Đông Cung - Chương 14 - Phần 02

Hóa ra tôi đã mơ mộng thật. Lý Thừa Ngân triệu Dịch đình lệnh đến, tội trạng của tôi được liệt kê dài dằng dặc, như: bản tính cợt nhả, không tuân thủ cung quy… Thôi thì tính tôi không được hiền thục nên có mang tội như vậy cũng chẳng sai, song hai tội nghiêm trọng nhất là bỏ bùa và hại chết Tự Bảo lâm.

Tôi bị giam lỏng ở điện Khang Tuyết, nơi cô quạnh nhất trong Đông cung. Xưa nay chưa từng có ai ở đó, mà nghe đồn nơi đó cũng chẳng khác lãnh cung là mấy.

Khi phế truất Hoàng hậu, tôi mới biết, giả sử Lý Thừa Ngân muốn phế tôi, cũng cần thông qua rất nhiều bước phức tạp. Trước tiên Hoàng thượng hạ chiếu chỉ cho Trung thư tỉnh sau đó mới đến Môn hạ tỉnh đồng ý. Chưa kể đến đám quần thần kia, như lần Hoàng hậu bị phế, có kẻ dâng lời can gián, dọa dập đầu xuống bậc thềm ở Thừa Thiên Môn, sau đó ông ta dập đầu thật, may mà vẫn giữ được mạng sống. Cuối cùng, Bệ hạ nổi trận lôi đình, còn Hoàng hậu vẫn bị phế.

Thực ra tôi đang nghĩ, nếu nơi này canh gác lỏng lẻo, tôi và A Độ sẽ dễ dàng bỏ trốn.

Nguyệt Nương đến thăm lúc tôi đang lúi húi trồng hoa trong vườn.

Hai tay tôi lấm lem bùn đất, thoạt đầu Nguyệt Nương bật cười rồi lại tỏ vẻ buồn phiền:

- Bệ hạ cử ta tới thăm muội. Sao lại ra nông nỗi này?

Bấy giờ tôi mới biết, thì ra vị ái phi tên Nương Tử được Bệ hạ sủng ái gần đây chính là Nguyệt Nương.

Tôi nhìn Nguyệt Nương một lượt, tỷ ấy vận xiêm y mới của hoàng cung, áo lụa mỏng, tóc mây, trán điểm vàng, nom yêu kiều đầy mê hoặc. Tôi cười nhạt, nói:

- May mà Lý Thừa Ngân không cần muội nữa, bằng không muội phải gọi tỷ là mẹ kế, vậy thì thiệt thòi cho muội quá!

Nguyệt Nương nhăn mày:

- Muội còn cười được à?

Nguyệt Nương cũng nhìn tôi một lượt rồi chau mày, nói:

- Muội nhìn lại mình đi, đến nước này rồi mà vẫn còn tâm tư trồng hoa ư?

Nguyệt Nương kể cho tôi nghe một số chuyện ở bên ngoài mà tôi không hay biết.

Chuyện là, gia tộc nhà họ Triệu vốn nắm quyền hành trong triều, giờ đang bới móc, chỉ trích tội danh của tôi, đòi xử tôi tội chết. Bệ hạ rất khó xử, người từng triệu Lý Thừa Ngân vào chầu. Bệ hạ cho đám hầu cận lui hết ra ngoài, không biết hai cha con họ đã nói gì mà sau đó Bệ hạ nổi trận lôi đình, còn Lý Thừa Ngân thì hằm hằm bỏ về. Bây giờ, đến cả cha con thiên tử cũng xích mích. Nguyệt Nương ở bên nói khéo giúp, song cũng đành bó tay.

Nguyệt Nương nói:

- Tỷ biết những tội trạng đó đều do bọn họ vu khống cho muội, nhưng giờ tình thế bức bách, tỷ xin Bệ hạ cho phép đến thăm muội, muội có gì muốn nói gì hoặc muốn gặp ai không?

Tôi nói:

- Muội chẳng muốn gặp ai cả.

