Đông Cung - Chương 11 - Phần 01
Chương 11
Buổi tối mùa thu, gió lướt qua phả hơi mát lành, tôi quấn chặt chiếc áo choàng da, thẫn thờ ngoài bờ sông, nghe dòng nước đổ tiếng róc rách, từ xa xa vọng lại tiếng chim nhạn gọi bầy. Tôi ngẩng đầu ngó quanh, đằng tây đã nhô cao một chòm sao sáng, sắc trời tím sẫm như một tảng thạch nho.
Có tiếng gió lùa xào xạc trong đám cỏ tranh, Cố Tiểu Ngũ đạp lên bụi cỏ, tiến về phía tôi.
Tôi bỗng thấy hốt hoảng. Cố Tiểu Ngũ mặc áo của dân tộc Đột Quyết, thắt lưng dắt một con dao nom như người Đột Quyết thực thụ. Cố Tiểu Ngũ không những thạo cung nỏ mà còn thuần thục tiếng Đột Quyết, mấy hôm nay, hắn chiếm được cảm tình của Đại Thiền vu. Tuy Cố Tiểu Ngũ là người Trung Nguyên nhưng Đại Thiền vu ngày càng tín nhiệm hắn, thậm chí còn ban cung sắt của người cho hắn. Bên cạnh đó, kể từ buổi so tài nọ, dường như Hách Thất và Cố Tiểu Ngũ đã kết tình huynh đệ. Cố Tiểu Ngũ dạy Hách Thất bắn tên liên hoàn, còn Hách Thất chỉ bảo cho hắn vài kinh nghiệm sống trên thảo nguyên. Mỗi lần gặp bọn họ sánh vai bên nhau, Đại Thiền vu lại gật đầu hài lòng. Đổi dao chính là nghi thức kết nghĩa của người Đột Quyết nên Hách Thất đã đổi dao với Cố Tiểu Ngũ. Trên chiến trường, anh em kết nghĩa còn thân thiết hơn cả anh em ruột thịt, thậm chí sẵn sàng hy sinh vì nhau. Chẳng trách dao dắt bên thắt lưng Cố Tiểu Ngũ chính là dao của Hách Thất, thoạt nhìn tôi liền nhớ tới lần Hách Thất dúi nó vào tay tôi, giục tôi chạy trước.
Nhác trông thấy tôi từ xa, Cố Tiểu Ngũ liền nhoẻn miệng cười, tôi cũng mỉm cười đáp lại. Trông vẻ mặt hắn tươi rói, tôi cũng thấy bình tĩnh hơn. Tuy tôi không nói gì, hắn cũng không lên tiếng, song ắt hắn hiểu vì sao tôi hẹn hắn ra đây. Quả nhiên hắn nói:
- Ta mang cho muội cái này.
Tim tôi đập như trống dồn, không phải thắt lưng đấy chứ? Giả sử bây giờ hắn tặng thắt lưng của hắn cho tôi, tôi nên trả lời thế nào nhỉ? Theo phong tục của Đột Quyết và Tây Lương, người con trai hát xong mới trao thắt lưng... Hắn còn chưa hát cơ mà! Tôi thẹn thùng, trái tim đập rộn ràng, thế mà hắn lại nói:
- Buổi tối chắc muội chưa ăn no đúng không? Ta đem cho muội một miếng sườn dê nướng thật to đây!
Tôi há miêng, trợn mắt, bỗng cảm thấy tức nghẹn họng, mãi sau mới nói được một câu:
- Có huynh chưa ăn no ấy!
Cố Tiểu Ngũ ngơ ngác nói:
- Dĩ nhiên ta ăn no rồi... Ta thấy tối nay muội chưa ăn gì nên mới mang sườn dê cho muội chứ!
