sát đường chân trời trên thảo nguyên, cỏ chè vè nhấp nhô dậy sóng theo làn gió, chẳng khác nào gió cát cuồn cuộn trên sa mạc. Thoắt cái đất trời đã nhuốm lạnh, mắt tôi hấp háy liên hồi, vì mồ hôi lăn tròn, rơi xuống khóe mắt cay sè.
Đám binh sĩ kia trông thấy bóng cờ trắng, cuối cùng cũng ghìm cương ngựa, chúng dàn ngang thế trận, dần áp sát. Hách Thất gằn giọng, quát:
- Có Hách Thất của Đột Quyết ở đây, vó ngựa của các ngươi đang giẫm lên thảo nguyên của Đột Quyết, lẽ nào định không tuyên chiến mà đánh hay sao?
Tài bắn cung của Hách Thất nức tiếng gần xa, Hách Thất trong tiếng Đột Quyết có nghĩa là mũi tên. Nghe truyền, một khi Hách Thất muốn bắn trúng con mắt bên trái của chim nhạn đang chao lượn trên bầu trời, tuyệt nhiên sẽ không lệch sang con mắt bên phải, vì lẽ đó mà Đại Thiền vu vô cùng tin tưởng Hách Thất. Quả nhiên bọn kia vừa nghe đến cái tên Hách Thất cũng khó tránh khỏi nao núng, một tên rong ngựa tiến lên, liến thoắng tuôn một tràng dài. Tôi không biết tiếng Nguyệt Thị, nhờ Hách Thất phiên dịch mới biết thì ra đám kỵ binh ấy vừa để lạc mất một tên nô lệ nên mới đuổi tới đất này. Còn đây có phải địa giới của Đột Quyết hay không thì thực ra biên giới giữa Nguyệt Thị, Đột Quyết và Tây Lương ở chân núi Thiên Hằng này xưa nay vốn là việc chẳng ai quản lý, nếu nói đây là lãnh thổ của Đột Quyết, e có phần gượng gạo.
- Lạc mất nô lệ ư?
Tôi lấy làm lạ, bèn nhắc lại. Gã thủ lĩnh phe Nguyệt Thị giơ roi ngựa trỏ vào tôi, ngón tay múa may nói gì đó. Hách Thất phẫn nộ, gào lớn:
- Công chúa, hắn dám nói người chính là nô lệ bị lạc của chúng.
Tôi bực mình, liền tuốt đao, nói:
- Hỗn láo!
Hách Thất gật đầu:
- Bọn này chỉ giỏi kiếm cớ thôi.
Thấy gã Tướng quân của Nguyệt Thị tiếp tục luyên thuyên, tôi hỏi:
- Hắn nói gì thế?
- Hắn nói nếu bên ta không giao người cho chúng, chúng buộc phải điều binh đánh cướp. Đột Quyết bao che cho nô lệ của Nguyệt Thị, đẩy hai nước vào thế giao tranh, đều là do người Đột Quyết không biết điều.
Tôi bực lắm, cười phá lên:
- Có mà bọn chúng không biết điều ấy, còn dám đổ vạ cho chúng ta?
Hách Thất trầm giọng, nói:
- Tiểu Công chúa nói chí phải, có điều địch cậy thế đông, lại nhằm vào tiểu Công chúa... Bẩm Công chúa, người cứ đi về hướng đông tìm lều của Đức vua, rồi bảo người phái viện binh tới. Đám người Nguyệt Thị xấc xược, vô lễ này, nếu không địch nổi, hẳn phải báo cho Đại Thiền vu hay, chớ để mình mắc bẫy bọn chúng.
Nói đi nói lại, ý Hách Thất vẫn muốn để tôi thoái lui. Dẫu nơm nớp lo sợ, song tôi vẫn ưỡn ngực, xẵng giọng, nói:
- Huynh cử người khác về báo tin đi, chứ ta quyết không bỏ chạy!
Hách Thất ngập ngừng rồi nói:
- Tiểu Công chúa ở đây, Hách Thất không đủ người để bảo vệ Công chúa.
Ngẫm một hồi cũng thấy điều Hách Thất nói là hiển nhiên. Nếu tôi ở đây, chỉ e sẽ vướng chân bọn họ. Đành rằng tôi bắn tên cũng khá, song tôi chưa một lần ra trận, trong khi bọn họ đều là những dũng sĩ Đột Quyết được rèn giũa nơi sa trường.
- Được rồi. - Tôi giữ chặt chuôi đao, nói. - Để ta đi báo tin!
