Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 05 - Phần 1

Chương 5. Lão chủ thầu ở Norwood

Holmes đã trở về London được vài tháng. Và theo lời đề nghị của anh, tôi bán căn hộ của mình để tới ở chung với anh. Một bác sĩ trẻ có tên là Verner đã mua lại phòng mạch của tôi ở Kensington với cái giá cao nhất mà tôi bạo phổi đưa ra. Vài năm sau tôi mới biết rằng, Verner là người bà con xa với Holmes, và chính bạn tôi là người bỏ tiền ra mua giúp phòng mạch này.

Sáng nay, Sherlock Holmes ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế bành và thong thả mở tờ báo buổi sáng. Đột nhiên, chuông cửa réo ầm, tiếp theo là tiếng đập cửa uỳnh uỳnh, như thể có ai đó đang tông vào nhà chúng tôi. Cửa vừa mở, một người chạy vụt vào tiền sảnh, rồi tiếng chân vội vàng bước trên cầu thang. Và chỉ vài giây sau, một thanh niên mặt tái mét, cặp mắt ngơ ngác, đầu tóc bù xù, thở hổn hển lao vào phòng chúng tôi. Anh ta nhìn hai chúng tôi, Holmes đặt tờ báo xuống, nhìn anh ta có ý chờ đợi. Anh ta chợt hiểu, cần phải xin lỗi vì sự xuất hiện đường đột của mình.

- Xin ông thứ lỗi, ông Holmes. - Anh ta nói oang oang - Xin đừng hiểu lầm, vì tôi gần như muốn phát điên… Thưa ông Holmes, tôi chính là John Hector McFarlane bất hạnh!

Cứ như thể, chỉ cần cái tên là đủ giải thích cho sự vụ và chuyến thăm viếng kỳ cục này của anh ta vậy. Nhưng nét mặt không chút phản ứng nào của Holmes cho thấy rằng, cái tên ấy đối với anh chẳng gợi ra chút ý nghĩa nào, cũng như đối với tôi vậy.

- Hãy hút một điếu thuốc lá đi, anh McFarlane! - Holmes chìa ra hộp thuốc - Tôi tin chắc rằng, với những triệu chứng như thế này thì bác sĩ Watson đây sẽ sẵn lòng kê cho anh một liều thuốc an thần đấy. Tiết trời mấy ngày nay thật nóng nực. Còn bây giờ, nếu anh đã cảm thấy bình tâm hơn, xin mời ngồi xuống chiếc ghế kia và nói chuyện với chúng tôi một cách từ tốn, chậm rãi! Làm ơn cho chúng tôi biết anh là ai và muốn gì. Anh xưng tên cứ như là chỉ cần nghe nói, tôi biết ngay anh là ai. Nhưng thành thực mà nói, ngoại trừ việc anh còn độc thân, là luật gia, hội viên Hội Tam Điểm và mắc bệnh hen suyễn ra, tôi chẳng biết gì hơn nữa đâu.

Vốn đã quen với phương pháp của Holmes, tôi chẳng có khó khăn gì mà không theo kịp các lập luận của anh khi quan sát người khách. Thế nhưng, vị khách của chúng tôi thì vô cùng sửng sốt:

- Vâng, đúng thế thật, thưa ông Holmes. Và ngoài những điều ông vừa nói ra, hiện giờ tôi còn là người đàn ông bất hạnh nhất London. Vì Chúa, xin ông đừng bỏ mặc tôi nhé! Nếu cảnh sát đến bắt tôi trước khi tôi kể hết câu chuyện, ông hãy nói với họ cho tôi vài phút, để tôi có thể kể cho ông nghe toàn bộ sự thật. Tôi sẽ yên tâm vào tù nếu tôi biết chắc ở bên ngoài vẫn còn có ông cứu giúp.

- Bắt anh! - Holmes nói - Chuyện xem ra hấp dẫn đấy! Thế anh sẽ bị bắt vì tội gì?

- Vì tội ám sát ông Jonas Oldacre ở Hạ Norwood.

