Đông Cung - Chương 15 - Phần 01

Chương 15

Bất kể ngày đêm, tôi không quản cực nhọc túc trực bên giường A Độ. Lúc vết thương chuyển biến xấu, muội ấy sốt cao gợi tôi lại nhớ đến Cố Kiếm, lần trước có Cố Kiếm cứu giúp, lần này thì chẳng còn ai.

Lúc A Độ sốt cao, tôi cũng lăn đùng ra ốm.

Hôm đó, trời mưa tầm tã, tôi bưng một chậu đá qua cầu, chẳng may trượt chân, ngã đau điếng người.

Lúc ấy ngã chỉ sứt trán chút thôi, vậy mà đến tối, tôi lại sốt cao.

Bấy giờ A Độ cũng sốt, Lý Thừa Ngân nói tại A Độ truyền bệnh cho tôi, rồi chuyển A Độ đi nơi khác. Chàng nói, như thế bệnh của tôi mới khỏi được.

Là ai đã hại A Độ ra nông nỗi này?

Tôi tức đến phát điên, tay lăm lăm thanh đao của A Độ, không kẻ nào dám tiến đến gần.

Lý Thừa Ngân cũng bực tức, liền sai người kéo tôi đi bằng được.

Không biết chúng đưa A Độ đến nơi nào, tôi thì bị nhốt trong điện, chẳng còn sức mà gây gổ, tôi chỉ cần A Độ, mà không biết A Độ ở đâu.

Tôi không ăn cơm, cũng không uống thuốc, Vĩnh Nương bưng thuốc lên, tôi hất văng bát thuốc trên tay bà ấy. Tôi chỉ cần A Độ thôi, tôi không thể ở lại Đông cung này thêm một ngày nào nữa. Tôi cần A Độ, tôi muốn về Tây Lương.

Tôi mê man suốt một ngày trời, những cơn ác mộng tìm về triền miên. Tôi mơ thấy mẹ, tôi mơ thấy mình khóc rất nhiều. Tôi mơ thấy cha, cảm nhận bàn tay thô ráp của người xoa đầu mình. Cha nói:

- Con gái ơi, khổ cho con quá!

Con không khổ, con chỉ thấy kiệt quệ vì mỏi mệt, không sao vùng vẫy được nữa. Con như một con cá thiếu nước, một bông hoa đã đến độ héo tàn.

Lý Thừa Ngân và Đông cung là thứ gông cùm nặng nề nhất trên đời này, con không mang nổi.

Sau đó, Vĩnh Nương khẽ lay tôi dậy, bà ấy nói:

- A Độ về rồi.

Đúng là họ đã đưa A Độ về, dù muội ấy vẫn hôn mê trên giường. Không hiểu sao Lý Thừa Ngân lại đổi ý.

Tôi xoa tay A Độ, cảm giác bàn tay muội ấy nóng ran. A Độ vẫn sốt ly bì, nhưng chỉ cần muội ấy ở đây để tôi được chăm sóc muội ấy, thế là đủ.

Vĩnh Nương nói:

- A Độ về rồi, Thái tử phi uống thuốc đi!

Tôi tu một hơi hết sạch bát thuốc to đắng ngắt, song tôi cũng chẳng buồn ăn thêm quả hạnh ngâm cho đỡ đắng. Tôi cười tươi với Vĩnh Nương, chẳng hiểu sao mà bà ấy lại rơm rớm nước mắt.

Tôi lấy làm lạ, bèn hỏi:

- Vĩnh Nương, bà sao thế?

Vĩnh Nương không nói, chỉ thẽ thọt:

- Tóc Thái tử phi bị rối rồi, để nô tỳ hầu người chải tóc.