Nguyệt Nương biết tôi không hiểu ý, bèn nhẫn nại giảng giải một hồi. Thì ra tỷ ấy muốn tôi gặp Lý Thừa Ngân một lần, rồi nói khéo với chàng vài câu. Chỉ cần Lý Thừa Ngân quyết tâm thì Triệu Lương đệ dẫu có làm mình làm mẩy thì vẫn có cách biến chuyện to thành chuyện nhỏ, chuyện nhỏ thành không có gì. Nói cho cùng thì Tự Bảo lâm kia vốn xuất thân tầm thường, mà chuyện bùa ngải này, thực ra cũng chẳng phải chuyện gì to tát.

Nguyệt Nương nói:

- Tỷ nghe nói trước đây, trong cung từng xảy ra chuyện tương tự. Nhưng vì chuyện năm đó liên quan đến vị Quý phi mà hoàng đế rất mực ân sủng, Trung Tông Hoàng đế chỉ hạ lệnh đánh chết cung nữ chứ không điều tra rõ ràng, dẫu người đời có đôi lời xì xào, nói sau lưng thì cũng làm được gì đâu.

Bảo tôi phải khúm núm trước Lý Thừa Ngân ư? Thà giết tôi đi còn hơn!

Tôi lạnh nhạt nói:

- Muội không làm chuyện đó đâu, bọn họ đổ vạ cho muội, muốn giết, muốn chém gì thì tùy, nhưng bảo muội đi van nài Lý Thừa Ngân thì tuyệt đối không.

Nguyệt Nương khuyên tôi hồi lâu, song tôi nhất quyết không đồng ý. Sau cùng, tỷ ấy chực khóc vì tức, tôi bèn kéo Nguyệt Nương ra xem hoa tôi trồng.

Ở điện Khang Tuyết, tôi trồng rất nhiều hoa hồng tỷ muội. Người phụ trách trông coi điện Khang Tuyết đối xử với tôi và A Độ rất mực cung kính, tôi muốn hoa giống, họ liền mua cây giống cho tôi, tôi cần phân bón, bọn họ lập tức đem phân bón tới. Loài hoa này chỉ ở Trung Nguyên mới có. Nhớ dạo còn ở phường Minh Ngọc, Nguyệt Nương thường cài một bông lên tóc. Tôi nói với Nguyệt Nương:

- Bao giờ hoa nở, muội sẽ tặng tỷ mấy bông để cài lên tóc.

Nguyệt Nương chau mày, nói:

- Muội không lo cho bản thân mình à?

Tôi múc gáo nước tưới cho khóm hoa hồng:

- Tỷ cứ nhìn những bông hoa này mà xem, chúng mọc lên từ đất, đang yên đang lành lại bị người ta nhổ cả rễ, đem bán tới đây, vậy mà chúng vẫn sống được, còn nở những bông xinh xắn. Trước nay chúng không hề bận lòng thân mình ra sao. Con người ta sống ở đời, sao cứ phải lo quẩn lo quanh? Dù thế nào cũng được, lo lắng mãi thì có ích gì?

Đằng nào Lý Thừa Ngân cũng chẳng tin tôi. Tôi chỉ ước giá như mình đừng nhớ lại những chuyện xưa kia. May thay, chỉ mình tôi nhớ ra, còn chàng vẫn vậy. Thôi thì tôi cứ đợi, bao giờ có cơ hội, tôi muốn chấm dứt mọi chuyện, sau đó rời xa nơi này, không bao giờ gặp lại Lý Thừa Ngân nữa.

Tôi tuôn một tràng khiến Nguyệt Nương dở khóc dở cười, đành bỏ về cung.

Tôi thấy sống ở đây cũng chẳng đến nỗi nào, ngoại trừ bữa ăn có phần đạm bạc thì nơi này rất yên tĩnh.

Vậy mà trước kia tôi lại thích những nơi xô bồ, náo nhiệt.

Một hôm, nửa đêm đang ngủ, đột nhiên A Độ lay tôi dậy. Tôi dụi mắt, hỏi:

- Sao thế?

Nom A Độ vẻ hốt hoảng, muội ấy kéo tôi ra cửa sổ phía đông, chỉ ra mái tường.

Thấy có ánh lửa và khói đen bốc lên nghi ngút, tôi giật thót mình kinh ngạc. Sao tự nhiên lại có cháy?