Tôi hậm hực không lên tiếng, trong không gian chỉ lảnh lót tiếng của loài chim nào đó vọng lại từ đằng xa. Dòng nước vẫn róc rách chảy, cá dưới sông quẫy tưng bừng, làm bọt nước bắn lên. Miếng sườn dê thơm phức của Cố Tiểu Ngũ đặt ngay trước mặt tôi, quả thực buổi tối tôi chưa ăn gì, vì bụng dạ chỉ nghĩ tới chuyện chốc nữa hẹn hắn nên không thiết ăn. Giờ trông miếng sườn dê thơm phức này, bụng tôi sôi ùng ục. Hắn bật cười, đưa con dao cho tôi, nói:
- Ăn đi nào!
Sườn dê ngon quá đi mất! Miệng tôi bóng mỡ, hớn hở hỏi hắn:
- Sao huynh biết ta thích ăn sườn dê?
Cố Tiểu Ngũ nói một câu bằng tiếng Trung Nguyên, tôi nghe chẳng hiểu, hắn nói lại với tôi bằng tiếng Đột Quyết, thì ra là:
- Không có việc gì khó, chỉ sợ người không có lòng.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy câu ấy, chẳng hiểu lại khẽ chột dạ. Người như thế nào thì được gọi là có lòng nhỉ? Tuy tôi và Cố Tiểu Ngũ quen nhau chưa lâu, nhưng tôi luôn có cảm giác mình đã biết hắn từ lâu lắm rồi. Chắc bởi giữa chúng tôi từng xảy ra rất nhiều chuyện, lần nào hắn cũng ra tay giúp đỡ, bảo vệ tôi. Mặc dù hắn toàn nói những lời khiến tôi bực bội, nhưng nghe câu vừa rồi, tôi lại không hề tức giận. Chúng tôi lặng lẽ ngồi bên bờ sông, vẳng nghe đằng xa có tiếng hát của người Đột Quyết, đó là bài tình ca trầm thấp mà êm dịu, có chàng dũng sĩ Đột Quyết đứng ngoài cửa lều của người con gái mình yêu, nhờ lời ca tiếng hát để bày tỏ tình cảm thầm kín tận đáy lòng với người ấy.
Trước đây, tôi không nhận ra giọng hát ấy lại đi vào lòng người đến thế, nó thoắt ẩn, thoắt hiện như tiên khúc. Bầy đom đóm rập rờn quanh những bụi cỏ mọc ven sông, từng đốm chợt sáng rồi chợt tắt, thật giống những ngôi sao băng, hoặc tựa như nắm bụi vàng ai đó vung tay vẩy xuống. Thậm chí tôi còn nghĩ, bầy đom đóm lập lòe ấy chính là sứ giả nhà trời, họ cầm những chiếc đèn lồng nhỏ xíu, nhóm lên những đốm lửa lung linh giữa trời đêm lộng gió. Vùng đất ven sông thoáng đó đã rải rác những ánh lửa li ti, tiếng cười vui như xa cách cả một tầng mây. Tôi chợt nghĩ, nếu thần tiên nhìn xuống trần gian từ trên trời cao, chắc cũng có chung cảm giác này? Cũng phiêu diêu, cũng hư ảo, cũng mơ hồ và xa xăm…
Cuối cùng, tôi hỏi Cố Tiểu Ngũ:
- Tóm lại huynh có thực lòng muốn lấy ta không?
Cố Tiểu Ngũ có vẻ hơi bất ngờ, liếc nhìn tôi rồi nói:
- Đương nhiên ta muốn!
