Đông Cung - Chương 15 - Phần 02
Hẳn chàng cũng mệt lắm rồi, hơi thở phả vào gáy tôi tê tê. Chàng thì thầm điều gì đó, đại khái đang dỗ ngon dỗ ngọt hòng lừa tôi.
Tôi không hé môi nói nửa lời.
Một lúc lâu sau không thấy chàng nói gì, tôi mới lén ngoái lại nhìn, thì ra chàng đã ngủ rồi.
Tôi giơ tay ấn mi mắt chàng, chàng ngủ say, nằm bất động, không nhúc nhích.
Tôi rón rén bò dậy, trước tiên mặc áo váy tử tế, sau đó mở cửa sổ. A Độ lẳng lặng tiến vào, đưa tôi một chiếc kéo.
Tôi ngồi dưới đèn, bắt đầu cắt tỉa móng tay cho kĩ càng.
Tôi thận trọng tránh để hơi thở của mình thổi bạt đống bột trắng dính dưới móng tay.
Loại thuốc mê của Đại Thực này quả nhiên hiệu nghiệm, tôi chỉ cào xước cánh tay Lý Thừa Ngân có một chút mà giờ chàng đã lăn ra ngủ.
Cắt móng tay xong xuôi, tôi rửa tay sạch sẽ, kiểm tra thuốc mê không bị sót lại rồi mới thay bộ quần áo màu đen.
A Độ đưa đao cho tôi. Thấy Lý Thừa Ngân đang say ngủ, tôi chỉ muốn kề đao vào cổ chàng, cứa nhẹ một cái và tất cả thù hận sẽ tan thành mây khói.
Chàng ngủ không yên giấc, tuy ngấm thuốc mê, song chân mày vẫn hơi cau lại, mí mắt giật giật, dường như đang mơ. Tôi kề nhẹ lưỡi đao sắc bén, lạnh ngắt vào cổ chàng, chàng không hề hay biết, chỉ cần tôi hơi dùng sức một chút thôi, cổ họng chàng sẽ bị cứa rách.
Khóe môi chàng khẽ giật, hình như chàng đang mơ một giấc mơ đau khổ đến tột cùng. Tôi xích thanh đao từng chút, từng chút lại gần chàng, lưỡi đao cứa trên da thịt, rướm một tia máu mảnh như sợi chỉ, chỉ cần mạnh tay một chút nữa thôi... Dường như trong mơ chàng cũng cảm nhận được cơn đau này, cơ mặt bắt đầu giần giật, ngón tay khẽ run lên như muốn chụp nắm thứ gì. Có lẽ chàng đang kêu la, gào thét nhưng những tiếng phát ra chỉ khe khẽ, đến mức tôi gần như chẳng nghe rõ.
Tay tôi khẽ run lên, thanh đao tuột khỏi tay đáp xuống sàn gạch đánh “keng”. A Độ tưởng Lý Thừa Ngân đã tỉnh, liền hớt hải xông đến. Còn tôi thì hai tay bưng mặt.
Cuối cùng tôi đã nhớ ra, nhớ khi rơi xuống sông Quên, chàng theo tôi nhảy xuống. Chàng đã ôm tôi vào lòng. Gió đưa chúng tôi lao xuống mỗi lúc một nhanh... Chàng ôm tôi giữa vòng gió xoáy... Nhiều lần toan chụp mỏm đá, nhưng chúng tôi rơi quá nhanh, đá vụn lả tả rơi cùng tôi và chàng, như làn mưa sa... Giống buổi tối nọ ở ven sông, vô vàn đom đóm cất cánh vút bay từ ống tay áo, dường như có cơn mưa sao rực rỡ, soi tỏ khuôn mặt tôi và chàng... Giữa đất trời bao la,đôi mắt chàng vẫn đắm đuối nhìn vào mắt tôi.
Biết bao lần cảnh ấy lặp lại trong mơ, giấc mơ nối tiếp giấc mơ, song chẳng bao giờ ngờ, người đó lại là chàng.
Đến khi nhớ lại chuyện ba năm trước, tôi vẫn không thể nào nhớ ra, tiếng gió vờn bên tai cùng lời chàng nói.
Thì ra chỉ một câu này:
- Ta và nàng cùng quên.
