Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 14 - Phần 3

Khi chúng tôi vòng ra sau khu quảng trường vắng vẻ, hiện lên trước mắt chúng tôi là một quang cảnh khác hẳn, giống như hai mặt đối lập của cùng một bức tranh vậy. Đó là một trục giao thông huyết mạch nối liền khu trung tâm với vùng miền Bắc và miền Tây. Đường phố tấp nập người buôn bán đang chen chúc nhau. Trong dòng người ấy, người thì đi xuôi, người thì đi ngược, vô cùng đông đúc. Vỉa hè cũng đông nghịt những người đi bộ. Khó mà hình dung được những dãy cửa hiệu và văn phòng hoa lệ mà chúng tôi đang nhìn thấy đây lại chính là mặt sau của quảng trường Coburg ảm đạm, nghèo nàn và cũ kỹ mà chúng tôi vừa mới đi qua.

Holmes dừng lại ở góc đường và đưa mắt nhìn dọc con phố:

- Để tôi ngắm kỹ một lát nhé, tôi muốn ghi nhớ vị trí của các tòa nhà ở đây. Tôi có thói quen rất thích tìm hiểu tường tận và nhớ chính xác về London. Ở đây có một hiệu thuốc lá Mortimer, bên này là một sạp báo nhỏ, bên kia nữa là chi nhánh Coburg của ngân hàng thành phố, rồi quán ăn chay, xưởng đóng xe ngựa. Sau đó, chúng ta sẽ đi sang nhà phía bên kia. Xong rồi Watson ạ! Chúng ta đã làm xong phần việc của mình, giờ thì hãy nghỉ ngơi một chút. Một chiếc bánh sandwich, một tách cà phê, rồi sau đó ta đến dự buổi hòa nhạc, ở đó chỉ có sự ngọt ngào, tinh tế và bình yên, rung động lòng người. Sẽ chẳng một vị khách tóc hung nào đến làm phiền chúng ta bằng những câu chuyện kỳ cục.

Bạn tôi đúng là một người say mê âm nhạc, vì anh vốn không chỉ là người chơi nhạc tài ba mà còn là một nhạc sĩ cừ khôi. Suốt buổi chiều hôm đó, anh ngồi trong phòng nghe nhạc, trông rất hạnh phúc. Anh khẽ đánh nhịp bằng những ngón tay dài khẳng khiu theo điệu nhạc. Gương mặt anh mỉm cười bình thản, nhưng đôi mắt lại mơ màng như đang đi vào giấc ngủ. Lúc này, trông anh hoàn toàn khác với dáng vẻ suy tư của nhà thám tử lừng danh Sherlock Holmes túc trí đa mưu, mẫn cảm kiên quyết mà ta thường thấy. Trong anh dường như có hai con người cùng tồn tại, nhưng sự tinh tế mẫn cảm và sắc sảo vẫn chiếm ưu thế. Chính tính cách như vậy khiến anh thoát khỏi sự suy nhược, lao vào công việc với lòng hăng say, hừng hực sức sống. Tôi biết rõ rằng lúc anh sắc sảo nhất, ghê gớm nhất là lúc anh ngồi mấy ngày liền trên chiếc ghế, miệt mài với những suy ngẫm của mình. Đôi khi tham vọng mãnh liệt đến nỗi khiến khả năng suy đoán của anh đạt tới cực điểm, thậm chí những người không hiểu anh có thể còn nghi ngờ không biết liệu anh có phải là siêu nhân hay không mà điều gì cũng biết. Buổi chiều hôm đó, khi nhìn anh chìm đắm trong âm nhạc, tôi biết rằng những kẻ tội phạm mà Holmes truy lùng đã đến lúc sa lưới.

Ra khỏi phòng hòa nhạc, Holmes hỏi tôi:

- Watson, chắc anh muốn về nhà ngay phải không?

- Đúng vậy, như thế sẽ tốt hơn.

- Tôi cũng có việc phải làm, mất khoảng một vài tiếng. Vụ việc xảy ra ở quảng trường Coburg này nghiêm trọng đấy.

- Sao lại nghiêm trọng?

- Sẽ có một vụ phạm tội lớn. Tôi có đủ lý do để tin rằng chúng ta còn kịp để ngăn chặn chúng. Nhưng hôm nay là thứ bảy nên sự việc sẽ càng trở nên phức tạp hơn. Vậy nên tối nay tôi cần sự giúp đỡ của anh.