Lửa lan nhanh, chẳng mấy chốc đã cháy bùng bùng. A Độ đạp tung cửa sổ phía tây, chúng tôi nhảy vọt qua cửa sổ, rồi muội ấy kéo tôi lao lên bờ tường phía sau. Chúng tôi chưa kịp đứng vững thì bên tai đã vang lên tiếng rít, A Độ nhanh tay đẩy tôi ngã dúi xuống chân tường. Tôi thấy A Độ vung đao chém thứ gì đó đánh “keng” một tiếng, thì ra là một mũi tên bằng thép. Lúc A Độ lao mình xuống toan kéo tôi thì không biết liên tiếp những mũi tên thứ hai, thứ ba... từ đâu bắn ra. A Độ vung đao chém vài phát, mưa tên vẫn ào ào bắn đến. Mái ngói trên tường bị bắn thủng lỗ chỗ. Tôi giương mắt nhìn một mũi tên xé gió lao đến, cắm phập vào vai A Độ, máu tức thì bắn ra, tôi hét lên:

- A Độ!

Vậy mà muội ấy bất chấp cả vết thương trên vai, chỉ lo vùng vẫy, lao người xuống định nắm lấy tay tôi. Gió xé bên tai ào ào, tôi nhớ lần chúng tôi trèo tường cũng gặp một trận mưa tên, lúc đó A Độ không giữ được tôi, chính Bùi Chiếu đã đỡ tôi. Có điều, bây giờ cả tôi lẫn A Độ đều biết rằng Bùi Chiếu không thể xuất hiện ở nơi này.

Giữa làn mưa tên, cuối cùng A Độ cũng túm được cánh tay tôi. Thanh đao vạch vào bờ tường, làm tóe lên tia lửa, những viên gạch xanh ào ào giũ bụi. Chúng tôi lao như bay, vai phải của A Độ bị thương, không đủ sức để găm đao bám vào tường, trong khi tên mũi ập đến mỗi lúc một nhiều. Tôi liền hét lên:

- Buông tay đi, A Độ! Buông tay ngay!

Nếu bây giờ mà không buông tay thì cả hai sẽ cùng chết. Bờ tường thì cao chót vót, dưới kia là nền đá, rơi xuống thế nào cũng thịt nát xương tan.

Máu từ vai A Độ nhỏ xuống mặt tôi, tôi ra sức vằng khỏi tay muội ấy. Bất thình lình, A Độ gồng mình quăng tôi bay vút lên cao, cơ thể tôi bị ném vào không trung, vút lên như cưỡi mây, cưỡi gió, chân tay quơ cào loạn xạ, thế rồi cũng bám được vào mái ngói. Tôi lóp ngóp bò lên tường, trơ mắt nhìn A Độ trúng thêm vài phát tên. A Độ thực sự đã đuối sức, may còn có thanh đao cắm vào tường, nên giảm được phần nào tốc độ rơi. Sau cùng muội ấy không thể đỡ nổi, vừa buông tay liền rơi phịch xuống nền đá.

Tôi bật khóc nức nở, giữa đêm đen mù mịt, trận mưa tên tấn công dồn dập vào mái ngói bên cạnh tôi. Chúng xuyên vào gạch ngói, tạo thành một chuỗi những tiếng “phịch, phịch” quấy động màn đêm, mảnh vỡ văng cả vào mặt tôi, vô cùng đau đớn. Tôi gào khóc gọi tên A Độ, bốn bề tên trút như mưa. Chưa bao giờ tôi thấy mình bơ vơ, trơ trọi như thế này.

Có bóng người đứng chắn trước mặt tôi, chỉ với một cái phất tay mà làn tên đang xé gió lao tới bỗng tản ra tứ phía, văng lệch đến mấy trượng, lao xiêu vẹo xuống mặt đất. Qua làn nước mắt, tôi thấy màu áo trắng nổi bật tựa ánh trăng.

Là Cố Kiếm.

Sư phụ gạt phăng mớ mũi tên, kéo tôi phi thẳng lên mái ngói lưu ly trên nóc điện, tôi ra sức kêu gào:

- Còn A Độ nữa! Mau cứu A Độ!