Nước sông Quên xanh biếc, lạnh buốt ùa đến bủa giăng chúng tôi. Tôi thoi thóp thở giữa dòng chảy, xộc vào miệng là làn nước giá lạnh. Chàng nhảy xuống túm lấy tôi, chỉ để nói với tôi một câu như thế.
- Ta và nàng cùng quên.
Tất thảy những khó khăn, gian nguy, thì ra chàng cũng biết, chàng cũng thấy mình có lỗi với tôi.
Trên bờ vực con sông Quên, chàng đã không chút do dự nhảy xuống theo tôi, thực ra chàng cũng như tôi, muốn quên đi tất cả.
Chàng cũng hiểu, Cố Tiểu Ngũ đã chết rồi, chúng tôi đã chết dưới đáy sông Quên.
Chúng tôi như cô hồn, dã quỷ, chúng tôi chưa từng sống lại. Tôi bám víu lấy ba năm quên lãng, sống tạm bợ qua ngày, còn chàng, chàng gạt phăng tất cả quá khứ chỉ bằng ba năm quên lãng.
Trên thế gian này, ai gian truân hơi ai?
Trên thế gian này, lãng quên luôn hạnh phúc hơn khắc ghi.
A Độ nhặt thanh đao lên, chuyển đến tay tôi.
Vậy mà tôi không đủ dũng khí để giết chàng.
Tôi ngắm nhìn khuôn mặt ấy, dù trong mơ mà chàng cũng lộ rõ vẻ đau đớn. Tiểu hoàng tử mà chàng từng kể đã sống đáng thương như thế nào, cho đến ngày hôm nay, chàng vẫn mang vẻ đáng thương ấy. Giữa chốn Đông cung này chẳng có lấy một người thân, chàng vẫn cô đơn, lẻ loi tồn tại giữa cõi đời này, cô đơn, lẻ loi tiến đến ngôi vị hoàng đế. Tất cả những yêu thương, những tình nồng, những cảm thông và trân trọng, chàng đều bỏ lại trên con đường chàng phải đi. Biết đâu, lãng quên đối chàng lại là sự trừng phạt hữu ích hơn cả, chàng vĩnh viễn không bao giờ biết, tôi từng yêu chàng biết bao.
Tôi kéo A Độ bỏ trốn.
Thoạt đầu, Lý Thừa Ngân để Bùi Chiếu bố trí hơn mười cao thủ theo sát tôi, nhưng vì tối nay tôi và Lý Thừa Ngân gây gổ, tình hình có vẻ căng thẳng, đám người đó biết điều lánh đi. Tôi và A Độ thuận lợi ra khỏi điện Lệ Chính.
Đối với tôi, lẻn ra khỏi Đông cung chỉ là chuyện cơm bữa, huống hồ lần này, chúng tôi đã lên kế hoạch từ rất lâu. Không những thuộc lòng lịch tuần tra của Vũ lâm quân, mà còn nhân lúc tháng Sáu trời nóng nực, nội thị trong Đông cung thường luân phiên đổi ca, lúc ấy chúng tôi sẽ mở một cánh cửa phụ để lách ra ngoài. Tôi và A Độ lẩn tránh suốt dọc đường, men theo bờ tường, luồn lách qua mấy lối rẽ, lúc sắp đến cánh cửa nhỏ kia, bỗng A Độ kéo giật tôi lại.
Tôi thấy Vĩnh Nương đứng ở đó, trên tay cầm đèn lồng, thỉnh thoảng bà ấy lại đảo mắt nhìn xung quanh, như đang chờ ai đó.
Tôi và A Độ núp sau một khóm trúc xanh, một hồi lâu sau mà Vĩnh Nương vẫn còn đứng đó.
Tôi kéo tay áo A Độ, A Độ hiểu ý, liền từ từ tuốt đao, rón chân tiến lại gần Vĩnh Nương.
Vĩnh Nương chợt buông tiếng thở dài rồi chống đầu gối ngồi xuống.
A Độ quay sống đao, điểm huyệt Vĩnh Nương, cả cơ thể bà ấy tức khắc trở nên cứng đờ, không còn động đậy được nữa.
Tôi vươn tay, ôm cơ thể cứng ngắc của Vĩnh Nương vào lòng, thì thầm:
- Vĩnh Nương ơi, ta đi đây, ta sẽ nhớ bà lắm.
Ở Đông cung này, chỉ có mình Vĩnh Nương với A Độ là hết mực quan tâm tới tôi.