Khuôn mặt bạn tôi biểu lộ một niềm cảm thông. Vị khách của chúng tôi run rẩy cầm lấy tờ “Daily Telegraph” còn để trên đầu gối Holmes:

- Nếu ông đã đọc báo thì chỉ liếc sơ qua là ông biết vì sao sáng nay tôi tìm tới đây. Hiện nay tôi đang là chủ đề bàn tán khắp thiên hạ. - Anh ta lật trang giữa của tờ báo - Nếu ông cho phép, tôi sẽ đọc ông nghe: “Vụ án bí ẩn ở Norwood. Một nhà thầu khoán nổi danh đã mất tích. Một vụ ám sát hay một vụ hỏa hoạn do dã tâm? Kẻ sát nhân đang bị truy lùng”. Họ đang lần theo những manh mối này đấy, ông Holmes ạ, và họ sẽ lần đến tôi. Họ đã bám theo tôi từ ga London Bridge rồi, chỉ chờ có lệnh là bắt tôi thôi. Mẹ tôi sẽ tan nát cõi lòng. Bà ấy sẽ chết vì buồn tủi! - Anh ta vặn vẹo đôi tay một cách tuyệt vọng, đứng ngồi không yên.

Tôi chăm chú quan sát chàng trai bị buộc tội giết người này. Anh ta có mái tóc vàng nhạt, khuôn mặt điển trai, đôi mắt xanh đầy lo sợ, đôi môi yếu ớt, râu ria nhẵn nhụi. Anh ta khoảng hai mươi bảy tuổi, ăn mặc đứng đắn, nói năng đường hoàng như một người Anh có giáo dục. Một cuộn giấy tờ lộ ra nơi miệng túi chiếc áo khoác mùa hè của anh ta.

- Chúng ta phải chạy đua với thời gian thôi. - Holmes nói - Watson này, anh làm ơn đọc giùm tôi bài báo được không?

Tôi đọc to câu chuyện vụ án đăng trên báo:

“Đêm qua, hoặc có thể rạng sáng ngày hôm nay, một tội ác nghiêm trọng đã xảy ra ở vùng Hạ Norwood. Nạn nhân là ông Jonas Oldacre. Ông Oldacre độc thân, 52 tuổi, ngụ tại Deep Dene. Ông ta có tiếng là kỳ quặc, bí ẩn và không cởi mở. Ông ta đã làm chủ thầu nhiều năm, sau khi tạo được một gia sản kha khá thì giải nghệ. Sau nhà ông vẫn còn có một khoảng sân chứa đầy gỗ xây dựng. Và nửa đêm hôm qua, lúc khoảng 12 giờ, đống gỗ đã bốc cháy. Lính cứu hỏa tới ngay, nhưng gỗ khô bén lửa cháy dữ dội, không sao dập tắt được, cho tới khi cả đống gỗ cháy rụi. Lúc đó, ai cũng nghĩ chỉ là một trận hỏa hoạn bình thường. Nhưng một số dấu hiệu bất thường cho thấy một tội ác nghiêm trọng đã xảy ra. Mọi người rất ngạc nhiên khi không thấy chủ nhà xuất hiện chữa cháy. Một cuộc điều tra ngay sau đó cho thấy, ông ta đã biến mất. Giường không có người ngủ; két sắt trong phòng đã bị mở; một số giấy tờ quan trọng vương vãi trên sàn nhà. Và còn dấu hiệu của một cuộc vật lộn quyết liệt, nhiều vết máu vương lại trong phòng, còn cả một cái can gỗ sồi vấy máu ở cạnh. Được biết ông Jonas Oldacre đã tiếp khách đêm qua ở trong phòng, và cây gậy là của một luật sư trẻ tuổi người London, có tên là John Hector McFarlane, hiện đang làm cho hãng Graham và McFarlane, ở 426 Gresham Building, E.C. Cảnh sát tin rằng họ đã nắm được chứng cớ về động cơ phạm tội. Chúng ta hãy chờ đợi các bước điều tra tiếp theo.

“Tin giờ chót - Vừa lúc báo lên khuôn, có tin đồn rằng John Hector McFarlane vừa bị bắt vì tội danh giết ông Jonas Oldacre. Chắc chắn rằng, ít nhất cũng có lệnh bắt giữ chính thức đối với ông này. Cuộc điều tra tại Norwood cũng có nhiều bước tiến mới quan trọng. Ngoài các dấu vết cho thấy cuộc vật lộn đẫm máu trong phòng nạn nhân, nhân viên điều tra còn phát hiện các cửa sổ trong phòng ngủ của nạn nhân ở tầng trệt đã bị mở, có nhiều dấu vết chứng tỏ một vật lớn đã bị kéo lê ra đống gỗ. Và sau chót, người ta khẳng định rằng, những mảnh vụn của thi thể nạn nhân đã được tìm thấy trong đống tro tàn. Giả thiết của cảnh sát là đã xảy ra một vụ án mạng nghiêm trọng, nạn nhân bị đánh đến chết trong phòng ngủ. Hung thủ đã đánh cắp giấy tờ và kéo xác nạn nhân ra đống gỗ rồi châm lửa đốt, nhằm phi tang. Cuộc điều tra được ủy thác cho thanh tra Lestrade thuộc Sở Cảnh sát Scotland Yard. Tin chắc với tài năng vốn có, ông sẽ lần ra manh mối vụ án”.

