Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 06 - Phần 2

Ít lâu sau, lời dự đoán của bạn tôi quả nhiên ứng nghiệm. Trong thời gian hai tuần này, tâm trí của tôi luôn hướng về “Những cây sồi đỏ”. Tôi lo rằng cô gái đang phải dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm. Mức lương cao bất thường, những điều kiện kỳ quặc, công việc nhẹ nhàng, tất cả đều cho thấy một điều gì đó không bình thường, dù rằng tôi không thể xác định được chuyện đó là một sở thích kỳ cục nhất thời hay là một âm mưu; người đàn ông ấy là một nhà từ thiện hay một tên vô lại. Về phần Holmes, tôi thấy anh thường ngồi trầm ngâm trên ghế cả nửa giờ, chau mày nghĩ ngợi một mình. Nhưng khi tôi nhắc tới chuyện cô gái đó, là anh liền xua xua tay ngắt lời: “Thôi đi, tôi đang chờ tin tức. Không thể làm bánh nếu không có bột”. Nhưng đôi lúc, tôi thấy anh rít lên một mình: “Không! Tôi quyết không bao giờ cho em gái tới đó”. Chứng tỏ anh rất lo lắng cho số phận của cô gái đáng thương kia.

Cuối cùng thì một bức điện cũng được gửi tới chúng tôi trong đêm khuya. Holmes mở phong bì, liếc nhanh qua nội dung bức điện rồi quẳng sang cho tôi:

- Anh hãy hỏi ngay giờ tàu chạy đến Bradshaw. - Holmes nói ngắn ngọn như vậy.

Bức điện vừa ngắn vừa khẩn cấp:

“12 giờ trưa mai tới khách sạn Thiên nga đen ở Winchester. Nhất định phải đến!

Hunter”

Holmes nửa như đề nghị, nửa mời mọc khi tôi đọc xong bức điện:

- Anh đi cùng với tôi chứ?

- Tất nhiên rồi. Tôi không mong muốn gì hơn nữa.

- Vậy anh tìm xem có chuyến tàu nào không.

- 9 rưỡi có một chuyến. - Tôi chúi mũi vào bảng thông báo giờ tàu chạy, tìm kiếm - 11 rưỡi đến Winchester.

- Rất tốt! Chúng ta đi nghỉ chút đi. Sáng mai phải thật sự mạnh khỏe nhất đấy!

11 giờ hôm sau, chúng tôi đã gần tới thủ đô cũ của Anh quốc. Ban đầu, Holmes vùi đầu vào đống báo, nhưng ngay sau đó, anh bị phong cảnh mùa xuân mê hồn cuốn hút. Thật là một ngày xuân lý tưởng. Những đám mây trắng lơ lửng trên bầu trời trong xanh, trôi nhè nhẹ từ tây sang đông, ánh nắng rực rỡ. Khí trời rất tươi mới, khiến người ta thấy thanh thản và sảng khoái. Phía xa xa, trùng trùng điệp điệp những ngọn núi của Aldershot. Cả một vùng đồng ruộng xanh mướt, thấp thoáng hiện ra những mái ngói màu đỏ hoặc ghi xám của những trang trại xinh xắn. Đúng là một cảnh sắc thôn quê quá ư đẹp đẽ với những người dân thành thị như chúng tôi.

- Phong cảnh thật là trong lành và đẹp đẽ, phải không? - Tôi bất giác thốt lên, vui sướng.

Nhưng Holmes lại nói với vẻ nghiêm trọng:

- Watson thân mến, đầu óc tôi bị ám ảnh đến nỗi nhìn đâu cũng thấy tội ác. Tôi cùng đi với anh, cũng nhìn thấy bầu trời trong xanh và thấy những ngôi nhà xinh xắn như anh, nhưng trong đầu tôi lại chỉ có độc nhất một ý nghĩ: Đó là chúng nhỏ bé, lẻ loi và hẻo lánh quá, nên tội ác ở đây dễ dàng thoát khỏi sự trừng phạt của pháp luật.

- Chúa ơi! Chắc anh quá lo lắng cho cô Hunter nên mới nghĩ như vậy. Sao anh có thể ghép chung tội ác với những ngôi nhà xinh đẹp đó được chứ?