Chiếc lược sừng lướt trên tóc mang lại cảm giác khoan khoái, dễ chịu. Tay Vĩnh Nương dịu dàng và ấm áp như bàn tay mẹ. Bà ấy chải đầu cho tôi, giọng đều đều kể:

- Nhớ hồi mới tới Đông cung, Thái tử phi đổ bệnh nặng, mấy đêm liền người nóng hầm hập. Thái y không dám tùy tiện cắt thuốc, sợ nguy hiểm đến tính mạng. Nô tỳ túc trực bên người, lúc ấy người vẫn chưa thạo tiếng Trung Nguyên, trong mơ người nghẹn ngào gọi: “Thiện tử, thiện tử”, sau này nô tỳ mới biết, thì ra thiện tử trong tiếng Tây Lương có nghĩa là mẹ.

Tôi quên cả rồi, chỉ nhớ hồi chân ướt chân ráo tới Đông cung, tôi từng ốm một trận, lúc ấy nhờ Vĩnh Nương và A Độ chăm sóc mãi mới khỏi.

Vĩnh Nương nhẹ nhàng giúp tôi vấn tóc lên:

- Năm đó, người mới mười lăm tuổi, thoáng chốc đã ba năm trôi qua.

Tôi ngoảnh đầu lại thì thấy bà ấy nhoẻn miệng cười:

- Người trong cung không nhớ ngày sinh của nương nương mà Điện hạ cũng quên mất, hôm nay nương nương tròn mười tám tuổi.

Tôi quên khuấy mất. A Độ còn đang sống dở chết dở, tôi nào còn tâm trí nhớ tới điều này. Đáng lẽ Dịch đình lệnh phải nhớ những chuyện này, song nghe nói tình hình hậu cung cũng đang rối như canh hẹ. Từ lúc Cao Quý phi xảy ra chuyện, những kẻ còn lại chắc chẳng ai chú ý tới những việc vặt vãnh này.

Duy chỉ có Vĩnh Nương còn nhớ.

Bà ấy lấy lược dày, chăm chút chải hai bên tóc mai cho tôi:

- Từ giờ về sau, Thái tử phi đã là người lớn thật rồi, không nên buông tuồng, cẩu thả nữa.

Buông tuồng, cẩu thả?

Tôi thấy bốn tiếng ấy xa xăm lắm... Tôi của ngày xưa buông tuồng, cẩu thả dường như đã biến mất từ lâu lắm rồi. Ba năm trước, tôi đã chết giữa dòng sông Quên, mà tôi của ngày nay chỉ trú ngụ trong cái xác của nàng ta, sống quãng đời ba năm vô tri vô giác. Tôi quên hết tất thảy, tôi quên sạch thù sâu oán nặng, tôi chung sống với kẻ thù suốt ba năm nay, cho đến khi... yêu chàng thêm lần nữa.

Có điều, chàng mãi mãi sẽ không nhớ ra tôi.

Cũng may, mong sao chàng đừng bao giờ nhớ ra.

Sức khỏe của A Độ dần hồi phục cũng là lúc mùa hè sắp qua.

Trong lúc dưỡng thương, muội ấy đã dùng tay ra hiệu, nói với tôi một số việc, ví dụ như, Cố Kiếm đã cứu muội ấy thế nào. Thì ra từ lâu lắm rôi, vì giúp A Độ trị thương mà Cố Kiếm đã hao tổn mất một nửa nội lực. Nếu không phải vậy, có lẽ sư phụ đã chẳng chết vùi giữa làn mưa tên.

A Độ cũng ngốc y như tôi vậy.

Rồi tôi chậm rãi ra dấu tay hỏi A Độ:

- Muội thích sư phụ đúng không?

A Độ không trả lời nhưng tôi thấy một làn sương mỏng dâng đầy trong mắt muội ấy, lát sau muội ấy ngoảnh mặt trông ra hồ hoa sen ngoài cửa sổ rồi quay lại liền nhoẻn cười với tôi.

Tôi biết, muội ấy vừa khóc.

A Độ giống hệt tôi, ngay cả lúc khóc cũng cố cười.

A Độ nói tôi mới biết khá nhiều việc, ví như lần đầu tiên Lý Thừa Ngân bị đâm, lúc đó A Độ đuổi theo thích khách rồi bị gã đánh trọng thương. Tôi cứ tưởng đó là người do Hoàng hậu phái đến, cuối cùng A Độ lại phát hiện sự thật không phải như thế.