Khóe môi Vĩnh Nương hơi nhích lên, huyệt câm cũng bị điểm, bà ấy không tài nào thốt ra tiếng. Tôi siết chặt vòng tay, mới nhận ra trước ngực bà ấy phồng lên, cồm cộm chọc vào người hơi đau. Không biết là thứ gì, tôi liền rút ra xem, hóa ra là một bọc vàng. Vĩnh Nương vẫn chăm chăm nhìn tôi, mắt rơm rớm. Tôi thấy mũi mình cay sè, chợt hiểu, thì ra bà ấy đang đợi mình.
Bà ấy cũng chuẩn bị cho tôi bọc vàng này.
Tôi không biết nên nói gì. Trước kia bà ấy luôn ép tôi đọc sách, ép tôi học phép tắc, ép tôi làm cái này làm cái nọ, ép tôi lấy lòng Lý Thừa Ngân...
Cho nên lúc vạch kế hoạch chạy trốn, tôi đã đề cao cảnh giác với bà ấy.
Không ngờ bà ấy đã sớm nhận ra, nhưng không hề bẩm báo Lý Thừa Ngân. Nếu bà ấy bẩm báo Lý Thừa Ngân thật, chúng tôi sẽ mãi mãi chẳng bao giờ trốn thoát.
Ở Đông cung này, thì ra cũng có người tử tế, thật lòng với tôi.
A Độ kéo tay áo tôi, tôi biết càng nấn ná càng dễ bị người ta phát hiện. Tôi nén dòng nước mắt, ôm Vĩnh Nương thật chặt rồi kéo A Độ, lẳng lặng đi qua cánh cửa phụ.
Cánh cửa này vốn dành cho người hầu, đằng sau cánh cửa có một con hẻm nhỏ. Chúng tôi đi qua hẻm, luồn lách qua nhà dân, tạt ngang con phố chợ Đông, đi mãi tới khi tờ mờ sáng mới chui tọt vào quán rượu của Mễ La.
Mễ La đang đợi chúng tôi. Tỷ ấy thì thầm:
- Cổng thành phía tây thế nào cũng bị kiểm tra gắt gao, chỉ e không dễ ra khỏi thành. Hôm nay có một đội buôn nhân sâm người Cao Ly đang chuẩn bị lên đường rời thành, đáng lẽ bọn họ đi về hướng đông bắc, nhưng tỷ đưa tiền cho tay dẫn đoàn rồi, hai muội sẽ theo họ rời thành. Thân hình đám người Cao Ly ấy thấp bé, còi cọc, bọn muội đứng chen ở giữa cũng không khiến người khác nghi ngờ đâu.
Mễ La đã chuẩn bị sẵn cho chúng tôi y phục của người Cao Ly, thậm chí có cả mũ và râu giả. Chúng tôi rục rịch hóa trang, thay quần áo, dán râu, sau cùng đội mũ theo kiểu Cao Ly. Lúc soi gương đồng, quả nhiên giống hệt hai gã dân buôn Cao Ly nhỏ thó.
Trời hửng sáng, trên phố dần đông người qua lại, quán trọ cũng dậy tiếng ồn ào, cửa hàng bên cạnh gỡ ván lát, bà chủ bên đó đang rửa mặt, ông chủ phốp pháp ngáp dài một cái, nói đãi bôi với Mễ La. Đám người Cao Ly vừa xuống lầu, họ nói bằng chất giọng Cao Ly vừa nhanh vừa xoắn xít. Kể từ lúc Đại tướng quân Bùi Huống bình định Cao Ly, vấn đề thông thương giữa Trung Nguyên và Cao Ly càng trở nên nhộn nhịp, chung quy dân buôn thường hám lợi, bao nhiêu của ngon vật lạ ở Trung Nguyên đã trở thành thứ thường ngày không thể thiếu đối với người Cao Ly.
Chúng tôi cùng đám thương nhân người Cao Ly lấy bánh ăn sáng, sau đó thu vén hành trang chuẩn bị lên đường. Đội buôn này có khoảng trăm con ngựa thồ nhân sâm và dược liệu từ Cao Ly đến, sau đó lại mua tơ tằm và lá chè ở Trung Nguyên để trở về Cao Ly. Ngựa cột trong sân chờ chất hàng, hòm xiểng lần lượt được bốc lên lưng ngựa. Đàn ngựa thắt chuông đồng ở cổ rung leng keng, chen lẫn thứ tiếng Cao Ly nói như cãi nhau, ồn ào, om sòm.