- Vào lúc mấy giờ?

- Khoảng 10 giờ.

- Vậy 10 giờ tôi sẽ đến phố Baker.

- Thế thì tốt quá. Nhưng, Watson ạ! Đây là một vụ nguy hiểm nên anh hãy mang theo súng đi. - Holmes vẫy tay tạm biệt tôi rồi quay đi và lập tức mất hút trong đám đông.

Tôi dám chắc rằng mình không hề kém cạnh so với đám bạn của mình, nhưng khi cộng tác cùng Sherlock Holmes, tôi luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ là mình thật khờ khạo. Ví dụ như trong chuyện này chẳng hạn, tôi cũng nghe những gì anh ấy được nghe, thấy những gì anh ấy được thấy. Nhưng qua lời anh, tôi hiểu rằng anh không chỉ hiểu những chuyện đã xảy ra, mà còn tiên đoán được những gì sắp đến, trong khi đó đối với tôi, toàn bộ vụ này vẫn chỉ là một mớ bòng bong. Trên đường trở về nhà ở Kensington, tôi đã suy nghĩ về mọi thứ, từ câu chuyện chép lại cuốn Bách khoa toàn thư bất thường của vị khách tóc hung đến chuyến đi tới quảng trường Coburg và cả những dự báo không lành của Holmes lúc chia tay. Nửa đêm thì có chuyện gì xảy ra? Tại sao tôi lại phải mang vũ khí? Chúng tôi sẽ đi đâu và làm những gì? Tôi được Holmes ngầm chỉ cho biết anh chàng giúp việc tháo vát của ông Wison là một tay ghê gớm, có thể là tác giả của những trò chơi thâm hiểm. Mặc dù đã cố gắng móc nối những chuyện đó lại với nhau, nhưng tôi vẫn không thể tìm ra manh mối nào. Cuối cùng tôi đành gác mọi chuyện lại một bên, dù sao đến tối chân tướng sự việc cũng sẽ được làm sáng tỏ.

Tôi ra khỏi nhà lúc 9 giờ 15 phút, đi tắt qua công viên rồi bắt xe ngựa đến phố Baker. Khi đến nhà Holmes, tôi thấy trong nhà có tiếng nói chuyện từ trên gác vọng xuống. Vào phòng Holmes, tôi thấy anh đang chuyện trò sôi nổi với hai người khác. Tôi nhận ra một trong hai người đó là Peter Jones, một nhân viên của Sở Cảnh sát. Còn người kia thì cao gầy, đội chiếc mũ bóng lộn, mặc một chiếc áo choàng rất dày và nặng nề.

- À, vậy là mọi người đã đến đông đủ cả rồi. - Holmes vừa nói vừa cài khuy áo comlê, tiện thể với tay lấy chiếc gậy đi săn nặng trịch xuống, rồi hướng về phía hai người đàn ông và giới thiệu - Watson, tôi nghĩ anh đã biết ông Jones ở Sở Cảnh sát Scotland Yard. Tôi xin giới thiệu đây là ông Merryweather, cộng sự của chúng ta trong buổi tối mạo hiểm hôm nay.

Ông Jones từ tốn nói:

- Ông bác sĩ, tối nay chúng ta lại cùng nhau phá án rồi. Ông bạn đây của chúng ta là một chuyên gia trinh thám siêu đẳng. Ông ta chỉ cần một chú chó là đã có thể lần ra được bọn tội phạm.

Ông Merryweather khiêm tốn nói:

- Tôi hy vọng lần này chúng ta sẽ không làm hỏng việc.

Cảnh sát Jones cao giọng nói:

- Thưa ông, ông nên tin ở ông Holmes, ông ấy chắc chắn đã có phương pháp riêng rất hữu hiệu và thú vị. Thứ lỗi cho tôi nói thẳng, những biện pháp ấy hơi nặng về lý thuyết và quá táo bạo, nhưng quả thực ông ấy có tố chất của một nhà thám tử tài ba. Ví dụ, trong những vụ “Dải băng đốm” và vụ “Viên ngọc bích màu xanh da trời”, ông ấy còn phán đoán chính xác hơn cả cảnh sát chúng tôi. Những gì tôi nói hoàn toàn là sự thực.