- Người của Điện hạ. - A Độ viết trên giấy. - Do Tôn Nhị cầm đầu.

Cái tên ấy khiến tôi quá đỗi kinh ngạc. Tôn Nhị? Nếu Tôn Nhị là người của Lý Thừa Ngân, vậy Hoàng hậu bị vu oan ư? Vậy ra bà ấy không sai người hành thích Lý Thừa Ngân, mà mọi chuyện đều là khổ nhục kế do chính Lý Thừa Ngân tự dàn dựng thôi sao? Lúc ở phường Minh Ngọc, cũng chính Tôn Nhị kéo đồng bọn đến bày trò vảy mực, hòng tách tôi và Lý Thừa Ngân ra khỏi Bệ hạ. Thì ra tất thảy những âm mưu này, cốt là để Lý Thừa Ngân khỏi liên can ư?

Rốt cuộc chàng đã làm gì? Rốt cuộc Lý Thừa Ngân đã làm những gì...

A Độ từ từ viết ra giấy, thuật lại từng chi tiết cho tôi nghe: Bữa đó, muội ấy canh bên ngoài phường Minh Ngọc, chợt cảm thấy có gì bất thường, liền bám theo Tôn Nhị, cốt để dò xét chân tướng sự việc. Không ngờ lại bị Tôn Nhị phát hiện, bọn tay chân dưới quyền Tôn Nhị đều là những kẻ võ công cao cường, một mình A Độ không thể đấu lại chúng. Thay vì giết A Độ, bọn nó nhốt muội ấy vào một chỗ kín đáo. May thay, vài hôm sau Cố Kiếm đến cứu A Độ, sau đó dẫn muội ấy đến ngôi miếu hoang gặp tôi. A Độ gặng hỏi Cố Kiếm, vì sao lại đưa tôi đến trốn ở miếu hoang, bấy giờ mới hay, thì ra cả Cố Kiếm và Tôn Nhị đều do Lý Thừa Ngân sai khiến. Mà cũng chính Lý Thừa Ngân sai Cố Kiếm đến uy hiếp Bệ hạ, hòng khiến Bệ hạ tưởng có kẻ muốn ngăn cản người lật lại bản án cũ nhà họ Trần. Không ngờ tôi lại xông ra, tình nguyện làm con tin, thế là Cố Kiếm mới tương kế tựu kế toan dẫn tôi bỏ trốn.

Tôi không còn dám nghĩ, mà cũng không muốn nghĩ gì thêm nữa. Cứ nghĩ tới là cả người lại như rơi vào tiết đông rét buốt, lạnh toát, run rẩy từng hồi. Giờ đây, đối với tôi, Lý Thừa Ngân hoàn toàn là một người xa lạ, một người xa lạ đáng sợ, tôi chẳng bao giờ biết chàng đang toan tính những gì. Ba năm trước, chàng từng làm những chuyện khủng khiếp, ba năm sau, chàng càng đáng sợ. Chàng giăng bẫy Cố Kiếm, phải chăng muốn giết người diệt khẩu? Rõ ràng Cố Kiếm còn là họ hàng với chàng, sư phụ từng giúp chàng làm bao nhiêu việc ác. Ngay cả A Độ mà Lý Thừa Ngân cũng không nương tay, phải chăng chàng muốn tôi không bao giờ biết được sự thật?

Tôi cảm thấy tim mình đã hóa băng, rốt cuộc chàng đang làm gì? Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy lòng dạ con người trên thế gian này thật nham hiểm, cõi Đông cung này thật hiểm ác và Lý Thừa Ngân vô cùng đáng sợ.

Đáng sợ đến mức tôi phải run lên vì khiếp sợ.

Tôi và A Độ vẫn bị giam lỏng, nhưng giờ thì tôi phó mặc. Chốn Đông cung cô quạnh này chỉ có tôi và A Độ nương tựa lẫn nhau.

Nguyệt Nương đến thăm tôi mấy lần, tôi dặn tỷ ấy:

- Tỷ thân cô thế cô ở trong cung, nhớ phải cẩn thận.