Sherlock Holmes nghe tôi đọc, hai mắt anh nhắm nghiền, các đầu ngón tay chụm lại.

- Vụ này có vài điểm đáng chú ý đây. - Anh chậm rãi nói - Trước tiên, anh McFarlane, anh cho tôi hỏi là làm thế nào đến giờ này mà anh vẫn còn tự do, trong khi rõ ràng là đã đủ bằng chứng để bắt giữ anh rồi.

- Tôi sống ở Blackheath, cùng với bố mẹ tôi. Nhưng đêm qua, vì có việc phải làm lúc khuya với ông Oldacre, tôi nghỉ lại trong một khách sạn ở Norwood, rồi từ đó đi thẳng đến văn phòng. Tôi chẳng hề hay biết gì về vụ này, cho đến khi lên tàu và đọc bài báo mà ông vừa nghe. Tôi biết mình đang gặp nguy hiểm nên ngay lập tức chạy vội tới đây cầu cứu ông. Tôi biết thế nào người ta cũng tới nhà hoặc đến văn phòng để bắt tôi. Có một người đã theo tôi từ ga và chắc chắn là… Ôi trời ơi! Gì thế này?

Đó là tiếng chuông gọi cửa, rồi tiếng bước chân nặng nề trên cầu thang. Vài phút sau, ông bạn quý Lestrade hiện ra nơi ngưỡng cửa. Qua vai ông ta, tôi thấy vài người cảnh sát mặc đồng phục đứng lố nhố ở phía ngoài.

- Phải ông John Hector McFarlane đây không? - Lestrade hỏi.

Thân chủ của chúng tôi đứng lên, mặt tái mét, không nói được lời nào.

- Tôi bắt giữ ông vì tội hạ sát ông Jonas Oldacre ở Hạ Norwood.

McFarlane quay về phía chúng tôi với vẻ tuyệt vọng, đoạn ngã phịch xuống ghế, như thể bị một cú đánh trời giáng.

- Xin hãy từ từ một chút, ông Lestrade! - Holmes ngăn lại - Sớm hay muộn nửa tiếng đồng hồ với ông đâu có gì khác nhau. Ông đây sắp giải thích cho chúng ta hiểu rõ thêm về vụ án thú vị này. Biết đâu, nhờ đó mà chúng ta có thể làm sáng tỏ nhiều vấn đề.

- Tôi nghĩ, tất cả đều đã quá rõ ràng rồi. - Lestrade nói đầy vẻ nghiêm khắc.

- Tuy nhiên, nếu được ông cho phép, tôi rất quan tâm đến câu chuyện ông ta sẽ kể.

- Ông Holmes, tôi thật khó lòng từ chối ông điều gì, vì trước đây ông đã giúp chúng tôi khá nhiều, Scotland Yard coi như vẫn còn nợ ông. - Lestrade tỏ vẻ nhân nhượng - Nhưng tôi phải ở đây, bên cạnh phạm nhân và tôi xin báo trước, bất kỳ điều gì anh ta nói ra cũng có thể sẽ là bằng chứng chống lại anh ta.

- Tôi chẳng dám nài xin gì hơn. - Thân chủ của chúng tôi ủ rũ đáp - Tất cả những gì tôi mong muốn là xin các ông hãy nghe tôi nói và tìm ra sự thật.

Lestrade nhìn đồng hồ.

- Tôi cho ông đúng nửa tiếng thôi!

- Trước hết, tôi xin làm rõ ngay, - McFarlane trình bày - rằng tôi không hề biết gì về ông Jonas Oldacre, ngoại trừ cái tên của ông ấy. Từ nhiều năm trước, cha mẹ tôi có quen biết ông ấy, nhưng đã lâu họ không liên lạc với nhau. Vì thế ngày hôm qua, tôi rất ngạc nhiên khi thấy ông ấy tìm đến văn phòng của tôi trong thành phố vào lúc ba giờ chiều. Tôi càng sửng sốt hơn khi ông ấy nói cho tôi mục đích của chuyến viếng thăm. Ông ấy mang theo vài tờ giấy gỡ ra từ một quyển sổ, trên đó đầy những dòng chữ viết nguệch ngoạc. Đây các ông xem. - Anh ta nói rồi đặt mấy tờ giấy lên bàn - “Đây là bản chúc thư của tôi”, ông Oldacre nói vậy. “Tôi muốn cháu soạn lại nó theo thể thức phù hợp pháp luật. Tôi sẽ ngồi đây chờ trong lúc cháu làm việc”.