Cố Kiếm đẩy tôi núp sau đuôi diều hâu[74], đoạn quay người nhào khỏi mái ngói. Trong màn đêm, tôi thấy ống tay áo của sư phụ bị gió thổi căng phồng, tưởng như một cánh chim trắng sà xuống tường. Bên dưới bất ngờ xuất hiện rất nhiều những đầu hỏa tiễn, xé toang màn đêm tịch mịch, ập đến như mưa sao băng, lao về phía sư phụ. Tôi nghe tiếng mũi tên cắm vào tường “bụp, bụp”, chẳng khác nào bầy thiêu thân thi nhau đâm đầu vào lửa, thắp lên những đốm lửa bập bùng, rải rác mà cũng chóng lụi tàn trong không trung. Nhanh như cắt, Cố Kiếm đã ẵm được A Độ lên nhưng loạt hỏa tiễn kia ào ào lao tới mỗi lúc một nhiều, mùi khét đặc quánh bầu không khí. Khắp nơi,tiếng mũi tên rít lên, kéo theo cái đuôi lửa nhắm thẳng vào Cố Kiếm. Núp sau đuôi diều hâu, tôi thò đầu ra nhìn, thấy dưới đó đen kịt màu giáp trụ, quân lính tiến từng bước, siết chặt vòng vây, tiếng giáp sắt va vào nhau sàn sạt. Không biết bọn chúng có mấy nghìn, mấy vạn tên.

[74] Một biểu tượng kiến trúc thường được chạm hoặc đắp nổi trên nóc, mái của các công trình kiến trúc thời cổ.

Một tay Cố Kiếm ôm A Độ, tay kia cầm kiếm đánh chặn làn tên bay. Những mảnh tên gẫy còn hừng hực lửa đã chất thành đống dưới chân sư phụ, ánh lửa hắt vào tấm áo trắng lúc tỏ lúc mờ. Bóng sư phụ xuất quỷ nhập thần, chuyển động liên tục. Tên bay rào rào ngay trước mặt, sư phụ khó mà thoát được vòng vây của loạt mưa tên. Áo trắng đã nhuốm máu, tôi không biết đó là máu của sư phụ hay máu của A Độ. Mặc dù A Độ được Cố Kiếm ẵm trên tay, nhưng cánh tay kia buông thõng, bất động, không rõ vết thương của muội ấy thế nào. Cứ thế này, cả sư phụ và A Độ sẽ bị trúng tên mất. Lòng tôi nóng như có lửa đốt, không rõ những kẻ mai phục kia là ai. Chợt nghĩ những kẻ này mang khiên giáp, lại bắn hỏa tiễn sáng lóa cả Đông cung thế này hẳn không phải thích khách. Nghĩ tới đó tôi liền đứng phắt dậy, phía sau có kẻ khẽ ấn vào lưng tôi, nói:

- Nằm xuống!

Tôi quay lại nhìn, thì ra là Bùi Chiếu, theo sau gã là một toán Vũ lâm lang vận giáp mỏng. Bọn chúng im lặng, nhoài người trên mái ngói, tay lăm lăm cung nỏ đã kéo căng, tầm ngắm rơi vào thế trận dưới kia. Những kẻ này phục kích trên cao, kể cả khi Cố Kiếm có thể dứt được vòng vây, ắt chúng sẽ đồng loạt phóng tên, dồn sư phụ vào đường chết.

Tôi rối rít nói với Bùi Chiếu:

- Mau bảo bọn họ dừng lại!

Bùi Chiếu khẽ đáp:

- Bẩm Thái tử phi, Thái tử Điện hạ có lệnh phải giết bằng được thích khách, xin thứ tội cho mạt tướng không thể tuân theo ý người.

Tôi túm chặt cánh tay gã:

- Nhưng người đó không phải thích khách, hơn nữa sư phụ ta còn đang bảo vệ A Độ, A Độ cũng không phải thích khách. Mau bảo bọn họ dừng lại ngay!