- Nhưng Watson ạ, chính những ngôi nhà ấy khiến tôi kinh sợ đấy! Tôi có cảm giác rằng, những đường phố tồi tàn ở London còn chứa ít tội lỗi hơn những cánh đồng đẹp tươi và đầy sức sống này!

- Anh làm tôi hoảng đấy.

- Watson ạ, anh hãy nhìn kỹ đi. Mỗi ngôi nhà nhỏ bé ở đây giống như một thế giới riêng. Ở đó, người ta mặc sức muốn làm gì thì làm, không một ai hay biết. Nếu Hunter đang cầu cứu chúng ta mà sống ở Winchester thì tôi sẽ không thấy lo lắng lắm. Nhưng “Những cây sồi đỏ” cách đó những năm dặm nên tôi thấy không yên. Cũng còn may là cô ấy chưa bị đe dọa đấy.

- Nếu cô ấy có thể gặp chúng ta ở Winchester, chứng tỏ cô ấy vẫn còn được tự do đi lại.

- Đúng vậy!

- Rốt cuộc là có chuyện gì? Anh có thể giải thích cho tôi được không?

- Tôi đã có cả thảy bảy cách giải thích khác nhau, nhưng trong đó cách nào là chính xác thì chỉ có thể biết được sau khi có tin tức của Hunter mà thôi. Đây rồi! Tháp nhà thờ lớn đây rồi. Không lâu nữa chúng ta sẽ được nghe cô Hunter giải thích. - Holmes vui vẻ ra mặt, đáp lời tôi.

“Thiên nga đen” là khách sạn nổi tiếng trên trục đường chính của Winchester, cách nhà ga không xa. Ở đó, chúng tôi gặp ngay Hunter đang nóng lòng đợi chúng tôi. Cô đã thuê sẵn một phòng, bữa trưa cũng đã được dọn sẵn trên bàn.

Cô reo lên khi thấy chúng tôi:

- Thấy các ông tới tôi mừng quá! Rất cám ơn hai ông! Nhưng quả thực, giờ tôi không biết mình phải làm thế nào nên mới cầu cứu các ông!

- Hãy cho tôi biết cô đã gặp phải chuyện gì. - Holmes hỏi Hunter đầy sự quan tâm.

- Tôi phải nói gấp vì đã hứa với ông Rucastle là sẽ về trước 3 giờ. Sáng nay, tôi xin ông ta cho nghỉ để vào thành phố, nhưng ông ta không biết tôi ra đây làm gì.

- Cô hãy kể thứ tự từng chuyện một. - Holmes duỗi đôi chân quá khổ về gần lò sưởi, ngồi trong tư thế thoải mái để chuẩn bị lắng nghe.

- Trước hết, phải nói rằng tôi chưa hề bị ông bà Rucastle ngược đãi. Nhưng, tôi không có cách nào hiểu nổi họ và tôi rất lo ngại.

- Cô không hiểu chuyện gì?

- Là nguyên nhân những hành động của họ. Tôi kể lại từ đầu mọi chuyện; biết đâu ông có thể lý giải được một vài điều từ những chuyện đó.

“Khi tôi tới, ông Rucastle đã đưa xe tới đây đón, rồi đưa tôi về trang trại “Những cây sồi đỏ”. Môi trường ở đó quả là tuyệt vời, nhưng ngôi nhà thì chẳng đẹp chút nào. Đó là một khối nhà vuông đồ sộ màu trắng nhờ, tuy nhiên do ẩm mốc và bị thời tiết xấu tác động nên trông nó thật loang lổ và xấu xí. Quanh nhà thì ba mặt là rừng cây kéo dài, còn mặt trước là một vùng đất bằng phẳng, thông tới đường lớn đi Southampton, mà ngã ba cách cổng nhà khoảng 100m. Vùng đất đó là của ông Rucastle; còn rừng cây thuộc sở hữu của một vị huân tước. Vài cây sồi đỏ mọc ngay trước cửa, đối diện với ngôi nhà, nên nơi đây được gọi là trang trại “Những cây sồi đỏ”.