“Tôi liền bắt tay vào việc. Nhưng tôi kinh ngạc biết bao khi nhận ra rằng ông ấy để lại toàn bộ tài sản cho tôi. Ông Oldacre là một người nhỏ bé, có cặp lông mày bạc trắng. Khi ngẩng lên nhìn ông, tôi bắt gặp ông chăm chú nhìn tôi với ánh mắt ấm áp. Tôi thật không thể tin vào mắt mình khi đọc các điều khoản của chúc thư. Nhưng ông ấy đã giải thích rằng ông ấy sống độc thân, chẳng còn họ hàng thân thích, rằng hồi còn trẻ ông ấy có biết bố mẹ tôi, ông ấy nghe nói tôi là một chàng trai rất đáng khen, và ông ấy tin chắc của cải của mình được trao lại cho một người xứng đáng. Tôi dĩ nhiên chỉ còn biết ấp úng nói lời cảm ơn. Bản di chúc được soạn xong, ông ấy ký tên và người thư ký của tôi đứng làm chứng. Đây, như tôi đã nói, chỉ là bản nháp thôi. Bản chính thức đã được soạn trên giấy màu lam nhạt. Sau đó ông Oldacre báo cho tôi biết là ông còn một số giấy tờ nữa như hợp đồng cho thuê nhà đất, chứng thư xác lập tài sản, giấy tờ thế chấp, cổ phiếu… mà tôi cần phải xem để hiểu. Ông ấy nói rằng chưa thể hoàn toàn yên tâm chừng nào mọi việc còn chưa được sắp xếp xong xuôi. Và ông ấy yêu cầu tôi đến nhà ông ở Norwood ngay trong đêm với bản chúc thư để còn sắp xếp mọi việc. “Con trai, nhớ đừng nói lời nào với cha mẹ con về việc này cho tới khi ta làm xong xuôi mọi thứ! Chúng ta sẽ dành cho họ một điều bất ngờ nho nhỏ”. Ông ấy nhắc đi nhắc lại điều này và bắt tôi phải hứa danh dự.

“Thưa ông Holmes, ông cũng biết là tôi không thể từ chối ông ấy điều gì, vì ông ấy là ân nhân của tôi. Tôi chỉ mong thực hiện được mọi tâm nguyện của ông ấy. Thế là tôi gửi một bức điện về nhà, nói rằng tôi có một việc quan trọng phải làm, chưa biết chừng nào mới về được. Ông Oldacre nói muốn mời tôi ăn tối lúc 9 giờ, vì ông không thể về nhà sớm hơn. Nhưng khó khăn lắm tôi mới tìm được nhà của ông ấy, đến tận 9 giờ rưỡi mới tới nơi. Tôi thấy ông ấy…”

- Dừng một chút! - Holmes cắt ngang - Thế ai mở cửa?

- Một bà trung niên, mà tôi đoán là quản gia.

- Có phải bà ấy đã báo tin anh đến? Tôi đoán thế.

- Vâng, đúng vậy.

- Được rồi, anh nói tiếp đi. - Holmes gật đầu ra hiệu. McFarlane lau vầng trán lấm tấm mồ hôi và tiếp tục kể:

- Bà ấy đưa tôi vào phòng khách, nơi bữa ăn đã được dọn sẵn. Ăn xong, ông Oldacre dẫn tôi vào buồng ngủ của ông ấy. Trong đó có một cái két sắt lớn. Ông ấy mở két lấy ra một đống tài liệu, và chúng tôi cùng xem. Khoảng hơn 11 giờ, gần 12 giờ chúng tôi mới xong việc. Ông ấy bảo không nên làm ảnh hưởng tới bà quản gia nên đưa tôi ra qua lối cửa sổ luôn mở rộng suốt buổi tối.

- Thế tấm mành che có được hạ xuống không? - Holmes vừa chăm chú lắng nghe, vừa hỏi.

- Tôi không chắc, nhưng tôi nhớ rõ rằng nó chỉ được hạ xuống phân nửa. Đúng, tôi nhớ là ông ấy phải kéo rèm lên để mở rộng cửa sổ. Tôi tìm mãi không thấy cây can của mình. Ông ấy bảo: “Không sao đâu con trai, chúng ta còn gặp nhau nhiều mà. Bác sẽ giữ giúp cây can này cho tới khi con đến lấy lại”. Thế là tôi về, để ông ấy lại với cái két vẫn còn đang mở và đống giấy tờ tài liệu xếp trên bàn. Lúc đó quá muộn rồi nên tôi không về nhà cha mẹ mình ở Blackheath nữa. Tôi nghỉ đêm tại khách sạn Anerley Arms. Và tôi không hề biết gì hơn, cho đến khi đọc báo về vụ việc kinh khủng này vào sáng ngày hôm nay.