Ông Merryweather cũng biểu lộ sự đồng ý:

- Ông Jones, ông đã nói vậy thì tôi cũng tạm yên tâm rồi. Nhưng tôi vẫn muốn nói là vì vụ này tôi đã để lỡ mất buổi đánh bài. Đây là lần đầu tiên trong vòng hai mươi bảy năm nay, tôi không đánh bài vào tối thứ bảy.

Sherlock Holmes khích lệ ông ta:

- Tôi dám chắc với ông rằng, món tiền ông đặt cọc hôm nay lớn hơn tất cả những cuộc chơi mà ông đã từng chơi, hơn nữa đây còn là cuộc chơi đầy thú vị. Ông Merryweather, món tiền đặt cược tối nay của ông sẽ là ba mươi nghìn bảng. Còn với ông, ông Jones, đó sẽ là gã tội phạm mà ông vẫn truy đuổi từ bao lâu nay.

- Vâng, đó là John Clay. Tuy còn trẻ nhưng hắn đã phạm tội giết người, trộm cắp, cướp của, lừa bịp và làm tiền giả. Tôi muốn bắt hắn hơn bất cứ tên tội phạm nào khác ở London, hắn là một kẻ sừng sỏ. Ông nội của hắn là một công tước, thuộc dòng dõi hoàng gia, còn hắn đã từng được học ở trường Eton và Oxford. Đầu óc hắn cũng khôn ngoan, tinh quái và quỷ quyệt như đôi bàn tay hắn vậy. Tuy chúng tôi đã phát hiện ra dấu tích của hắn ở khắp nơi, nhưng lại không sao bắt được. Tuần trước, có thể hắn vừa đào hầm ăn cướp ở Scotland, nhưng đến tuần sau hắn lại quyên góp tiền để xây dựng một nhà trẻ mồ côi ở nơi khác. Tôi đã bám theo hắn nhiều năm, nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy mặt hắn.

- Hy vọng rằng tối nay tôi sẽ có hân hạnh được giới thiệu hắn với ông. Tôi cũng đã một vài lần được đọ sức với hắn, và tôi hoàn toàn đồng ý với ông rằng hắn quả là tên cao thủ trong nghề. Thôi, đã hơn 10 giờ rồi, chúng ta xuất phát thôi. Nếu hai ông lên chiếc xe đầu, thì Watson và tôi sẽ lên chiếc xe thứ hai.

Trên suốt đoạn đường dài, Holmes nói rất ít, anh ngồi ngả lưng vào thành xe, ngâm nga điệu nhạc vừa nghe chiều nay. Xe chúng tôi lăn bánh trên những dãy phố dài bất tận mờ mờ ánh đèn, cho tới lúc dừng lại ở phố Farrington.

Bạn tôi nói:

- Chúng ta sắp tới nơi rồi. Ông Merryweather là chủ nhà băng nên ông ta đặc biệt quan tâm đến vụ này. Tôi muốn để Jones đi cùng, mặc dù về trí tuệ, ông ta chỉ là một tên ngốc, nhưng lại có ưu điểm phải thừa nhận là khi bắt cướp, ông ta vô cùng dũng mãnh và can đảm. Ta xuống đây thôi, họ đang chờ chúng ta kìa.

Chúng tôi đặt chân xuống chính đoạn đường đông đúc mà Holmes và tôi vừa tới ban sáng. Sau khi cho xe đi, theo chân ông Merryweather, chúng tôi băng qua một con hẻm nhỏ, rồi bước qua một cánh cửa mà ông ta mở cho chúng tôi. Bên trong là một hành lang nhỏ dẫn thẳng tới một cái cổng sắt đồ sộ. Ông Merryweather mở cổng, chúng tôi bước xuống những bậc thang xoắn bằng đá dẫn đến một cánh cửa sắt khổng lồ khác. Ông ta dừng lại để thắp đèn, sau đó dẫn chúng tôi xuống một lối đi tối tăm ẩm mốc, sặc mùi bùn đất. Rồi ông mở tiếp cánh cửa thứ ba, đưa chúng tôi tới một căn hầm lớn. Trong căn hầm này là hàng đống những chiếc thùng gỗ và những cái hòm lớn.

Holmes giơ cao ngon đen len đe quan sat. Anh nhan xet:

- Không dễ gì nếu đột nhập từ phía trên.