Tôi và A Độ mỗi người một ngựa, trà trộn vào đoàn người, theo bọn họ rời thành. Lính canh cổng kiểm soát vô cùng gắt gao, có người kể với chúng tôi rằng một tên tội phạm vừa trốn khỏi thiên lao nên chín cổng thành phải tăng cường kiểm tra, gắt gao nhất chính là cổng thành phía tây. Nghe nói quân lính sẽ kiểm tra, rà soát tất cả những ai ra khỏi thành tây vào ngày hôm nay, chỉ cần có vẻ khả nghi là lập tức bắt giữ, rồi đưa về nha môn. Tôi và A Độ nơm nớp lo sợ, những tội phạm bỏ trốn mà họ nói kia rất có thể chính là tôi và A Độ.
Ai ai cũng bị vặn hỏi nên những người xếp hàng đợi mỗi lúc một đông trước cổng thành. Tôi sốt ruột chờ đợi, bao lâu sau mới đến lượt chúng tôi. Tay hiệu úy[77] giữ thành kiểm tra giấy tờ thông hành thật cẩn thận, sau khi đếm số người, gã chau mày hỏi:
[77] Một chức quan võ thời xưa.
- Sao lại thừa ra hai người?
Gã người Cao Ly dẫn đoàn khoa chân múa tay một hồi, bập bõm vài câu tiếng Trung Nguyên mới giải thích cho lính gác cổng hiểu. Chuyện là bọn họ gặp hai người đồng hương ở Thượng Kinh, trước lúc đánh nhau đã cư ngụ ở Thượng Kinh, giờ nghe nói chiến sự ổn định rồi, muốn trở về cố hương.
Gã đó bảo:
- Không được, trên giấy thông hành ghi mười bốn người là mười bốn người, không được phép thừa ra dù chỉ một người.
Đột nhiên tôi tinh ý, trỏ vào tôi và A Độ, bắt chước chất giọng Trung Nguyên trọ trẹ của dân Cao Ly, nói:
- Hai húng ôi ở nại, cho các chậu đi. (Hai chúng tôi ở lại, cho các cậu đi.)
Gã Hiệu úy dò xét chúng tôi một lúc, ngẫm ngợi, đoạn trả giấy thông hành cho trưởng đoàn, sau đó trỏ vào hai người Cao Ly đứng sau tôi, nói:
- Hai người này ở lại. Những người khác có thể đi.
Gã trưởng đoàn người Cao Ly khua chân múa tay, rối rít van nài lính gác thành, nói nếu đi thì cả đoàn phải cùng đi. Tôi cũng xin hộ mấy câu, chúng tôi nhao nhao nói thứ tiếng Trung Nguyên ngọng líu ngọng lô khiến gã gác cổng bực bội, nói:
- Có đi không nào, hay ở lại cả lũ với nhau?
Nhưng chúng tôi nào có chịu buông xuôi, cả nhóm vây quanh lính gác cổng, đua nhau nói. Bấy giờ, hàng người xếp phía sau càng lúc càng dài, nhiều người sốt ruột nhao nhao la ó. Trước đây, triều đình và Cao Ly từng xung đột trong nhiều năm, người Trung Nguyên vốn đã có thành kiến với Cao Ly, nay càng thêm phần khinh miệt, họ chê người Cao Ly bát nháo không có phép tắc.
Đám dân buôn Cao Ly tức tím tái mặt mày, chực lao vào đánh nhau. Tay Hiệu úy thấy tình hình căng thẳng, sợ lớn chuyện, lại thêm phần lo đám người đứng ở cổng càng lúc càng đông, gã vội khoát tay:
- Hai đứa Cao Ly ta vừa điểm mặt không được phép rời thành, còn lại, mau đuổi những kẻ khác ra ngoài!
Cả đám người lẫn đàn ngựa thồ bị đuổi khỏi cổng thành, hai gã thương nhân người Cao Ly kia đành chịu nán lại trong thành. Trong lòng tôi áy náy vô cùng, gã trưởng đoàn lén giật tay áo, đoạn chìa tay với tôi.
Tôi chưa kịp hiểu ý, gã đã vân vê chòm râu, cười nói bằng thứ tiếng Trung Nguyên ngọng líu ngọng lô:
- Ưa chiền đây! (Đưa tiền đây!)