Hách Thất gật đầu, lấy túi nước bên hông ngựa xuống, dặn tôi:
- Đi thẳng về hướng đông chừng ba trăm dặm, nếu không tìm được lều của Đại Thiền vu thì rẽ về hướng bắc, quân của Tả Cốc Lãi vương cách đó không xa, chừng trăm dặm đổ lại.
- Ta biết rồi.
Hách Thất cầm cán đao đập mạnh vào mông ngựa, quát lớn:
- Đi!
Chú ngựa nhỏ lồng lên rồi lao vút đi, đám kỵ binh của Nguyệt Thị la om sòm. Ngựa phi nhanh như bay, trong nháy mắt đã bỏ lại sau lưng tất thảy. Tôi không ngừng ngoái đầu lại nhìn, chỉ thấy đám người của Nguyệt Thị đen kịt như đàn kiến chuyển tổ ngày mưa, còn Hách Thất và mấy chục binh sĩ Đột Quyết bị chúng quây lại. Một đám lính Nguyệt Thị khoảng chục tên tách đoàn định đuổi theo tôi, nhưng mũi tên của Hách Thất đã lao đến bủa vây, bọn chúng không kẻ nào tránh được loạt tên chí mạng ấy, người ngựa đổ rầm, trong lúc gấp gáp không kẻ nào đuổi kịp. Ngựa của tôi càng phóng càng nhanh, lúc ngoảnh lại nhìn chỉ còn thấy bóng cờ trắng, những thứ khác đều phai nhòa dưới ráng chiều, sắc trời ảm đạm và bóng đêm phủ mờ vạn vật.
Tôi thúc ngựa phi nhanh trên thảo nguyên. Trời không trăng không sao, oi ả như báo hiệu một cơn dông sắp đến. Lần đầu tiên tôi gặp kiểu thời tiết này, nơm nớp lo sợ trời sẽ đổ mưa. Giữa thảo nguyên mà gặp mưa đâu phải chuyện đùa, tôi ngước nhìn bầu trời, trời đen kịt, không một bóng trăng sao, khó mà đoán được phương hướng, tôi chỉ lo sẽ bị lạc đường.
Trên thảo nguyên làm gì có đường, cứ thế mà đi thôi. Tôi thúc ngựa chạy suốt đến lúc nửa đêm, may sao đám lính Nguyệt Thị kia không đuổi theo. Nhưng phe Hách Thất cũng chưa phá được vòng vây, tôi vừa sốt ruột không biết Hách Thất an nguy thế nào, vừa sợ bị lạc đường. Đã cuống lại vội, tôi suýt bật khóc. Bất chợt, một tiếng “roẹt” dội tới, tia chớp loằng ngoằng ánh tím xé toạc màn đêm âm u, lóe sáng một góc trời, tiếng sấm dội từng cơn ầm ầm.
Sắp mưa thật rồi, tôi phải tìm chỗ trú mưa thôi. Những tia chớp như những con rắn rẽ mây đen trườn khắp bốn phía, nhờ ánh chớp loang loáng, tôi mới nhìn thấy một dốc đá phía xa. Thì ra tôi chạy đến tận nửa đêm, quanh quẩn mãi cuối cùng vẫn ở dưới chân núi Thiên Hằng.
Tìm phiến đá trú mưa trước đã, thà thế còn hơn chết vì dầm mưa. Tôi thúc ngựa tiến về phía trước, chú ngựa nhỏ khéo léo giẫm lên đá núi, tôi lo đá dăm cắm vào móng ngựa, bèn trườn xuống, dắt nó đi men theo đường núi. Cơn mưa dông ồ ạt kéo đến, mưa như những ngọn roi gân bò quất xối xả lên người, lên mặt đau buốt. Quần áo sũng nước mưa, nước mưa xuôi theo tóc len vào mắt khiến mắt tôi không thể nào mở nổi. Tôi vuốt khuôn mặt ướt nhèm, mãi mới trông thấy một phiến đá to nhô hẳn ra ngoài, núp dưới phiến đá đó thì có thể trú mưa được rồi.
Tôi dắt ngựa bò xuống mỏm đá to, cả người cả ngựa co ro ở đó. Bên ngoài, mưa vẫn rào rào như trút nước. Nhớ tới Hách Thất, lòng tôi nóng như lửa đốt. Chú ngựa nhỏ quỳ trên đá, dường như nó cũng hiểu nỗi lo lắng của tôi, thỉnh thoảng thè lưỡi liếm láp lòng bàn tay tôi. Tôi ôm cổ nó, thì thầm:
- Chẳng rõ đám Hách Thất thế nào rồi...