Ông Merryweather vừa gõ gõ đầu cây gậy xuống nền nhà vừa nói:

- Cũng không thể đột nhập từ phía dưới. - Rồi ông ta kinh ngạc thốt lên - Ôi! Lạy Chúa, sao nghe như có vẻ trống rỗng thế này.

Holmes nghiêm nghị nói:

- Tôi yêu cầu các ông yên lặng một chút. Nếu không chúng ta sẽ thất bại trong chuyến phiêu lưu này. Xin các ông hãy ngồi xuống mấy cái thùng kia và đừng gây ồn.

Ông Merryweather đành ngồi xuống ngay một cái thùng gỗ, vẻ mặt có vẻ tức tối. Holmes quỳ xuống sàn, dùng chiếc đèn xách tay và kính lúp để bắt đầu xem xét cẩn thận từng kẽ đá. Chỉ vài phút sau, anh đã hoàn thành cuộc kiểm tra của mình với vẻ mặt đầy thỏa mãn, rồi bật dậy cất chiếc kính lúp vào túi áo.

Anh thông báo ngắn gọn:

- Ít nhất chúng ta phải chờ một tiếng nữa, vì bọn chúng không thể hành động trước khi ông chủ hiệu cầm đồ tốt bụng ngủ say. Sau đó chúng sẽ tranh thủ từng giờ từng phút một, vì công việc kết thúc càng sớm thì chúng sẽ có nhiều thời gian để tẩu thoát. Anh Watson, chắc anh cũng đã đoán được là hiện chúng ta đang ở dưới tầng hầm của Chi nhánh trung tâm Ngân hàng London. Ông Merryweather chính là Chủ tịch Hội đồng quản trị. Ông ấy sẽ giải thích cho anh hiểu tại sao bọn tội phạm khét tiếng nhất London lại quan tâm nhiều đến căn hầm này đến thế.

Vị Chủ tịch Hội đồng quản trị ngân hàng nói thì thầm:

- Đó là vì số tiền vàng mới chuyển từ Pháp sang ngân hàng chúng tôi. Chúng tôi đã được cảnh báo rằng có thể sẽ có kẻ muốn cướp số vàng này.

- Đồng tiền vàng của Pháp?

- Vâng. Cách đây vài tháng, do muốn tăng nguồn vốn nên chúng tôi phải vay của ngân hàng Pháp một số tiền trị giá ba mươi nghìn đồng napoleon. Mọi người đều biết rằng chúng tôi chưa thể dùng số vàng ấy, nên những thùng vàng đó vẫn nằm nguyên trong căn hầm này. Cái thùng tôi đang ngồi trên đây chứa hai nghìn đồng napoleon, được bao bọc bằng những lớp chì mỏng. Số vàng chúng tôi hiện có lớn hơn rất nhiều số tiền của bất kỳ một ngân hàng nào khác, nên Hội đồng quản trị rất lo lắng về vấn đề này.

Holmes tán thành:

- Họ lo lắng là phải. Bây giờ chúng ta phải chuẩn bị tất cả những gì cần làm để hoàn tất kế hoạch. Tôi hy vọng sau một giờ nữa mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp. Còn tạm thời, ông Merryweather ạ, chúng ta phải tạm che kín ngọn đèn này đi.

- Vậy chúng ta ngồi đợi trong bóng tối sao?

- Tôi e là phải như vậy. Tôi có mang theo một bộ bài để bốn người cùng chơi. Nhưng tôi sợ rằng bọn cướp đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước, nên chúng ta không thể sơ suất để lộ ánh sáng ra ngoài. Trước tiên, ta cần phải chọn một vị trí thích hợp. Bọn cướp này rất táo tợn, chúng dám làm tất cả, không từ một thủ đoạn nào. Và dù có bị bất ngờ, chúng vẫn có thể gây ra những tác hại không thể lường trước được. Vì vậy cần hết sức cẩn thận, nếu không rất có thể ta sẽ phải chịu tổn thất nặng nề. Tôi sẽ đứng nép sau cái thùng này, còn các ông hãy nấp sau mấy cái kia. Khi nào tôi chiếu đèn vào bọn chúng, các ông hãy mau lẹ tóm lấy chúng, nếu chúng nổ súng thì các ông hãy lập tức bắn hạ.