“Chiều hôm đó, ông chủ giới thiệu tôi với vợ và con trai ông ta. Ông Holmes ạ, những điều mà tôi phỏng đoán lúc ở phố Baker không giống với thực tế. Bà Rucastle không hề điên, trái lại còn là người điềm tĩnh với sắc mặt xanh xao và trẻ hơn chồng rất nhiều. Tôi đoán bà ấy chưa đến ba mươi, còn ông Rucastle không ít hơn bốn mươi lăm tuổi. Nghe họ nói chuyện, tôi biết được rằng họ đã lấy nhau được bảy năm. Ông ta góa vợ, có một cô con gái riêng hiện đang ở Philadelphia, Mỹ. Rucastle cho tôi biết, sở dĩ cô ấy bỏ đi là vì không thích người mẹ kế. Vì cô ấy chỉ khoảng hai mươi tuổi nên tôi hoàn toàn có thể hiểu được khi cô ấy có ác cảm với người dì ghẻ chỉ hơn mình vài tuổi. Bà Rucastle đối xử với tôi rất bình thường, không tỏ ra có chút ác cảm nào.

“Bà Rucastle, theo tôi, là một người rất bình thường cả về nhan sắc cũng như về học vấn. Nhưng cũng rất dễ dàng nhận thấy là bà ấy vô cùng yêu thương chồng con. Đôi mắt màu nâu nhạt của bà ấy luôn để ý, chỉ cần phát hiện chồng con cần gì là liền đáp ứng yêu cầu của họ ngay. Ông Rucastle rất tốt với bà ấy, mỗi tội cách ứng xử hơi thô lỗ. Họ dường như là một đôi vợ chồng hạnh phúc.

Nhưng bà ấy vẫn giấu kín một nỗi u sầu bí mật nào đó. Bà ấy thường xuyên chìm đắm trong suy tư, ánh mắt trĩu nặng nỗi buồn rầu. Tôi đã nhìn thấy bà ấy rơi nước mắt không chỉ một lần, cứ ngỡ là bà khổ tâm vì những thói xấu của đứa con trai hư đốn. Tôi chưa từng gặp đứa trẻ nào mà hư hỏng, nghịch ngợm như nó. Nó thấp bé hơn những đứa trẻ cùng tuổi, nhưng cái đầu lại rất to, không tương xứng với toàn thân. Thú tiêu khiển ưa thích duy nhất của nó là hành hạ những con vật nhỏ bé yếu ớt. Nó tỏ ra rất có tài bắt chuột, chim non và côn trùng. Nhưng tôi không muốn nói nhiều về chú bé hư hỏng này. Thực tế thì nó chẳng có vai trò gì nhiều trong chuyện của tôi.”

- Tôi rất muốn biết mọi chi tiết mà cô kể lại. - Holmes nói - Dù cô cho rằng có ích hay không.

- Tôi sẽ cố hết sức để không bỏ sót những chi tiết quan trọng. Điều làm tôi thấy khó chịu nhất ở ngôi nhà ấy là ngoại hình và hành vi của những gia nhân. Nhà ông Rucastle có hai người giúp việc, một người đàn ông và vợ ông ta. Tên ông ta là Toller, người thô lỗ vụng về với mái tóc hoa râm và bộ râu quai nón rậm rì. Khó chịu nhất là lúc nào người ông ta cũng nồng nặc mùi rượu. Vợ Toller là một phụ nữ khỏe mạnh, cao lớn, ít nói, rất đáng ghét. May mà hầu hết thời gian tôi đều ở trong phòng dạy trẻ và phòng riêng. Hai căn phòng này tiếp giáp nhau, đều ở một góc của ngôi nhà lớn.

“Sau khi tôi tới “Những cây sồi đỏ”, cuộc sống trong hai ngày đầu rất yên tĩnh. Ngày thứ ba, bà Rucastle ăn sáng xong liền đi xuống nhà, thì thầm gì đó với chồng.

- À, đúng rồi! - Ông ấy gật đầu đồng ý với vợ, rồi quay về phía tôi - Rất cám ơn cô Hunter, vì cô đã cắt ngắn tóc theo sở thích của chúng tôi. Bây giờ chúng ta sẽ thử xem cô mặc bộ váy áo màu xanh đậm có hợp hay không. Bộ váy ấy đặt trên giường trong phòng cô. Nếu cô mặc nó thì chúng tôi sẽ rất biết ơn cô đấy!