Trời vẫn mưa tầm tã, nước đổ xuống từ vách núi cao, tụ thành tấm mành nước trắng xóa phủ lên mặt phiến đá. Không biết trời còn mưa đến bao giờ, một lúc lâu sau mưa mới ngớt. Núi đá bên ngoài còn no nước, nước róc rách chảy như một dòng suối nhỏ. Gió nhẹ vén tấm rèm mây đen, khoe mảnh trăng khuyết trong ngần.
Tôi hắt xì, áo quần ướt nhẹp, dính vào cơ thể, cơn gió thổi qua mà lạnh run người. Ngòi lấy lửa đem theo đã ngấm nước mưa, chỗ này lại không có củi khô, muốn nhóm lửa cũng không được.
Bên ngoài, tiếng nước chảy nhỏ dần, chú ngựa nhỏ sáp lại gần, đầu lưỡi ấm nóng của nó liếm lên mặt tôi. Tôi thầm nghĩ, nếu mưa đã tạnh hẳn thì cũng nên tranh thủ thời gian xuống núi tìm đường tiếp.
May mà lúc xuống núi có trăng, trăng chỉ tôi hướng phải đi. Ngựa cuồng chân dưới vách đá hồi lâu, lúc này hăng hái lắm, lao vun vút về phía rạng đông. Hình như mặt trời sắp ló dạng, nếu không sao người tôi lại nóng thế này?
Tôi mơ hồ nghĩ, tay cương cũng lỏng dần, lưng ngựa tròng trành, chao nghiêng như một chiếc nôi, thật thoải mái làm sao! Cả đêm thức trắng, giờ tôi buồn ngủ díp cả mắt.
Không rõ tôi đã thiếp đi bao lâu, hình như mới một lúc, mà có khi đã lâu lắm rồi. Ngựa đi qua một con sông, ngựa lội bì bõm bắn nước lên người lạnh buốt, lúc ấy tôi mới giật mình choàng tỉnh. Đồng không mông quạnh trải khắp bốn bề, núi Thiên Hằng lùi lại tít phía sau. Nhìn từ xa, ngọn núi hùng vĩ ấy chẳng khác nào một người khổng lồ đầu đội trời, chân đạp đất. Người khổng lồ đội trên đầu một chiếc mũ trắng tinh, tích tụ băng tuyết quanh năm không tan chảy, con sông dưới chân tôi cũng bắt nguồn từ băng tuyết trên đỉnh Thiên Hằng gom dòng đổ xuống, vì thế nên nước sông lạnh thấu xương.
Người run rẩy, tôi nhớ ra mình chưa ăn uống gì, chẳng trách người lại uể oải, mệt mỏi. Lương khô buộc sẵn sau yên ngựa đây rồi, song miệng tôi khô khốc, nhạt nhẽo, chẳng muốn ăn. Tôi thầm nghĩ, hay xuống ngựa, uống chút nước nhỉ? Bỗng thấy gần đó có một bóng đen khẽ cử động, chực lao thẳng về phía mình, tôi nghĩ ngay đến bọn lính Nguyệt Thị. Cố căng mắt nhìn, cũng chỉ trông thấy cái bóng lờ mờ, song di chuyển rất nhanh, may sao đằng đó chỉ có một người một ngựa.
Nếu là người của Tả Cốc Lãi vương thì tốt quá... Tôi cố tuốt đao sau lưng, ngộ nhỡ gặp kẻ địch thì sẽ dốc sức chiến đấu đến cùng.
Đó hẳn là ý nghĩ cuối cùng của tôi, rồi trước mắt sụp tối, tôi ngã nhào khỏi yên ngựa.
Người Tây Lương từ nhỏ đã thạo cưỡi ngựa và bắn cung. Bất kể là trai hay gái, lúc biết đi cũng là lúc biết cưỡi ngựa. Tôi từ nhỏ đã lớn lên trên lưng ngựa, đường đường là Cửu Công chúa của Tây Lương mà lại ngã ngựa, chuyện này mà đến tai người dân sống ở Vương thành Tây Lương, chỉ e người ta sẽ cười nhạo.
Lúc tỉnh lại, tay vẫn lăm lăm thanh đao, tôi chớp mắt nhìn bầu trời trong xanh, mây trắng sà xuống như chỉ ngang tầm tay. Thì ra tôi đang ngả lưng trên một sườn đồi thoai thoải, cây cối trên sườn đồi che khuất ánh nắng chói chang, gió thu hây hây, mát mẻ, tiếng vó ngựa quen thuộc vọng lại từ một nơi nào đó rất gần… Tôi tự nhủ hãy cố thả lỏng…
- Tỉnh rồi à?