Tình yêu của bậc đế vương, sao có thể bền lâu được? Hoàng thượng đưa tỷ ấy vào cung, cốt mượn tiếng hòng lật lại bản án cũ nhà họ Trần, chứ mỹ nhân trong cung nhiều vô kể, e là còn nhiều hơn cả Đông cung nữa. Cao Quý phi qua đời đột ngột, nghe người ta xì xào thì Cao Quý phi mất chỗ dựa, đâm bấn loạn đến nỗi nuốt vàng tự vẫn. Chuyện hậu cung truyền tới Đông cung lúc nào chẳng tức thì.

Tôi biết tình cảnh của Nguyệt Nương có phần tế nhị, đành rằng nhìn bề ngoài Hoàng thượng có vẻ hết mực ưu ái tỷ ấy, nhưng xét cho cùng thì Nguyệt Nương vẫn là gái xuất thân từ chốn thanh lâu. Giờ đây, những thế lực mới trong triều đang dần hình thành, Bệ hạ lại nạp thêm phi tử. Quần thần khuyên người nên sắc lập hoàng hậu, song Bệ hạ còn chần chừ chưa quyết.

Nếu có hoàng hậu mới, không biết liệu Nguyệt Nương có bị hoàng hậu mới sinh lòng đố kỵ hay không? Vĩnh Nương từng kể chuyện Lan phi đời triều trước, cũng chỉ vì xuất thân hèn kém mà bị hoàng hậu hại chết. Thực lòng tôi không muốn Nguyệt Nương rơi vào thảm cảnh đó.

Nguyệt Nương nở nụ cười rạng rỡ, nói với tôi:

- Muội yên tâm, tỷ biết cách ứng phó mà.

Rồi Nguyệt Nương gảy cho tôi nghe một khúc nhạc.

“Thu về hái sen hồ Nam

Sen cao quá đầu

Cúi đầu bóc hạt sen

Hạt thanh tưởng nước.”[75]

[75]Trích Tây Châu khúc, một bài dân ca tiêu biểu cho nghệ thuật dân ca của Nam Triều.

Tiếng hát của Nguyệt Nương thiết tha, êm đềm tựa giọt sương đọng trên lá sen long lanh. Giọng hát như một cơn gió vút qua tường cao vời vợi trong chốn thâm cung, gió lay xích đu đong đưa, bầu trời xanh gọi gió xôn xao, mây trôi lững lờ... Trên trời biếc có chú chim sải cánh bay mãi về phía tây, nó bay về Tây Lương, dẫu Tây Lương không có hồ sen đẹp như thế này, dẫu Tây Lương không có người đẹp hái sen… nhưng Tây Lương vẫn là quê hương của tôi…

Tôi nhớ những tháng ngày ở phường Minh Ngọc, dạo ấy tôi sống vui vẻ, vô tư biết mấy.

Tôi thở dài:

- Chẳng biết lúc nào tỷ mới lại cho hát muội nghe nữa nhỉ?

Nguyệt Nương nói:

- Lần sau tỷ lại đến thăm muội!

Tôi không lên tiếng bởi lòng đã hạ quyết tâm phải về Tây Lương.

Vết thương của A Độ đã bình phục, chúng tôi có thể khởi hành được rồi.

Lý Thừa Ngân sai Bùi Chiếu chọn ra mấy người làm tùy tùng của tôi, trên danh nghĩa là bảo vệ, còn thực chất là để canh chừng. Đám người ấy canh giữ tôi không chút sơ hở, nếu tôi và A Độ cứ liều mình bỏ trốn, e là hơi khó. Thôi đành tùy cơ ứng biến vậy!

Ngày Thất tịch, mùng Bảy tháng Bảy, đối với Hoàng cung thì đây là ngày vui. Từ hơn nửa tháng trước, trong cung đã rục rịch đăng đèn, kết hoa, sắm thuyền, bày biện ngự uyển là bởi ngày mừng thọ Bệ hạ trùng với đêm Thất tịch. Bữa đó, yến được thết ở đảo Quỳnh Sơn giữa hồ Nam Uyển, lầu Đế Hoa và đình Thiên Lục trên đảo có không gian thoáng mát, là nơi thích hợp để nghỉ ngơi dịp hè.