- Nhưng tính cách của ta không tốt đẹp gì, vả lại huynh là người Trung Nguyên, ta là người Tây Lương, ta thích ăn cơm kê, thích ăn thịt dê… Huynh nói tiếng Trung Nguyên ta nghe không hiểu, chuyện Trung Nguyên nhà huynh ta cũng không rõ. Nếu bảo huynh ở lại Tây Lương, nơi cách Trung Nguyên đến hàng nghìn dặm, chắc chắn huynh sẽ rất nhớ nhà. Còn giả sử huynh không muốn ở Tây Lương mà về Trung Nguyên thì ta sẽ rất nhớ nhà. Đành rằng huynh giết được vua sói mắt trắng, song chưa chắc đã là vì ta. Huynh cũng nói rồi đấy thôi, chẳng qua là tình cờ trên đường đi buôn chè... Tuy ta còn nhỏ nhưng cũng hiểu những chuyện này đâu thể ép buộc…
Tôi tuôn một lèo không ngừng nghỉ, từ lúc quen nhau tới giờ, những gì phiền phức tôi đều nói hết, nói đến rạc cả cổ họng. Cố Tiểu Ngũ không hề ngắt lời tôi, mãi khi thấy tôi đặt miếng sườn dê xuống, uống ngụm nước, hắn mới nói:
- Nói nãy giờ mà toàn những chuyện chẳng liên quan gì! Ta chỉ hỏi muội, rốt cuộc muội có bằng lòng lấy ta không?
Nước trong miệng suýt nữa thì phun ra ngoài, tôi trừng mắt nhìn hắn hồi lâu, mặt bỗng nóng bừng:
- Bằng lòng hay không... ơ...
- Nói đi! - Cố Tiểu Ngũ giục. - Tóm lại muội có bằng lòng không?
Lòng tôi rối bời. Mấy hôm nay, mọi thứ như hư ảo, như mộng mị, nhiều việc xảy ra chớp nhoáng. Tôi thực sự chưa từng nghĩ mình sẽ lấy chồng sớm thế này. Hơn nữa, thoạt đầu tôi thấy gã Cố Tiểu Ngũ này thật đáng ghét, còn bây giờ lại không thể nào ghét được. Tôi chẳng biết nên trả lời thế nào, nhìn những con đom đómlập lòe giữa khoảng không, tôi hạ quyết tâm, nói:
- Vậy huynh bắt cho ta một trăm con đom đóm, ta sẽ bằng lòng lấy huynh.
Dứt lời, Cố Tiểu Ngũ liền đứng phắt dậy. Tôi ngơ ngác nhìn hắn chẳng khác nào một chú nhóc nghịch ngợm, vươn tay tung một cú lộn nhào. Hắn nhảy vọt lên, như một ngôi sao… không, không giống sao băng, trông hắn như sắp lao thẳng xuống bãi sông. Sau một cái khua tay bất ngờ, hắn đã chụp được mấy con đom đóm, chúng tỏa sáng lập lòe giữa những kẽ tay. Tôi đùm vạt áo, cuống quýt nói:
- Mau lên! Mau lên!
Hắn thả đom đóm vào cái bọc mà tôi đùm bằng vạt áo rồi lại nhảy lên lần nữa. Võ công của người Trung Nguyên giống như một bức tranh, hoặc một bài thơ phóng khoáng. Nhất cử nhất động của Cố Tiểu Ngũ như đang nhảy múa, trên đời này chẳng có điệu múa nào khí khái, hào hùng đến thế. Hắn tung người giữa không trung, xoay những góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đom đóm thoắt ẩn thoắt hiện. Ống tay áo khẽ gợn theo làn gió, tôi chỉ hướng cho hắn:
- Bên trái kìa! Bên phải có nhiều lắm!
- Ối!
- Nó chạy mất rồi! Bên kia! Trời ơi, đằng kia kìa!
...
Tiếng cười của chúng tôi dạt đến tận bờ sông bên kia. Bầy đom đóm gom trong vạt áo mỗi lúc một nhiều. Chúng chụm lại, cùng tỏa ánh hào quang như thể trong lòng tôi đang có cả vầng trăng rằm. Bầy đom đóm bên bờ sông đã dạt đi mất, có những con bị Cố Tiểu Ngũ vơ gọn, đặt vào lòng tôi.
- Đủ một trăm con chưa?
Hắn tiến lại gần, đầu kề sát đầu tôi, những ngón tay thon dài khẽ kéo vạt áo.
- Có cần đếm không?