Bùi Chiếu bối rối ra mặt, rồi gã từ từ rút cánh tay lại. Tôi nổi đóa, mắng:

- Đúng là Cố Kiếm từng hành thích Bệ hạ nhưng Bệ hạ có làm sao đâu. Vả lại, các ngươi muốn bắt Cố Kiếm thì cứ bắt đi, nhưng A Độ vô tội, ngươi mau bảo người của ngươi dừng lại ngay!

Bùi Chiếu trầm giọng, nói:

- Điện hạ đã có lệnh, một khi thích khách xuất hiện, dù thế nào cũng phải hạ gục hắn, tuyệt đối không để hắn thoát. Xin Thái tử phi thứ lỗi, mạt tướng không thể nghe theo ý của người.

Tôi tức tối, nói:

- Vậy còn ta? Nếu Cố Kiếm đang giữ ta trong tay, các ngươi cũng bắn chết cả ta lẫn sư phụ ư?

Bùi Chiếu ngước nhìn tôi, ánh mắt u ẩn, ánh lửa của trận tên như một chùm hoa lửa li ti bập bùng trong mắt gã, rồi tàn lụi đi trong chốc lát. Tôi nói:

- Nhanh bảo bọn họ dừng lại, nếu không, ta sẽ nhảy xuống đó chết cùng họ!

Bùi Chiếu bất ngờ giơ tay, nói:

- Mạt tướng xin thất lễ!

Người tôi bỗng tê rần, rồi chân cẳng bủn rủn, tôi ngồi thụp xuống, không thể nào nhúc nhích được nữa. Gã dám điểm huyệt tôi. Tôi mắng chửi một hồi, vậy mà hắn lờ đi, chỉ ngoảnh lại, hô:

- Chuẩn bị!

Ba nghìn quân trên nóc điện đồng loạt nhổm dậy, bọn chúng nửa ngồi nửa quỳ, tay kéo căng dây cung, đầu mũi tên hướng thẳng vào hai người bị bủa vây giữa thế trận lửa dưới kia.

Tôi tức đến phát khóc, chỉ biết gào thét:

- Bùi Chiếu! Hôm nay ngươi thử bắn xem, ta thề sẽ giết ngươi!

Bùi Chiếu bỏ ngoài tai những gì tôi nói, quay đầu, thét lớn:

- Bắn!

Tôi nghe những tiếng rít xé toạc không gian, không biết bao nhiêu mũi tên bay vọt qua đỉnh đầu, lao thẳng vào người đứng giữa vòng lửa. Cố Kiếm nhảy vọt lên định thoát thân, nhưng làn tên dày khiến sư phụ phải thoái lui. Mắt tôi nhòe nước, chỉ còn thấy trận mưa tên bao phủ đất trời. Cố Kiếm bất ngờ gạt tay, thả A Độ xuống đất, hẳn sư phụ muốn thoát thân trước, nhưng tên bay mỗi lúc một dày, mũi này nối mũi kia, không có lấy một khe hở, bóng dáng Cố Kiếm và A Độ bị che khuất. Tôi điên cuồng mắng chửi, vậy mà Bùi Chiều vẫn nhắm mắt làm ngơ. Tôi gào khóc thảm thiết, trước kia tôi chưa bao giờ khóc lóc thê thảm như thế này, thậm chí tôi còn van nài gã cho quân lính dừng lại, vậy mà Bùi Chiếu vẫn không màng đến.

Chẳng biết bao lâu sau Bùi Chiếu mới hô ngừng, lúc ấy mắt mũi tôi nhòe nhoẹt, chỉ thấy phía dưới kia, những mũi tên đã chất thành một gò núi nhỏ, chẳng thấy bóng dáng người đâu. Đám Vũ lâm lang thân đeo khiên giáp đứng chắn hàng đầu đã lùi về phía sau một bước, cho hàng quân thứ hai tay lăm lăm giáo mác chọc vào gò núi chất bằng tên kia, rồi hò nhau xới tung cả đám tên lên.

Tôi thấy máu đã nhuộm đỏ màu áo trắng của Cố Kiếm.

Tôi há hốc miệng mà không tài nào bật ra được tiếng khóc, những giọt nước mắt lăn theo gò má, chảy vào miệng, mặn chát. A Độ! A Độ của tôi!