Lý Thừa Ngân nhập cung từ sáng sớm tinh mơ, tôi tới muộn hơn. Theo lệ, cứ vào dịp mừng thọ, Bệ hạ lại ban thưởng cho quần thần, nên trong điện Thừa Đức cũng thết yến. Còn tiệc ở hậu cung do Hiền phi, người mới được Bệ hạ sắc phong chủ trì, mọi việc được bố trí hết sức ổn thỏa. Tôi lên thuyền từ phía sau điện Cam Lộ, trên thuyền còn vẳng nghe có tiếng nhạc từ đôi bờ đưa về, thì ra Hiền phi đã bố trí những nghệ nhân hòa tấu sáo trúc đứng dưới bóng râm bên bờ hồ. Nước gợn sóng nhạc, phiêu bồng tựa cõi tiên.

Mặt trời ngả núi cũng là lúc yến tiệc chính thức bắt đầu, hồ Nam Uyển rợp bông trắng lá xanh, lớp lớp bông sen tinh khôi gối đầu lên nhau, chỉ là sen không có mùi hương. Hiền phi sai người thả đèn hoa sen có kèm bánh thơm xuống hồ, bánh thơm cách ánh nến qua lớp đĩa đồng, hơi nóng dậy hương nồng nàn, hương theo gió bay xa, ngay cả cung tần, mỹ nữ hậu cung cũng không sánh được. Trên đình hóng mát ven hồ, bộ Nhạc dàn dựng khúc Lăng Ba[76], cung nữ xập xòe váy áo xanh biếc như những nàng tiên lá sen đang dập dìu trong điệu Lăng Ba. Ánh nến trên đình lung linh chảy tràn xuống sóng nước dập dờn, hắt lên thứ ánh sáng lấp lánh tựa ngàn sao.

[76]Một vũ khúc nổi tiếng ở thời Đường.

Bệ hạ rất hài lòng với cách bài trí ở nơi đây, người khen Hiền phi linh hoạt, tinh tế, nhất là tiết mục đèn sen tỏa hương. Hiền phi mỉm cười, thưa rằng:

- Chỉ tiếc đây không phải ý tưởng của thần thiếp, chuyện là thần thiếp hay cảm khái, hoa sen rất đẹp, chỉ tiếc là không có hương, cung nữ A Mãn theo hầu thần thiếp vốn thông minh, nhanh nhạy, liền nghĩ cách, sai người làm loại đèn hoa sen này. Được Bệ hạ khen ngợi, âu cũng là phúc của A Mãn, thần thiếp xin được gọi A Mãn đến tạ ơn Bệ hạ.

Cô cung nữ tên A Mãn kia chỉ khoảng mười sáu, mười bảy tuổi, lúc ấy, cô ta khoan thai bước đến, uyển chuyển hành lễ với Bệ hạ. Khi cô nàng ngước nhìn lên khiến nhiều người không khỏi giật mình, cô A Mãn này xem ra còn thanh thoát, yêu kiều hơn cả Nguyệt Nương. Ai nấy đều nghĩ, cô nàng đẹp tựa búp sen. Bấy giờ Bệ hạ cũng sững sờ, chắc bởi vẻ mỹ miều của cô cung nữ. Sau đó, người thưởng cho A Mãn một đôi bình ngọc, một tráp trầm hương. Tôi cứ nghĩ Bệ hạ sẽ nạp A Mãn làm phi tử, không ngờ Bệ hạ lại hỏi Lý Thừa Ngân:

- Ngân Nhi, con thấy cung nữ này thế nào?

Lý Thừa Ngân ngồi đối diện tôi, trông chàng có vẻ uể oải, từ đầu đến giờ chưa hề lên tiếng. Nghe Bệ hạ nhắc tên mình, chàng mới đảo mắt nhìn lướt qua A Mãn, rồi thưa một câu nhạt nhẽo:

- Cũng đẹp ạ!