- Ông có muốn hỏi thêm gì nữa không, ông Holmes? - Lestrade nhướn cặp lông mày lên hỏi.

- Không, trước khi tôi tới Blackheath.

- Chắc ông muốn nói tới Norwood?

- Ồ vâng, đi Norwood, ý tôi hẳn là thế. - Holmes mỉm cười đầy ẩn ý.

Dù Lestrade không chịu thừa nhận, nhưng kinh nghiệm đã cho ông ta thấy rằng bộ óc sắc sảo của người đứng trước mặt ông ta có thể sẽ tìm ra khối điều mà đối với ông ta là quá bí ẩn. Tôi thấy ông ta nhìn bạn tôi đầy vẻ tò mò.

- Tôi nghĩ tôi có vài lời muốn nói với ông, ông Holmes ạ! - Ông ta nói - Này ông McFarlane, hai cảnh sát và chiếc xe ngựa đang đợi ông trước cửa đấy!

Người thanh niên đáng thương đứng dậy, rời khỏi phòng sau khi hướng về chúng tôi cái nhìn cầu khẩn cuối cùng. Hai nhân viên cảnh sát đưa anh ta ra xe, còn Lestrade ở lại.

Holmes cầm các tờ nháp chúc thư lên xem xét vô cùng chăm chú.

- Tập tài liệu này có vài điểm đáng quan tâm đấy chứ, phải không, ông Lestrade? - Anh nói và đẩy tập giấy về phía Lestrade.

Tới lượt viên thanh tra xem các giấy tờ. Ông ta rất ngạc nhiên.

- Tôi chỉ có thể đọc vài dòng đầu, vài dòng giữa trang thứ hai và đôi ba dòng ở cuối. Những dòng này rõ như in, nhưng những chữ ở đoạn giữa thì rất xấu. Có đến vài chỗ tôi chẳng thể nào đọc được.

- Ông nghĩ sao về điều đó?

- Nói thật thì... Thế ông nghĩ sao?

- Chúc thư này được viết trên tàu. Nét chữ dễ đọc viết tại nhà ga, chữ xấu viết trên đường đi, còn chữ xấu đến mức không đọc nổi là viết lúc tàu qua các khúc quanh. Một chuyên gia về chữ viết có thể nói ngay được rằng những giấy tờ này được viết trên một đường tàu ngoại ô, vì không đâu trong thành phố lại có đường tàu với một chuỗi liên tục các khúc quanh như thế. Giả dụ rằng cả chuyến đi đó được dành cho việc soạn thảo chúc thư thì hẳn đây phải là một chuyến tàu tốc hành, chỉ dừng một lần giữa hai ga Norwood và London Bridge.

Lestrade phá lên cười.

- Ông quá giỏi, vượt xa tôi khi đưa ra các giả thiết, ông Holmes ạ! - Ông ta vui vẻ thừa nhận - Thế những điều này có ích gì cho việc điều tra không?

- Nó chứng thực cho câu chuyện của chàng trai trẻ. Chúc thư này Jonas Oldacre chỉ vừa mới soạn trong chuyến đi ngày hôm qua. Thật đáng quan tâm, phải không? Vì sao ông ta lại viết thứ tài liệu quan trọng như vậy một cách vội vã đến thế? Điều đó cho thấy ông ta nghĩ nó không có tầm quan trọng thực sự. Chỉ một người viết chúc thư mà không mong nó có hiệu lực thì mới làm như vậy.

- Nhưng làm thế thì có khác gì viết ra bản án tử hình cho chính mình. - Lestrade nhận xét.

- Ông nghĩ thế à?

- Ông không cho là vậy sao?

- Có thể, nhưng với tôi vụ việc này vẫn còn chưa sáng tỏ.

- Chưa sáng tỏ? Vậy thế nào mới gọi là sáng tỏ đây? Một chàng trai bất ngờ được biết rằng mình sẽ được hưởng cả một gia tài nếu ông già chết. Hắn sẽ làm gì? Hắn chẳng nói cho ai hay, mà vội vã thu xếp để có thể gặp ông già ngay tối hôm ấy. Đợi đến khi người trong nhà đi ngủ, hắn mới ra tay giết ông già, thiêu xác ông ấy trong đống gỗ và tới một khách sạn gần đó để ngủ trọ.