Tôi đặt khẩu súng đã lên nòng xuống phía sau chiếc hòm tôi đứng nấp. Holmes nhanh chóng kéo tấm chắn sáng chụp lên trên chiếc đèn, căn hầm lập tức chìm trong bóng tối, tôi chưa bao giờ ở một nơi nào mà bóng tối dày đặc đến vậy. Mùi metan cháy giúp chúng tôi biết rằng ngọn lửa vẫn còn và khi cần, nó sẽ lập tức bùng sáng. Tôi chờ đợi trong yên lặng, thần kinh vô cùng căng thẳng. Căn hầm ẩm thấp, lạnh lẽo này khiến người ta có cảm giác bị ức chế ghê gớm và tôi thấy mình run lên trong sợ hãi.

Holmes khe khẽ dặn:

- Bọn chúng chỉ có một lối thoát, đó là rút lui về căn nhà ở quảng trường Coburg. Ông Jones, tôi hy vọng ông đã làm đúng theo những gì tôi dặn.

- Tôi đã phái một viên thanh tra và hai cảnh sát mai phục ở cửa trước của hiệu cầm đồ.

- Vậy là chúng ta đã chặn hết tất cả các lối ra vào. Bây giờ chỉ còn phải im lặng ngồi đợi.

Thời gian trôi đi thật chậm chạp. Sau này khi xem đồng hồ, tôi mới biết rằng chúng tôi đã đợi ở đó 1 tiếng 15 phút, nhưng với tôi giống như cả một đêm ròng rã đã trôi đi. Vì không dám nhúc nhích nên chân tay tôi mỏi nhừ và gần như tê cứng. Đầu óc căng thẳng tột độ, tai tôi căng ra nhưng chỉ nghe thấy tiếng thở khò khè nặng nhọc của ông Jones và hơi thở rất nhẹ của ông chủ tịch nhà băng. Từ vị trí này, tôi có thể quan sát mọi phía trên sàn. Bỗng nhiên, mắt tôi bắt gặp một tia sáng yếu ớt.

Lúc đầu, đó chỉ là một tia sáng xanh lét ẩn dưới lớp đá. Sau đó, tia sáng cứ to dần, to dần rồi dài ra thành một vệt vàng. Rồi bất chợt, lặng lẽ xuất hiện một vết nứt. Một bàn tay nhỏ nhắn hiện ra, trắng trẻo như tay phụ nữ, sờ soạng giữa quầng sáng nhỏ. Khoảng một phút sau, bàn tay mềm mại ấy nhô cao lên, rờ rẫm trên sàn. Trong tích tắc, nó biến mất đột ngột như lúc xuất hiện. Và mọi thứ lại chìm trong bóng tối, chỉ trừ khe sáng le lói dưới sàn.

Song bàn tay đó chỉ biến mất trong chốc lát. Bỗng từ khe hở đó phát ra một âm thanh chói tai và những viên đá trắng bị lật sang một bên, để lộ ra một lỗ hổng hình vuông, khiến một luồng sáng từ ngọn đèn lồng tràn vào căn hầm tối tăm. Qua lỗ hổng đó, một gương mặt thanh niên ló ra, gã nhanh chóng đưa mắt dò xét cẩn thận xung quanh. Sau đó gã vươn người lên, tì vào mép lỗ đu người lên trên. Ngay khi đứng được lên trên sàn nhà, gã liền đưa tay ra kéo tên đồng bọn lên theo. Cả hai tuy nhỏ nhắn nhưng đều rất nhanh nhẹn, mặt mũi tái xanh với mái tóc hung rực lửa bù xù.

Hắn thì thào:

- Không có ai, mọi việc đều ổn cả. Scott, mày có mang đục và bao đi không? Chết rồi! Không xong rồi! Archie, nhảy đi, nhảy đi, để tao lo.

Nhanh như cắt, Holmes lao ra, tóm chặt lấy cổ áo kẻ đột nhập. Gã kia vội tụt xuống cái lỗ hổng, tôi còn nghe thấy tiếng vải rách soàn soạt khi Jones túm lấy áo khoác của hắn. Ánh đèn rọi thẳng vào khẩu súng ngắn của tên trộm, nhưng chiếc gậy của Holmes đã giáng mạnh vào cổ tay hắn, khiến khẩu súng rơi xuống nền đá.

Holmes quát:

- Vô ích thôi, John Clay. Anh không thoát được lần này đâu.