Tôi sửng sốt:
- Mễ La chẳng đưa tiền cho ông rồi còn gì?
Gã trưởng đoàn người Cao Ly cười giảo hoạt:
- Hai người, ong ành, chêm chiền! (Hai người ở trong thành, thêm tiền!)
Tôi nhớ hai gã cùng đoàn bị giữ lại trong thành, liền bảo A Độ đưa cho gã một thỏi vàng.
Kể từ lúc đó, tôi thấy hối hận vì sự hào phóng của mình.
Mắt gã Cao Ly như phát sáng khi thấy thỏi vàng. Suốt đường đi, gã luôn kiếm cớ vòi vĩnh, nào là ăn cơm bọn tôi trả tiền, rồi thì ở trọ bọn tôi cũng phải móc hầu bao, suốt cả ngày, hễ mở miệng là lại thét giá. Tuy tôi chậm hiểu nhưng ba năm nay, hầu như ngày nào tôi cũng long nhong dạo khắp các phố phường Thượng Kinh với A Độ, tôi thừa biết giá cả thế nào. Bình thường, chỉ cần hai lá vàng là có thể mua một căn nhà rồi, đằng này bọn Cao Ly kia ăn mỗi bữa cơm thôi mà cũng đòi tôi một lá vàng, chúng vòi vĩnh chẳng khác nào coi tôi là kẻ tiêu tiền như nước. Tôi thầm nhủ, đằng nào cũng là tiền của Lý Thừa Ngân, tôi vung tay một chút cũng không xót ruột. Huống hồ, bạn chúng còn đang bị giữ chân trong thành, thôi thì để chúng ăn chặn một chút cũng chẳng đáng bao nhiêu, tôi đành giả vờ mình mù mờ giá cả. Tuy lũ Cao Ly ấy tham lam vô độ nhưng sống cũng cơ cực lắm, hằng ngày, trời chưa sáng rõ đã phải thức dậy, rồi đến tối muộn mới được nghỉ chân. Ngày nào cũng rong ruổi suốt tám, chín khắc, ba năm rồi, bây giờ tôi mới có dịp ngồi lâu trên lưng ngựa đến thế. Ngựa lắc lư khiến xương cốt đau ê ẩm, tối đến vừa dừng chân trong quán trọ, đầu chạm gối là tôi ngủ ngay tức thì.
Đêm nay, tôi đang ngủ ngon thì A Độ chợt lay tôi dậy. Muội ấy lăm lăm thanh đao trên tay, trong bóng tối, hai mắt mở to. Tôi cuống cuồng bật dậy, thì thào hỏi:
- Người của Lý Thừa Ngân tìm đến à?
A Độ lắc đầu. Cũng chẳng rõ muội ấy không biết hay không đoán ra.
Chúng tôi nín lặng chờ đợi trong bóng tối, bỗng một tiếng “xẹt” vang lên, nếu không tinh ý chắc cũng chẳng nghe thấy. Rồi một đoạn ống trúc nhỏ xíu chọc qua giấy dán cửa sổ, thò vào. A Độ và tôi đưa mắt nhìn nhau, đầu ống trúc chợt phun khói trắng, tôi vừa hít đã cảm giác chân tay bủn rủn, thì ra thứ khói trắng ấy là thuốc mê. A Độ xông lên, dùng ngón tay cái bịt đầu ống trúc, giữ chặt một đằng rồi bất ngờ đẩy mạnh.
Ngoài kia khẽ vang lên tiếng rên rỉ rồi “rầm” một tiếng, dường như có thứ gì đó nặng lắm vừa chạm đất. Đầu óc tôi choáng váng, A Độ mở cửa sổ, gió mát lạnh ùa vào giúp tôi tỉnh táo hơn. A Độ lấy nước cho tôi uống, lúc bấy giờ mới đỡ ngấm thuốc. A Độ mở cửa phòng, hóa ra là gã trưởng đoàn người Cao Ly đang nằm sóng soài ngoài hành lang. Gã bị ống trúc chứa thuốc mê chọc đúng huyệt đạo, miệng há hốc, ngồi bất động. A Độ cầm đao kề vào gáy gã, rồi quay sang nhìn tôi.
Tôi chỉ sợ bên trong có ẩn tình, liền nói với A Độ:
- Kéo hắn vào đây, tra hỏi trước đã.
A Độ lôi gã vào rồi đóng chặt cửa. Tôi đá cho gã một cú, hỏi:
- Ngươi là ai?