“Bộ váy đặt trên giường cho tôi mặc có màu xanh đậm đặc biệt. Nó được dệt bằng loại vải cực tốt. Nhưng vừa nhìn, tôi biết ngay là quần áo cũ. Bộ váy áo rất vừa với người tôi, dường như là được may theo số đo của tôi vậy. Ông bà Rucastle thấy thế thì vui mừng quá mức, đến nỗi có phần khác thường. Họ đang ngồi đợi tôi trong phòng khách. Phòng khách rất rộng, chiếm cả nửa phía trước của căn nhà, với ba cửa sổ lớn. Họ yêu cầu tôi ngồi lên chiếc ghế đặt sẵn ở gần cửa sổ giữa, quay lưng ra phía ngoài. Rồi ông Rucastle vừa đi đi lại lại trong phòng khách vừa kể cho tôi nghe vô số những chuyện khôi hài mà tôi chưa từng được biết. Các ông không thể tưởng tượng được ông ấy hài hước thế nào đâu, tôi cười đau cả bụng. Nhưng bà Rucastle lại thấy những chuyện đó chẳng có vẻ gì là hài hước, thậm chí còn không cả cười. Bà ta chỉ ngồi im, đặt hai tay lên đầu gối, khuôn mặt vừa buồn rầu lại vừa lo lắng. Khoảng một tiếng đồng hồ sau, ông Rucastle đột nhiên nói là đã đến lúc tôi bắt đầu công việc trong ngày. Tôi thay váy áo và đến phòng dạy trẻ tìm Edward.

“Hai ngày sau, cảnh đó lại diễn ra tương tự như vậy. Một lần nữa, tôi lại thay váy áo, tới ngồi bên cửa sổ, nghe ông chủ kể những câu chuyện cười bất tận. Rồi ông ấy đưa cho tôi một quyển tiểu thuyết có bìa màu vàng, khẽ xoay chiếc ghế mà tôi đang ngồi sang bên cạnh một chút, để tôi khỏi che khuất quyển sách. Ông ấy yêu cầu tôi đọc to lên cho mọi người cùng nghe. Tôi đọc một trang bất kỳ trong quyển sách, được khoảng mười phút, thì cũng như lần trước, đột nhiên ông ấy bảo tôi ngừng lại để thay quần áo.

“Ông hẳn cũng đoán được, thưa ông Holmes, rằng tôi rất lấy làm lạ và không thể lý giải được những hiện tượng khác thường ấy có ý nghĩa gì. Tôi phát hiện thấy họ hết sức quan tâm đến việc tôi phải ngồi quay lưng về phía cửa sổ. Vì vậy, tôi đột nhiên nảy ra một ý nghĩ là muốn xem xem sau lưng mình đang xảy ra chuyện gì. Tôi mau chóng nghĩ ra một cách. Tôi có một cái gương nhỏ bị vỡ, thế là tôi liền lén giấu một mảnh gương vào trong khăn tay. Trong lần biểu diễn sau đó, sau một tràng cười rũ rượi, tôi liền đưa chiếc khăn tay lên trước mắt, khéo léo đưa qua đưa lại và có thể nhìn thấy mọi thứ sau lưng. Tôi phải thừa nhận là lúc đầu rất thất vọng, vì chẳng nhìn thấy gì cả. Ít ra thì ấn tượng đầu tiên của tôi cũng là như vậy. Nhưng đến lần thứ hai, khi nhìn lại lần nữa, tôi bỗng nhìn thấy có một người đàn ông râu ria xồm xoàm mặc bộ đồ màu xám đứng bên đường đi Southampton, dường như đang nhìn về phía tôi. Anh ta đứng tựa vào hàng rào ở sân nhà và nhìn về phía chúng tôi rất chăm chú. Tôi để chiếc khăn tay xuống, liếc nhanh về phía bà Rucastle thì thấy bà ta đang nhìn chằm chằm vào tôi với ánh mắt rất sắc sảo. Bà ta chẳng nói gì, nhưng tôi tin là bà đã đoán biết việc tôi làm, và cũng nhìn thấy cả người đàn ông nọ. Lập tức bà đứng dậy, nói với ông Rucastle:

- Này anh, bên kia đường có một thằng cha xấc láo đang nhìn chằm chằm vào cô Hunter.