Gã trộm đáp, giọng lạnh lùng ráo hoảnh:

- Tao cũng thấy thế, nhưng bạn tao đã thoát được, tuy các ngươi có tóm được vạt áo của cậu ta.

Holmes mỉm cười:

- Nhưng có ba ngươi đang đợi hắn ngoài cửa đấy!

- Hừ, các người chuẩn bị thật chu đáo. Khá khen đó !

Holmes bình tĩnh đáp:

- Anh cũng vậy. Ý tưởng về Hội tóc hung của anh quả là mới mẻ và rất có hiệu quả.

Jones nghiêm mặt cảnh cáo:

- Anh và đồng bọn của anh sẽ được gặp nhau ngay thôi. Mặc dù các anh nhanh hơn tôi, nhưng thoát sao được khi lối ra đã bị chặn. Mau chìa tay ra để còng lại.

Khi chiếc còng sắt khóa chắc cánh tay gầy gò của tên trộm, hắn phát khùng lên mắng:

- Đừng có động bàn tay bẩn thỉu của các ngươi vào người ta. Các ngươi có biết rằng trong ta có dòng máu hoàng gia không? Ta yêu cầu các ngươi phải cẩn thận khi nói chuyện với ta, phải nói “Thưa ngài”.

Jones trợn tròn mắt ngạc nhiên, rồi cười phá lên:

- Vâng, thưa ngài, xin ngài bước lên cầu thang. Lên trên kia, chúng tôi sẽ đánh xe ngựa đưa ngài về đồn cảnh sát, như vậy được chứ?

John Clay bình thản nói:

- Thế thì tốt hơn đấy!

Rồi hắn cúi chào chúng tôi, lặng lẽ đi sau viên thám tử.

Merryweather nói lời cảm ơn chúng tôi sau khi lên khỏi căn hầm:

- Ông Holmes! Tôi thật không biết phải cảm ơn và đền đáp các ông như thế nào. Thật tài tình, các ông đã phá vụ án này một cách ngoạn mục. Chưa bao giờ tôi được chứng kiến một vụ cướp nhà băng nào công phu đến như thế.

Holmes khiêm tốn trả lời:

- Tôi có một vài món nợ phải tính sổ với John Clay. Vì vụ án này mà tôi cũng đã tiêu tốn một khoản tiền, và mong nhà băng sẽ chi trả cho tôi những khoản này. Nhưng ngoài những điều đó ra, điều lớn nhất mà tôi thu được là một kinh nghiệm vô cùng quý báu từ vụ án Hội tóc hung kỳ lạ này.

Sáng sớm, khi chúng tôi ngồi nhâm nhi ly rượu whisky tại phố Baker, Holmes giải thích cho tôi nghe về vụ này:

- Watson, anh thấy không? Ngay từ đầu, mục đích duy nhất của mẩu quảng cáo và việc chép cuốn Bách khoa toàn thư là để lôi ông chủ hiệu cầm đồ hiền lành đó ra khỏi nhà mình vài giờ mỗi ngày. Cách này có vẻ kỳ quặc, nhưng quả tình không còn cách nào tốt hơn thế. Chỉ có cái đầu khôn ngoan của Clay mới nghĩ ra được. Hắn đã khôn khéo sử dụng màu tóc hung đỏ rực của tên đồng bọn để thực hiện kế sách này. Bốn bảng mỗi tuần là một miếng mồi nhử hết sức cám dỗ đối với ông chủ hiệu cầm đồ, nhưng nó có đáng là bao so với hàng nghìn bảng mà có thể chúng sẽ lấy được. Chúng cho đăng quảng cáo, rồi một gã lừa đảo đã thuê tạm một văn phòng, còn gã khác khuyến khích ông Wilson thi tuyển. Và thế là chúng có thể khiến ông ta vắng mặt vài giờ mỗi ngày. Chỉ cần nghe gã giúp việc chịu làm với chỉ một nửa số tiền lương, tôi hiểu ngay rằng hắn đang theo đuổi một mục đích đặc biệt nào đó.

- Nhưng lam sao anh đoan đươc muc đích cuả bon chung?