Giọng nói này nghe quen quen. Tôi cố gắng ngồi dậy mà đầu óc choáng váng, chớp chớp mắt, vẫn thấy khó mà tin được.
Gã buôn chè người Trung Nguyên - Cố Tiểu Ngũ - đang ngồi trên dốc cỏ, uể oải gặm một miếng thịt bò khô.
Tôi vô cùng sửng sốt:
- Sao huynh lại ở đây?
Hắn nói:
- Tình cờ đi ngang qua.
Tôi không tin!
Bụng tôi sôi ùng ục, tôi nhớ sau yên ngựa có lương khô, liền huýt sáo gọi ngựa về. Nó chạy lại, tôi căng mắt nhìn, trên lưng ngựa không có gì, đến bộ yên cũng đâu mất. Tôi nhìn kĩ lần nữa, gã Cố Tiểu Ngũ đang ngồi chễm trệ trên yên ngựa của tôi, mà thịt bò sấy hắn đang gặm, chẳng phải lương khô tôi mang theo đấy ư?
- Này! - Tôi tức tối, quát. - Lương khô của ta đâu?
Miệng vẫn đang nhai thịt, hắn bẽn lẽn giơ nửa miếng thịt trên tay lên:
- Vẫn còn miếng cuối cùng...
Miếng cuối cùng gì chứ, mẩu cuối cùng thì có.
Tôi trừng mắt nhìn hắn, đoạn nhét tọt mẩu thịt bò khô bé tẹo vào miệng, tức mình gào lên:
- Huynh ăn hết rồi? Tôi biết ăn cái gì đây?
- Muội đói à? - Hắn nhấc túi nước, uống một ngụm rồi ỡm ờ nói. - Muội mới ốm dậy, ăn mấy thứ này không tốt đâu.
Ốm cái gì chứ? Tôi nhảy lên:
- Huynh ở đâu ra thế hả? Lại còn ăn hết lương khô của ta! Đền đi! Mau đền cho ta!
Hắn cười giả lả:
- Muội cũng ăn đấy thôi, còn đền gì nữa!
Tôi nổi cơn thịnh nộ, sục sạo tìm thanh đao Hách Thất đưa.
Trông tôiloay hoay như con kiến bò trong chảo nóng, hắn bèn tỉ tê:
- Hay muội theo ta về Vương thành nhé, ta đền muội hẳn một con bò?
Tôi ném cho hắn cái lườm:
- Sao ta phải về Vương thành với huynh?
- Chẳng là cha muội dán cáo thị thông báo, người sẽ thưởng ngay một trăm nén vàng cho ai tìm và đưa được muội về Vương thành. - Hắn nhìn tôi vẻ rất nghiêm túc. - Những một trăm nén vàng đấy! Mua được bao nhiêu bò rồi còn gì!
Tôi tức điên lên, chẳng phải tức vì cái gì xa xôi, vì một trăm nén vàng kia kìa:
- Cha ta dán cáo thị như thế thật à?
Hắn bảo:
- Chẳng lẽ lại là giả? Ta chắc chắn đấy!
- Ta chỉ đáng giá một trăm nén vàng thôi à? - Tôi thất vọng ra mặt. - Ta cứ tưởng tối thiểu cũng phải một vạn thỏi vàng! Chưa kể còn phải phong hầu, thưởng cả vô số dê, bò, nô lệ nữa...
Thế mà cha vẫn thường bảo tôi là Tiểu Công chúa mà người yêu quý nhất. Yêu quý gì mà chỉ treo thưởng có một trăm nén vàng. Người thật keo kiệt! Keo kiệt quá!
Cố Tiểu Ngũ phì cười, không biết hắn đang cười cái gì. Tôi rất ghét vẻ mặt hắn lúc cười, nhất là kiểu cười mỉm rồi nhìn tôi chằm chằm, chẳng khác nào đang nhìn một trăm nén vàng.
Tôi quát:
- Huynh đừng có nằm mơ, còn lâu ta mới về với huynh!