Đếm được khoảng mười mấy con, tôi nhận ra trên người Cố Tiểu Ngũ bỗng thoang thoảng làn hương mát lành, dịu nhẹ, mùi hương ấy người Đột Quyết và cả người Tây Lương đều không có, nó chờn vờn khiến tôi mất tự nhiên, mặt nóng bừng, hắn đứng quá gần. Bỗng đâu có trận gió thổi đến, đưa sợi tóc của hắn phe phẩy trên mặt tôi, nhẹ, mềm mà rộn rạo… Tay nâng vạt áo bỗng buông lỏng khiến bầy đom đóm chen nhau bay vụt đi, tản vào không gian như những ngôi sao băng nhỏ xíu rồi vây quanh chúng tôi. Ánh sáng rạng rỡ chiếu lên khuôn mặt chúng tôi, tôi thấy đôi mắt đen láy của chàng đang nhìn mình say đắm. Chợt nhớ mấy gã hay đứng hát ngoài lều của A Độ, bọn họ nhìn A Độ bằng ánh mắt nóng bỏng, khiến người ta phải mủi lòng. Nhưng ánh mắt của Cố Tiểu Ngũ điềm đạm hơn hẳn, ánh mắt đong đầy bóng hình tôi, lòng tôi khẽ xốn xang. Ánh mắt chúng tôi giao nhau, Cố Tiểu Ngũ chợt thẹn thùng, ngoảnh mặt nhìn những con đom đóm đang bay trong không trung, nói:
- Bay mất rồi!
Tôi bất giác nói:
- Giống sao băng nhỉ?
Hắn cười rộ lên:
- Sao băng kìa!
Đom đóm thi nhau bay vút lên cao, tưởng như có vô vàn vệt sao băng vừa vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi. Lúc thần tiên rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng? Tình này, cảnh này tựa như mơ. Tôi nghĩ mình vĩnh viễn không thể nào quên được buổi tối bên bờ sông hôm ấy, hàng nghìn, hàng vạn con đom đóm quây quần quanh tôi và Cố Tiểu Ngũ, chúng khẽ bay lướt qua, rồi lần lượt tỏa đi khắp nơi, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa dòng sông, cảnh ấy cũng rực rỡ, hoa lệ như thế này này chăng?
Đại Thiền vu sai sứ giả về bẩm báo với cha tôi, ông đã chọn được một đứa cháu rể, chính là Cố Tiểu Ngũ. Cha tôi đang tiến thoái lưỡng nan giữa Nguyệt Thị và Trung Nguyên, nghe vậy, người liền viết thư hồi âm, kính mong ông ngoại đứng ra làm chủ hôn cho tôi. Thư trả lời của cha đến nơi cũng là lúc hôn lễ đang cử hành.
Tục cưới hỏi của người Đột Quyết đơn giản nhưng cũng không kém phần long trọng, doanh trại quây quần giết mổ bao nhiêu là cừu, gió đưa hương rượu nồng thoảng hương tới muôn nơi. Mấy ngày qua, Cố Tiểu Ngũ đã kết thân với những quý tộc của Đột Quyết. Người Đột Quyết vốn tôn sùng những bậc anh hùng, Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, sau đó lại thắng được Hách Thất, giờ đây trong suy nghĩ của người Đột Quyết, chàng là vị anh hùng trẻ tuổi. Thầy tế hát bài ca mừng vui, chúng tôi sánh bước bên nhau, tiến về phía thầy tế trên đài cao. Đúng lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa dồn dập, tên lính tất tả chạy đến nơi Đại Thiền vu đang ngồi.
Qua đám đông huyên náo, tôi thấy Đại Thiền vu cau mày, bất chấp thầy tế đang cao giọng nói lời ca tụng, tôi chạy như bay đến chỗ ông ngoại:
- Ông ơi!
Đại Thiền vu xoa đầu tôi, mỉm cười nói:
- Không có gì đâu, Vua Nguyệt Thị cử người đến mắng vốn thôi, ông sẽ sai lính đi đuổi cổ chúng.