- Không phải bạn cô chứ, cô Hunter? - Ông ta dò hỏi.

- Không phải, ở đây tôi chẳng quen ai cả.

- Ôi Chúa ơi! Thật là trơ tráo. Xin cô hãy quay lại và xua tay ra hiệu đuổi hắn đi!

- Tôi nghĩ, tốt hơn bà không cần quan tâm đến anh ta.

- Không! Không! Như thế hắn sẽ thường xuyên la cà ở đây. Tôi xin cô! Cô hãy quay lại, xua tay đuổi hắn đi! Cô hãy làm như thế này này! - Ông ta hướng dẫn tôi.

“Tôi làm theo sự chỉ bảo của ông ta. Đồng thời, bà Rucastle cũng kéo rèm cửa sổ xuống. Chuyện đó xảy ra cách đây một tuần. Từ lúc đó, tôi không còn phải ngồi cạnh cửa sổ, mặc bộ váy cũ màu xanh và cũng không còn nhìn thấy người đàn ông đứng bên đường nữa.”

- Cô cứ kể tiếp đi. - Holmes rất chăm chú - Câu chuyện của cô thú vị lắm, hứa hẹn nhiều điều hấp dẫn đây.

- Tôi e ông sẽ cho rằng chuyện của tôi quá vụn vặt, không có trật tự nào cả. Điều này chứng tỏ, các sự việc tôi kể chẳng có quan hệ gì với nhau cả. Ngay hôm đầu tôi sống ở “Những cây sồi đỏ”, ông Rucastle đưa tôi tới một căn phòng nhỏ cạnh nhà bếp. Khi bước vào đó, tôi nghe có tiếng xích sắt khua leng keng vào nhau và tiếng bước chân của một con vật to lớn.

- Hãy nhìn qua chỗ này! - Ông Rucastle chỉ vào một khe hở nhỏ giữa hai tấm ván gỗ - Nó chẳng phải là rất đáng sợ ư?

“Tôi nhìn qua cái khe, chỉ thấy hai con mắt sáng rực và một hình thù mờ ảo cuộn tròn trong bóng tối.

- Đừng sợ! - Ông Rucastle vừa cười vừa nói với tôi bằng giọng hàm ý đe dọa - Đó là con chó ngao Carlo của tôi. Chỉ có lão chăn ngựa Toller mới bảo được nó. Mỗi ngày tôi chỉ cho nó ăn một bữa thôi, mà sức nó ngốn khủng khiếp luôn, nên nó rất dữ tợn, suốt ngày sùng sục tìm mồi. Thật vô phúc cho ai buổi tối tự tiện xông vào nhà vì sẽ bị những cái răng sắc nhọn của nó xé tan xác. Lúc ấy, chỉ có Chúa mới cứu được thôi. Vì vậy, cô chớ bước ra khỏi cửa vào ban đêm với bất cứ lý do gì. Vì nếu làm thế nghĩa là cô không muốn sống nữa.

“Lời cảnh báo ấy không phải là không có căn cứ. Hai hôm sau, vào khoảng 2 giờ đêm, tôi đứng ở cửa sổ phòng ngủ nhìn ra ngoài. Trăng sáng vằng vặc, ánh bạc lung linh chiếu rọi xuống thảm cỏ trước nhà rõ như ban ngày. Tôi đứng đó đắm chìm vào cảnh tượng tuyệt đẹp, bỗng nhiên phát hiện thấy có vật gì đang thoắt ẩn thoắt hiện dưới bóng của những cây sồi đỏ. Khi nó hiện ra dưới ánh trăng, tôi đã có thể thấy rõ. Thì ra đó là một con chó to tựa con bê, lông màu vàng nâu, răng nanh rất dài với cái miệng đen ngòm ngoác ra, gầy giơ xương. Nó băng nhanh qua lối đi và mất hút vào bóng tối. Kẻ bảo vệ đáng sợ ấy làm tôi đứng tim. Tôi nghĩ, chẳng có tên trộm nào có thể làm cho tôi sợ như vậy cả!

“Bây giờ tôi muốn kể cho ông nghe một chuyện rất kỳ lạ. Ông cũng biết tôi đã cắt ngắn tóc ở London… Tôi mang theo đến đây và để túm tóc đó dưới đáy vali. Một buổi tối, sau khi cho thằng bé ngủ, tôi bắt đầu xem xét những đồ đạc trong phòng và sắp xếp những món đồ linh tinh cho khuây khỏa.