Gã vẫn tỏ ra bướng bỉnh:
- Ngươi muốn giết thì giết đi, đại trượng phu hành tẩu khắp giang hồ, đã sẩy tay, hà tất phải hỏi.
- Thì ra loại người đánh thuốc mê người khác, thủ đoạn hèn hạ như thế mà cũng được gọi là đại trượng phu hả?
Mặt gã trâng tráo, không biết thẹn là gì, gã hắng giọng, nói:
- Vì lợi ích quyết không từ thủ đoạn!
Tôi nói:
- Giờ thì ngươi lỗ rồi nhé!
Gã còn định nói gì thêm nhưng A Độ đã rạch nhẹ một nhát lên đùi gã, máu tuôn xối xả. Gã kêu rống lên như lợn bị cắt tiết, hỏi gì cũng nói bằng hết. Thì ra thấy tôi hào phóng, gã Cao Ly này thèm thuồng nên nảy sinh ý đồ giết người cướp của. Gã định đánh thuốc mê tôi và A Độ, không ngờ vừa thổi được ít khói đã bị A Độ chọc ngược lại, điểm trúng huyệt đạo.
- Hóa ra là phường đạo tặc giả dạng thương nhân! - Tôi giơ chân đạp gã. - Nói mau! Rốt cuộc ngươi hại bao nhiêu người rồi hả?
Nước mắt giàn giụa, gã liên tục xin tha mạng. Gã nói gã đích thực là dân buôn, chẳng qua nhất thời nổi lòng tham nên mới trót dại làm liều, chứ xưa nay chưa từng hại ai, nhà còn có mẹ già bảy mươi tuổi và đứa con nhỏ mới lên ba.
Phải chăng người đời ai cũng tham lam vô độ như gã? Gã Cao Ly này hám tiền tài, quan viên hám chức tước, còn hoàng đế lúc nào cũng muốn mở mang lãnh thổ, vậy nên chiến tranh mới triền miên...
Xưa nay, chưa có ai được thỏa mãn.
Tôi sực nhớ tới Lý Thừa Ngân, từ khi chàng còn là tiểu hoàng tử, cũng phải lần từng bước mới tới được ngày hôm nay. Phụ hoàng lấy ngôi vua để cám dỗ chàng, vậy nên chàng cứ bước dần cho đến ngày hôm nay.
Mà tôi, tôi chỉ cần một người cùng tôi chăn cừu, thả ngựa trên mảnh đất Tây Lương. Ham muốn của tôi chỉ đơn sơ, giản dị vậy thôi, song cũng khó mà đạt được.
A Độ gõ nhẹ chuôi đao vào đầu gã, đầu gã vẹo sang một bên rồi lăn đùng ra ngất xỉu. Tôi và A Độ bịt miệng gã, trói dưới gầm bàn… A Độ ra hiệu hỏi tôi có nên trừ khử gã không, tôi lắc đầu:
- Gã không dám báo quan đâu, nói gì thì nói, tại gã có ý đồ giết người cướp của trước. Cứ trói gã ở đây đã, chúng ta không thể tiếp tục chung đường với gã được nữa, cũng đúng lúc phải rẽ về phía tây.
Trời còn chưa sáng rõ, chúng tôi đã nhanh chóng rời quán trọ, tránh để lộ tung tích. Đi được một lúc mặt trời mới mọc. Đến chiều, chúng tôi tạt vào chợ bán ngựa và đổi sang một cỗ xe bò. Tôi và A Độ cải trang thành nông dân và phụ nữ nông thôn, thong dong tiến về hướng tây.
Tất nhiên vẫn có binh mã đuổi theo, nhiều lúc bị cả đội quân từ phía sau bắt kịp, nhưng chúng trông chiếc xe bò tồi tàn của chúng tôi, liền phóng đi mất hút, không thèm liếc lấy một cái. Cứ qua một thành trì, tình hình kiểm soát lại càng thêm gắt gao, nhưng mấy lần tôi và A Độ không vào thành mà đi vòng qua đường làng. Cuộc hành trình đương nhiên nhiều cơ cực, cũng chẳng rõ đã đi được bao lâu, mãi mới đến được Ngọc Môn Quan.
Trước mắt là cửa ải hiểm yếu canh giữ giữa núi, lúc ấy tôi thấy phấn chấn hẳn lên.