Không biết từ lúc nào, Cố Tiểu Ngũ đã xuất hiện ngay sau lưng tôi. Chàng khom người hành lễ theo kiểu của người Đột Quyết:
- Bẩm Đại Thiền vu, xin cho cháu được ra trận.
- Cháu? - Đại Thiền vu ngước nhìn chàng. - Vua Nguyệt Thị có năm vạn quân đấy.
Hơn nữa, Vua Nguyệt Thị là lão tướng từng trải chốn sa trường. Cố Tiểu Ngũ tuy thạo cung nỏ nhưng phải đối mặt với hàng vạn quân địch, chỉ e tài bắn tên có tinh thông đến mấy cũng chẳng ích gì.
Cố Tiểu Ngũ nói:
- Đại Thiền vu có thể dụng kế “dĩ dật đãi lao”[70] nghênh địch chỉ bằng ba vạn kỵ binh. Nếu Đại Thiền vu vẫn không yên tâm, xin ngài cử một viên tướng đi cùng, cháu sẽ áp sát thế trận, nếu có thể bắn lén từ phía sau, khiến trận tuyến của Nguyệt Thị trở nên hỗn loạn, âu cũng góp được chút công mọn.
[70] Dĩ dật đãi lao: tức lấy an nhàn để đối phó với mệt mỏi. Một kế trong Ba mươi sáu kế.
Đại Thiền vu vẫn đang do dự, Hách Thất liền bẩm:
- Binh pháp của Trung Nguyên rất khá, trên đường đi, chính bọn họ đã cầm quân đánh bại quân Nguyệt Thị.
Sau đó Đại Thiền vu bèn gật đầu, nói với Cố Tiểu Ngũ:
- Đi đi, rồi đem đầu của thủ lĩnh Nguyệt Thị về đây, làm tế phẩm dâng lên thánh thần trong hôn lễ của các cháu.
Cố Tiểu Ngũ quỳ lạy theo lễ nghi của người Trung Nguyên rồi thưa:
- Mong trời đất phù hộ Đại Thiền vu!
Chàng đứng dậy, nhìn tôi rồi nói:
- Ta đi rồi sẽ về.
Lòng tôi bộn bề lo lắng, đưa mắt dõi nhìn chàng quay người bước đi. Tôi vội vã đuổi theo, tháo dây lưng của mình thắt lên eo chàng.
Theo nghi thức thành hôn, tân lang, tân nương trao nhau dải thắt lưng và hai người chính thức trở thành vợ chồng dưới sự chứng kiến của thần linh. Tôi toan bảo chàng gỡ dây lưng của chàng trao tôi, nhưng đám nô tài đã dẫn ngựa đến, không để tôi kịp nói với chàng vài câu. Vừa leo lên ngựa chàng vừa nói với tôi:
- Ta đi rồi sẽ về.
Tôi níu tay áo chàng, bịn rịn không nỡ rời xa. Trong lòng tôi bỗng vấn vương nhiều chuyện cũ, tôi nhớ ba ngày ba đêm tôi ngồi đợi trên cồn cát vì chàng trai này; tôi nhớ lúc tôi ngã ngựa, chàng đã cứu tôi; tôi nhớ đêm nọ, chàng kể chuyện cho tôi nghe; tôi nhớ chàng đã giết vua sói mắt trắng và thắng cả Hách Thất; tôi nhớ bầy đom đóm ven sông… Từ dạo ấy, tôi đã dặn lòng, tôi và chàng sẽ mãi mãi bên nhau... Vậy mà giờ đây, chàng sắp ra trận, tôi không kìm được nỗi niềm vấn vương.
Hình như chàng thấy ánh nhìn của tôi, liền nở nụ cười, cúi người vuốt ve má tôi. Những ngón tay ấm áp, không phải tay cha, cũng không giống tay ông ngoại, mà giống tay mẹ. Tôi chợt nghĩ chàng tinh thông cung nỏ là thế, sao bàn tay chàng lại chẳng có lấy một vết chai?