“Trong phòng có một cái tủ cũ, hai ngăn kéo trên rỗng không nhưng ngăn dưới lại khóa kín. Tôi đã nhét đầy quần áo của mình vào hai ngăn trên mà vẫn còn thừa ra rất nhiều. Vì không được sử dụng ngăn kéo dưới cùng nên tôi rất bực bội. Tôi nghĩ, có lẽ người ta đã vô tình khóa nó lại, nên lấy một xâu chìa khóa ra thử mở. Thật may, vừa dùng cái chìa đầu tiên, tôi đã mở được khóa. Trong ngăn kéo chỉ chứa một vật duy nhất. Nhưng tôi dám khẳng định, các ông sẽ không bao giờ đoán được đó là cái gì đâu. Đó chính là món tóc của tôi!

“Tôi cầm túm tóc lên quan sát thật kỹ. Cũng là cái màu đặc biệt ấy, độ dày ấy, y hệt như tóc tôi. Sao tóc của tôi lại ở trong cái ngăn kéo này được? Tay run run tôi mở vali, lấy tóc của mình từ trong đó ra xem. Đặt hai túm tóc cạnh nhau, tôi dám đảm bảo với ông rằng chúng giống hệt nhau. Điều này chẳng phải là rất kỳ lạ sao? Tôi suy nghĩ mãi mà vẫn không hiểu thế nào cả. Tôi đặt túm tóc kỳ lạ ấy vào trong ngăn kéo y như cũ, không hề hé miệng kể chuyện này với ai. Suy cho cùng, tôi đã sai khi mở cái ngăn kéo bị khóa.

“Thưa ông Holmes, ông cũng biết rằng tôi là một người rất thích quan sát... Không lâu sau, tôi đã có thể nhớ chính xác vị trí của từng phòng trong nhà. Một phòng hình như không có người ở. Phòng của Toller đối diện với lối đi, có một cánh cửa thông tới cái phòng khóa kín kia. Một bữa khi lên gác, tôi chạm mặt với ông Rucastle đang đi từ phòng đó ra, tay cầm chìa khóa. Mặt ông ta lúc ấy khác hoàn toàn với khuôn mặt tròn tròn, hài hước mà tôi bình thường quen nhìn. Do cáu giận, hai má ông ta đỏ tím, lông mày nhíu lại, gân xanh nổi rõ cả ở hai bên thái dương. Khóa cửa xong, ông ta vội vã đi qua mặt tôi, không nói một lời và cũng không cả thèm nhìn tôi nữa.

“Việc đó kích thích trí tò mò của tôi. Vì vậy, khi dẫn thằng bé đi dạo trong sân, tôi đã lượn một vòng để đến căn phòng đó, có thể nhìn thấy cửa sổ của nó. Căn phòng có bốn cái cửa sổ, ba cái phủ đầy bụi vô cùng bẩn thỉu, cái thứ tư thì có cửa kính đóng chặt. Rõ ràng là căn phòng bị bỏ hoang từ lâu. Đúng lúc tôi đang lang thang ở đó thì ông Rucastle đi về phía tôi, tỏ ra hài hước và vui vẻ như thường ngày.

- À! Nếu tôi đi qua mà không chào thì cô đừng cho là tôi bất lịch sự nhé! Lúc ấy, tôi bận giải quyết công việc mà. - Ông ta nói như thanh minh.

“Tôi bảo ông ấy yên tâm, tôi không hề nghĩ vậy. Rồi nhân tiện tôi hỏi luôn:

- Thưa ông, hình như ở phía trên có các phòng trống, một trong số có cửa kính đóng chặt?

“Ông ta tỏ ra ngạc nhiên, tôi cảm thấy như thế.

- Tôi vốn rất thích chụp ảnh, - Ông ta giải thích - và đã dùng những cái phòng làm buồng tối. Cô gái thân mến! Cô là một người rất có óc quan sát! Ai mà tin được. Ai có thể tin chứ? - Ông ta nói với giọng đùa cợt, nhưng mắt ông ta lại nhìn tôi chằm chằm không có ý đùa cợt chút nào.