Ba năm nay, A Độ và tôi luôn sát cánh bên nhau, đến hận nước thù nhà còn chưa trả mà muội ấy vẫn theo tôi vượt nghìn dặm xa xôi tới đây. A Độ luôn che chở cho tôi bằng cả tính mạng của mình... Vậy mà tôi lực bất tòng tâm, giương mắt nhìn muội ấy chết dưới làn tên bay.

Chẳng rõ tự lúc nào, Bùi Chiếu đã thả tôi xuống dưới, gã vừa giải huyệt đạo trên người, tôi liền giật lấy thanh kiếm rồi chỉ thẳng vào mặt gã. Gã nhìn tôi, nói:

- Thái tử phi muốn giết xin cứ giết, lệnh vua khó cưỡng, mạt tướng không thể không theo.

Chân nam đá chân chiêu, tôi chạy về phía A Độ, bọn lính đứng chặn ở giữa không cho tôi qua. Tôi liếc nhìn Bùi Chiếu, hắn phất tay. Lúc đó, bọn Vũ lâm lang mới rẽ ra tạo thành một lối đi cho tôi.

Khắp người A Độ vấy toàn máu. Tôi gào khóc, nước mắt lã chã rơi xuống khuôn mặt muội ấy. Cơ thể A Độ vẫn còn ấm, tôi kiểm tra khắp người muội ấy, cốt tìm xem muội ấy có bị thương chỗ nào không, còn chữa trị được chăng? Trên người A Độ không có vết thương, chỉ có phần đùi bị thương, tôi vừa khóc vừa gọi tên A Độ, rồi mí mắt muội ấy khẽ cử động.

Tôi nửa mừng nửa kinh ngạc, nức nở gọi tên A Độ. Cuối cùng A Độ cũng mở mắt. Sau đó, muội ấy gắng gượng chỉ vào Cố Kiếm đang nằm bên, tôi không hiểu gì cả, chỉ thấy muội ấy ngóng sang Cố Kiếm, còn tay nắm chặt vạt áo tôi.

- Muội muốn ta qua đó xem à?

Tôi đoán thế. A Độ khẽ gật đầu.

Tôi không rõ A Độ muốn làm gì, nhưng giờ đây, trong cơn hấp hối, muội ấy muốn tôi làm gì, tôi quyết làm bằng được.

Tôi đến bên Cố Kiếm, đôi mắt sư phụ khép hờ, sư phụ vẫn còn sống.

Tôi vô cùng kinh ngạc, mắt sư phụ hơi hấp háy, sư phụ đã nhận ra tôi, trên lưng người găm chi chít mũi tên, không chừa lấy một tấc da thịt còn nguyên vẹn. Lòng tôi quặn đau, bao lần sư phụ từng cứu tôi, lúc ở núi Thiên Hằng, sư phụ đã cứu tôi, vừa nãy thôi, giữa làn mưa tên, sư phụ cũng cứu tôi... Tôi khuỵu xuống, gọi tên người.

Tôi không biết Lý Thừa Ngân lại giăng cái bẫy này, chính tôi đã bắt tội sư phụ.

Khóe môi Cố Kiếm mấp máy, tôi xích lại gần hơn. Bùi Chiếu tiến lên toan ngăn tôi:

- Nương nương, xin người cẩn thận kẻo thích khách giở trò.

Tôi cáu gắt:

- Sư phụ ta đã ra nông nỗi này rồi, lẽ nào còn tấn công được ai?

Tôi kề tai bên môi Cố Kiếm, nghe sư phụ thì thào:

- A Độ... sao rồi...?

Không ngờ sư phụ còn nhớ tới A Độ, tôi nói:

- Không sao đâu, muội ấy chỉ bị thương thôi.

Khóe môi sư phụ khẽ nhếch lên như đang mỉm cười.

Lưng sư phụ chi chít vết thương, trong khi A Độ chỉ bị thương ở đùi. Bỗng nhiên tôi hiểu ra.

- Sư phụ đã che cho muội ấy ư?

Thay vì trả lời, sư phụ nhìn tôi với ánh mắt ngây dại.