Tôi đang nghĩ lại vài chuyện vụn vặt thì chàng đã rụt tay về, cả đội ba vạn quân đã chuẩn bị xong xuôi. Vị tướng quân mà Đại Thiền vu phái đi là ca ca bên họ ngoại của tôi, cũng chính là cháu trai Y Mạc Diên của Đại Thiền vu. Y Mạc Diên cười, bảo tôi:
- Tiểu muội yên tâm, ta sẽ chăm sóc đệ ấy chu đáo.
Người Đột Quyết xưa nay quen chinh chiến, chuyện xông pha nơi chiến trường với họ chẳng khác nào cơm bữa. Tôi quý ca ca Y Mạc Diên lắm, cũng bởi lúc nhỏ huynh ấy thường dẫn tôi đi săn, huynh ấy hết mực thương yêu tôi, chúng tôi như huynh muội ruột thịt. Tôi dõng dạc nói:
- Ai cần huynh chăm sóc chàng chứ? Huynh cứ lo thân mình đi đã, muội đợi huynh về uống rượu mừng đấy!
Ai nấy đều cười, tíu tít nói:
- Tiểu Công chúa cứ yên tâm, đến lúc thịt dê nướng xong, chúng tôi sẽ mang thủ cấp của tướng Nguyệt Thị về.
Cố Tiểu Ngũ cưỡi ngựa theo sau cờ của Y Mạc Diên, chàng cũng vận chiến bào da bò của người Đột Quyết, khuôn mặt khuất dưới mũ sắt. Thấy tôi dáo dác tìm chàng trong đám đông, chàng liền nhoẻn cười, giơ tay lên vẫy. Tôi trông dây lưng thắt trên eo chàng, đai lưng của tôi quấn quanh đai lưng chàng, vừa rồi tôi thắt vội, băn khoăn không biết lát nữa nó có tuột ra không, dây lưng mà bị tuột thì xui xẻo lắm... Nhưng không đợi tôi nghĩ ngợi nhiều, tiếng vó ngựa rầm rập cuốn theo bụi mù, tràn xuống thảo nguyên như cơn triều cường, chẳng mấy chốc đã cách xa tận chân trời.
Thấy tôi tiu nghỉu đứng mãi ở đó, A Độ bèn dùng tay ra hiệu với tôi. Tôi hiểu, tôi biết muội ấy đang an ủi tôi, rằng chỉ lát nữa thôi chàng sẽ trở về. Tôi gật đầu, tuy Nguyệt Thị có đến năm vạn quân, song đám lính tráng ấy lội đường xa đến đây hẳn đã mệt mỏi rã rời, đạo quân tinh nhuệ của Đột Quyết một chọi mười, ba vạn là đủ để nghênh chiến, huống hồ lều chúa còn đây, mười vạn quân luôn sẵn sàng tiếp ứng bất cứ lúc nào.
Dê nướng vàng ruộm trên lửa, đám nô tì dâng sữa ngựa và rượu ngon, khắp nơi rộn rã tiếng nói cười. Hẳn người ta đều cho rằng, chỉ một lát nữa thôi, thế nào cũng có tin thắng trận báo về và lúc ấy, những binh sĩ của Đột Quyết đang hát khúc ca khải hoàn trên đường trở về. Lòng tôi canh cánh lúc biệt ly, mặt mày nóng bừng như phát sốt. Y Mạc Diên về mà thấy, không biết sẽ trêu trọc gì tôi nữa đây? Hẳn huynh ấy sẽ nói tôi không nỡ rời xa Cố Tiểu Ngũ. Đám thanh niên quý tộc của Đột Quyết thầm coi Mạc Y Diên như người đứng đầu, hội thi hát tối nay, đám người ấy thế nào cũng ngâm nga trêu đùa. Lòng tôi nao nao muộn phiền, tự nhủ Cố Tiểu Ngũ không biết hát, chàng về, tôi nhất định phải nói với chàng, kẻo khi đó lại không biết giấu mặt vào đâu.