Bệ hạ nói:

- Bên con thiếu người hầu hạ, chi bằng gọi A Mãn đến Đông cung, ta sẽ sai Dịch đình lệnh chọn người khác giữ chức nữ quan bên chỗ Hiền phi.

Lý Thừa Ngân thưa:

- Nhi thần đội ơn thiện chí của Phụ hoàng, có điều nhi thần không thiếu người hầu hạ.

Thấy tôi nhấp nhổm, Bệ hạ liền hỏi:

- Thái tử phi có gì muốn nói?

Tôi bẩm:

- Bẩm phụ hoàng, Điện hạ tính hay e thẹn, người ngượng không dám nhận. A Mãn xinh đẹp như vậy, Điện hạ không cần, vậy kính xin Phụ hoàng ban A Mãn cho con.

Bệ hạ cười khà khà rồi chuẩn y.

Tôi biết Lý Thừa Ngân đang trừng trộ với mình, song tôi xem như không biết. Hiền phi dường như rất vui, ngay lập tức đã sai A Mãn đến hầu bên bàn tôi. Đêm khuya, tiệc tàn, lúc xuất cung, Hiền phi còn chuẩn bị xe ngựa chu đáo đưa tiễn A Mãn theo sau xe tôi.

Tiệc tùng trong cung khiến tôi mệt lử, nhất là phải đội trên đầu cả một bộ trâm cài nặng trịch. Xe chạy tròng trành, lắc lư, như sắp gãy cổ đến nơi, tôi bèn gỡ bộ trâm cài đầu phiền phức xuống, rồi buông tiếng thở dài, thầm ước ao cuộc sống như thế này sẽ sớm chấm dứt.

Mãi xe mới dừng, rèm hé mở, thái giám soi đèn lồng đứng bên ngoài, kê ghế cho tôi bước xuống. Tôi vừa cúi người, Lý Thừa Ngân đã nhảy phắt xuống ngựa, hằm hằm lao về phía tôi, vung chân đá chiếc ghế. Đám thái giám giật thót mình, lùi về phía sau, quỳ sụp xuống.

Tôi không khỏi tò mò, hỏi:

- Chàng làm trò gì thế?

Chàng vươn tay, lôi tôi từ trong xe ra ngoài như diều hâu quắp gà con.

A Độ định xông lên cứu tôi nhưng bị Bùi Chiếu chặn lại. Lý Thừa Ngân xốc tôi lên vai, còn tôi thì mắng chửi chàng như tát nước. Bấy giờ A Độ đã đụng tay đụng chân với Bùi Chiếu, thân thủ của Bùi Chiếu rất cao siêu, nhất thời A Độ chưa thể dứt ra ngay được. Tôi vùng vằng mắng chửi, cắn cấu Lý Thừa Ngân, rồi nhéo cật lực vào eo chàng. Ngọc trắng khảm trên thắt lưng rụng không sót chiếc nào, song chàng vẫn vác tôi lao thẳng vào điện Lệ Chính.

Phịch!

Đầu tôi đập vào chiếc gối sứ, đau điếng người! Lý Thừa Ngân quẳng tôi lên giường như quẳng một bao gạo. Tôi chồm dậy, chàng đưa tay đẩy tôi ngã xuống giường. Mấy tháng chưa đánh nhau, quả nhiên chân tay bớt linh hoạt đi ít nhiều. Hai chúng tôi chỉ còn thiếu đập cả tòa điện này nữa. Nội thị đứng ngoài cửa thụt thò ngó ra ngó vào, bị Lý Thừa Ngân quẳng bình hoa suýt trúng người, gã sợ hãi, vội rụt lại, không quên cài then cửa. Quần nhau một trận làm tôi thở không ra hơi, cuối cùng tôi mệt lử, nằm im, chẳng buồn nhúc nhích. Tôi không còn vùng vằng nữa, Lý Thừa Ngân cũng ôn tồn hơn.

Chàng ôm tôi từ phía sau, hình như chàng rất thích ôm tôi như thế này. Tôi gối đầu lên cánh tay chàng, có cảm giác cồm cộm.