Cố Tiểu Ngũ nói:
- Vậy muội định đi đâu? Từ lúc muội bỏ đi, sứ giả Nguyệt Thị tức giận lắm, họ nói đức vua cố tình để muội đi. Nguyệt Thị còn sai quân lính đi tìm muội về. Muội cứ lang thang trên thảo nguyên thế này, lỡ gặp phải quân của Nguyệt Thị thì khốn…
Đúng là khốn đốn thật, thì chẳng đã gặp quân Nguyệt Thị rồi còn gì? Nhớ đến đó, tôi bất giác than: “Trời ơi!”, suýt thì quên mất Hách Thất. Tôi phải khẩn trương đi báo tin cho ông ngoại!
Cố Tiểu Ngũ thấy mặt tôi tái mét, liền hỏi:
- Muội sao thế?
Tôi định không nói nhưng trên thảo nguyên mênh mông này, giờ chỉ có hắn ở bên tôi, hơn nữa, kiếm thuật của sư phụ thuộc hàng anh hùng cái thế, chưa biết chừng kiếm pháp của gã Cố Tiểu Ngũ này cũng thuộc loại siêu phàm.
Quả nhiên, sau khi nghe xong chuyện lính Nguyệt Thị truy đuổi tôi, Cố Tiểu Ngũ liền nói:
- Theo như muội nói thì lều của Đại Thiền vu cách chỗ này ít nhất ba trăm dặm?
Tôi gật đầu.
- Còn Tả Cốc Lãi vương cũng phải cách đây khoảng trăm dặm?
Tôi lại gật đầu.
- Ngặt nỗi dân Đột Quyết du mục nay đây mai đó, muội định tìm kiểu gì?
- Chuyện đó thì khỏi phải nghĩ nhiều, kiểu gì tôi cũng phải cứu được Hách Thất.
Cố Tiểu Ngũ chau mày rồi nói:
- Nước xa không cứu được lửa gần, phủ đô hộ An Tây ở ngay trước mặt, sao không mượn quân của họ để đánh Nguyệt Thị?
Tôi ngẩn người. Phải công nhận Trung Nguyên rất mạnh về quân sự, phủ đô hộ An Tây còn đảm đương trọng trách trấn thủ Tây Vực, khiến các nước phải nể sợ. Song cho dù giữa các nước xảy ra tranh chấp cũng chẳng ai đi cầu cứu viện binh của Trung Nguyên cả. Vì trong mắt người Tây Vực chúng tôi, giao chiến là chuyện giữa người Tây Vực với nhau, Trung Nguyên là thiên triều thượng quốc, phái hùng binh đến đóng giữ ở nơi này thì là chuyện đã đành, song chẳng mắc mớ gì đến việc tranh chấp giữa các nước Tây Vực với nhau. Cũng như anh em trong nhà gây hấn, nói gì thì nói, làm gì có chuyện gọi người ngoài tới can.
Tôi nói:
- Tuy phủ đô hộ An Tây gần đây thật nhưng chuyện này không thể để họ biết được.
Cố Tiểu Ngũ nhướn mày:
- Sao lại thế?
Tôi chẳng biết nói thế nào, tóm lại đây là điều cấm kỵ đối với tất cả các nước Tây Vực. Tôi bảo:
- Chuyện các nước ở Tây Vực đánh nhau thì có liên quan gì đến Hoàng đế Trung Nguyên?
Cố Tiểu Ngũ nói:
- “Dưới khắp gầm trời, đâu chẳng đất vua, trên mọi bến bờ, ai không thần tử.”[67] Hễ là chuyện thiên hạ, tất có liên quan đến Hoàng đế Trung Nguyên, huống hồ Trung Nguyên lập phủ đô hộ An Tây cốt để trấn an Tây Vực. Nguyệt Thị tỏ thái độ xấc xược, cũng đã đến lúc nên dạy cho bọn họ một bài học.
[67] Trích Kinh thi.
Mấy lời trưởng giả của hắn, tôi nghe chẳng lọt tai. Hắn dắt hai con ngựa rồi tiếp lời:
- Rẽ về hướng nam, đi nửa ngày đường là đến phủ đô hộ An Tây, ta đưa muội đi cầu viện binh.
Tôi lưỡng lự, chưa vội quyết:
- Việc này... không hay lắm thì phải?
- Thế muội có muốn cứu Hách Thất không?
- Đương nhiên là muốn!
Hắn đỡ tôi lên ngựa, nói:
- Vậy còn chần chừ gì nữa!
Đi được một quãng rất xa, tôi mới sực nhớ ra:
- Sao huynh tìm được ta?
Trời trưa nắng gắt, phủ lên khuôn mặt trắng ngần tựa ngọc Hòa Điền hoàn mỹ của hắn. Hắn cười tươi, khoe hàm răng trắng bóc:
- Gặp may thôi!