- Nếu như ở cửa hàng đó có phụ nữ thì tôi còn nghĩ đến một giả thuyết trần tục hơn. Tuy nhiên mọi chuyện không phải như vậy. Công việc làm ăn của ông Wilson chẳng được lời lãi gì nhiều, nhà ông ta cũng chẳng có gì đáng giá để chúng phải trù tính kỹ lưỡng đến thế. Vì thế, rõ ràng mục đích của chúng không phải cái cửa hàng nhỏ bé đó. Nhưng rốt cục chúng muốn gì? Tôi nghĩ đến sở thích chụp ảnh của gã giúp việc và thói quen chui xuống căn hầm của hắn. Tầng hầm! Đầu mối giải quyết câu chuyện chính là đây. Sau đó, tôi liền điều tra về lai lịch của gã giúp việc bí ẩn đó. Tôi phát hiện ra rằng, đối thủ của tôi là một trong những tên tội phạm nhẫn tâm nhất, táo tợn nhất thành London. Hắn đang làm gì đó ở dưới tầng hầm, một công việc phải mất nhiều giờ mỗi ngày và diễn ra trong hàng tháng trời mới xong. Câu hỏi được đặt ra là, hắn làm việc gì vậy? Tôi nghĩ đó chỉ có thể là việc đào một đường hầm để đột nhập vào tòa nhà nào đó.

“Khi chúng ta đến kiểm tra hiện trường, tôi đã hiểu ra tất cả. Tôi đã làm anh ngạc nhiên khi gõ gõ cái gậy xuống vỉa hè, vì muốn biết đường hầm đó dẫn đến đâu, phía trước hay phía sau. Và quả thực, nó không đi lên phía trước. Thế là tôi nhấn chuông gọi cửa. Đúng như tôi hy vọng, gã giúp việc ra mở cửa. Trước kia tôi đã từng nghe qua về hắn, nhưng chưa gặp hắn bao giờ. Tôi không quan tâm tới gương mặt hắn mà chỉ chú ý quan sát hai đầu gối hắn. Chắc anh cũng nhận thấy rằng, cả hai đầu gối quần của hắn đều đã bạc màu, sờn rách. Đặc biệt là nó nhăn nhúm và nhem nhuốc. Điều đó cho thấy rằng hắn đang đào bới một cái gì đó trong nhiều giờ. Nhưng bí ẩn duy nhất chưa thể lý giải được là tại sao hắn lại đào đường hầm. Đi vòng quanh khu trung tâm, tôi thấy thì ra nhà băng nằm quay lưng lại với cửa hàng cầm đồ của ông Wilson. Tôi biết rằng mình đã giải quyết được vấn đề. Khi anh ra về sau buổi hòa nhạc, tôi ghé qua Scotland Yard để gặp ông giám đốc nhà băng và rồi kết quả như thế nào thì như anh đã thấy đấy.” Tôi hỏi có phần hơi ngớ ngẩn:

- Nhưng tại sao anh lại đoán được chúng sẽ gây án vào tối hôm nay?

- Ồ, khi chúng đóng cửa văn phòng Hội tóc hung thì cũng chính là lúc chúng không còn lo nghĩ đến chuyện ông Wilson đi vắng hay ở nhà nữa. Nói cách khác là chúng đã đào xong đường hầm. Nhưng chúng phải nhanh chóng ra tay vì sợ bị phát hiện, và nhà băng sẽ chuyển số vàng kia đi nơi khác. Như vậy thì thứ bảy là một dịp thuận lợi để hành động, chúng sẽ có tới hai ngày để tẩu thoát. Dựa trên những lý do đó, tôi đoán chúng nhất định sẽ hành động vào đêm nay.

Tôi không giấu nổi sự thán phục, kêu lên:

- Cách suy luận của anh thật tài tình! Hàng chuỗi những sự kiện xảy ra đều cho thấy phán đoán của anh là hoàn toàn chính xác.

- Nó chỉ khiến tôi tránh được sự vô vị, nhàn rỗi mà thôi. - Anh ngáp dài một cái rồi nói tiếp - Tôi sợ nhất là cuộc sống của mình trở nên tầm thường, vô vị. Những vụ án như thế này đã giúp tôi rất nhiều.

Tôi khen ngợi rất thật lòng:

- Anh là ân nhân của rất nhiều người đấy.

Anh nhún vai, nói:

- Ồ, cuối cùng thì tôi cũng làm được một việc gì đó. Vì như ai đó đã nói: “Con người vô cùng nhỏ bé”.