Nhưng tôi không hề hay biết, chuyến đi này, họ ra đi và vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
Nhiều năm sau, tôi xem sách sử của Trung Nguyên ghi chép lại chuyện này, chỉ sơ sài dăm ba câu: “Tháng Bảy, Thái tử Thừa Ngân đích thân tiến vào Tây Vực, liên minh cùng chư hầu Nguyệt Thị, bốn mươi vạn đại quân tập kích Đột Quyết, Thiền vu Thiết Nhĩ Cách Đạt của Đột Quyết hung hãn không chịu hàng, bỏ mạng trong cảnh loạn lạc. Đột Quyết bị giết thảy hơn hai mươi vạn người, cả tộc bị diệt vong.”
Tôi chỉ nhớ Hách Thất trước lúc tắt thở vẫn siết chặt cây cung, vết đao kiếm chằng chịt trên người, máu tuôn xối xả. Huynh ấy gắng sức đưa tôi và A Độ lên một con ngựa, trăng trối câu cuối cùng:
- A Độ, nhớ chăm sóc Công chúa!
Tôi trông trận mưa tên ào ào bắn tới, chẳng khác nào hằng hà sa số đốm sao băng, giả sử thần thánh có buông tay, hẳn sao trời từ tay người rớt xuống cũng thế này chăng...? A Độ gồng mình quất ngựa đưa tôi chạy trốn, chúng tôi mải miết chạy. Bốn bề biển lửa, bốn bề biển máu, bốn bề là âm thanh giết chóc. Mấy chục vạn quân của Trung Nguyên và Nguyệt Thị như vừa chui lên từ lòng đất, dân tộc Đột Quyết dẫu quật cường phản kháng, song không thể địch nổi sức tiến công của chúng... Biết bao người ngã xuống sau lưng chúng tôi, máu bắn lên khắp mình mẩy. Nếu không có Hách Thất, chúng tôi không thể thoát được vòng vây của mấy chục vạn quân kia, có lẽ sau đó Hách Thất cũng bỏ mạng. Tôi và A Độ rong ruổi trên thảo nguyên tròn sáu ngày sáu đêm rồi bị toán lính bắt kịp.
Chân tôi bị thương, người A Độ cũng nhiều vết xước, thế mà muội ấy vẫn tuốt đao, che chắn cho tôi ở phía sau. Lòng căm thù như ngọn lửa hừng hực cháy, nung nấu người tôi đến khô rát. Tôi không ngừng tự nhủ: chính bọn chúng đã giết ông ngoại, chính bọn chúng đã giết Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng đã dồn người dân Đột Quyết vào con đường diệt vong. Tuy không phải người Đột Quyết, nhưng một nửa dòng máu Đột Quyết đang chảy trong huyết quản tôi. Giờ đây chỉ còn lại mình tôi với A Độ, dẫu phải vắt cạn giọt máu cuối cùng, tôi cũng không thể để ông ngoại chết không nhắm được mắt, không thể để người dân Đột Quyết mất thể diện.
Lúc đó, một gã người Trung Nguyên rong ngựa đến, A Độ khua đao xông lên, gã nọ chỉ khẽ vươn tay ra, thanh đao trên tay A Độ đã rơi phịch xuống đất. Tôi điếng người nhìn gã, kẻ này hẳn biết yêu thuật chăng? Không sử dụng tà phép thì sao có thể cướp được thanh đao từ tay A Độ, chẳng những thế mà còn khiến muội ấy chết trân?
A Độ trừng mắt nhìn gã. A Độ rất ít khi nổi giận, nhưng tôi biết lúc này muội ấy đang hận lắm. Tôi nhặt thanh đao lên, vung về phía gã. Tôi hận đến mức dù kẻ đó là ai, tôi cũng phải giết bằng được!
Kẻ nọ cũng khẽ giơ tay, điểm nhẹ lên người tôi một cái, rồi trước mắt tôi tối sầm, chẳng còn hay biết gì nữa.