Những vụ kỳ án của Sherlock Holmes - Chương 17 - Phần 1

Chương 17. Sát thủ “Bờm sư tử”

Có một vụ án kỳ lạ, khó giải quyết, nên sau khi tôi nghỉ làm rồi mà họ vẫn tìm đến chỗ tôi. Sự việc xảy ra sau khi tôi đã về ở ẩn tại một biệt thự nhỏ tại Sussex. Lúc ấy, tôi chỉ tập trung vào cuộc sống điền viên thanh thản của mình, đó chính là cuộc sống mà tôi khao khát ngay khi còn ở London. Từ khi tơi nghỉ làm đến nay, Watson hầu như biến mất khỏi cuộc sống của tôi. Chỉ thỉnh thoảng lắm, anh ấy có đến nghỉ cuối tuần, quan hệ của chúng tôi bây giờ cũng chỉ đến mức ấy. Do vậy, tôi phải tự ghi chép lại vụ án.

Biệt thự của tôi nằm ở phía nam dãy núi Downs, mặt quay ra biển. Ở góc này, bờ biển toàn vách núi đá vôi trắng, muốn xuống biển chỉ có duy nhất một con đường khúc khuỷu, dài, trơn và rất dốc. Ở đầu kia con đường, dù là khi thủy triều lên, bãi biển cũng toàn đá, sỏi, kéo dài hàng trăm mét. Nhưng chỗ nào cũng có các vòng cong gấp tạo các hõm, hình thành một bãi tắm rất lý tưởng. Mỗi khi triều lên, những bãi tắm đó lại đầy nước. Trên suốt bãi biển kéo dài sang hai bên chừng vài dặm, chỉ có một vịnh nhỏ cắt ngang.

Biệt thự của tôi đứng đó, lẻ loi. Tôi, người quản gia và đàn ong của tôi, đó là toàn bộ thành viên ở đây. Ngoài nửa dặm, có một trường học tư thục nổi tiếng của Harold Stackhurst. Đó là một ngôi trường lớn, dành cho những thanh niên tới học các nghề khác nhau, dưới sự dẫn dắt của những giáo viên giàu kinh nghiệm. Từ khi tôi tới sống ở đây, ông chủ ngôi trường và tôi có quan hệ rất tốt. Và đó cũng là người bạn duy nhất mà không cần phải mời, cứ tối tối lúc nào đến chơi cũng được.

Khoảng cuối tháng 7 năm 1907, một trận bão lớn càn quét qua eo biển, nước biển dâng lên tận chân vách đá, sau khi rút đi còn để lại một hồ nước mặn lớn. Sáng sớm, gió thổi nhè nhẹ, bãi biển được thau rửa trông rất sạch sẽ. Tôi men theo con đường nhỏ đi dạo ra tận mép biển. Nghe đằng sau có tiếng gọi, hóa ra là Harold đang vẫy tay gọi tôi.

- Một buổi sáng tuyệt vời, thưa ngài Sherlock Holmes!

- Ông đi bơi phải không?

- Ngài lại suy đoán rồi. - Ông ta cười, chỉ tay vào cái túi căng phồng - Đúng vậy, anh McPherson sáng sớm đã đi rồi, có thể tôi sẽ gặp anh ta tại đó.

Fitzroy McPherson, giáo viên dạy các môn tự nhiên trong trường, là một thanh niên khỏe đẹp, nhưng sau khi mắc chứng phong thấp chuyển thành bệnh tim, anh ta gầy đi nhiều. Nhưng dù thế nào thì anh ta vẫn là một vận động viên bẩm sinh, rất xuất sắc trong các môn không đòi hỏi vận động quá căng thẳng. Đông hay hè, anh ta vẫn kiên trì đi bơi, do tôi cũng thích bơi nên thường gặp anh ta.

Đúng lúc ấy, chúng tôi nhìn thấy anh ta. Đầu anh ta lộ ra ở mãi tít cuối con đường nhỏ. Rồi cả người anh ta hiện ra trên vách đá, lắc la lắc lư như say rượu. Đột nhiên anh ta giơ hai tay lên đầu, hét lên một tiếng thất thanh rồi ngã vật ra đằng trước. Hai chúng tôi hối hả chạy tới, đỡ anh ta dậy. Không xong rồi, đôi mắt đờ đẫn thất thần và hai gò má tái nhợt là điềm báo của cái chết đang đến gần. Anh ta mấp máy môi nói ra vài lời như muốn cảnh báo chúng tôi, nhưng tiếng đã không còn rõ nữa. Tuy nhiên qua cử động của môi, tôi ghép lại được chữ “Bờm sư tử”. Nói xong hai câu đó, tay anh ta duỗi thẳng, người vật sang một bên và trút hơi thở cuối cùng! Anh ta chỉ mặc quần, khoác chiếc áo mưa, đi đôi giày vải chưa kịp buộc dây. Khi ngã xuống, chiếc áo mưa mà anh ta khoác rơi ra, để lộ ra cả thân hình.

Chúng tôi rất ngạc nhiên: Lưng anh ta có rất nhiều vết hằn màu tím thẫm, cứ như bị ai đó dùng roi mảnh quất rất mạnh liên hồi vậy. Chiếc roi gây ra vết thương này hẳn phải rất đàn hồi, vì quanh phần vai và lườn anh ta đều đầy những vết sưng do chiếc roi dài. Khuôn mặt co giật đến biến dạng chứng tỏ anh ta đau đớn khủng khiếp. Bỗng có một bóng đen tiến đến, hóa ra là ông Ian Murdoch đã tới bên chúng tôi. Ông ta là giáo viên toán, người cao gầy, da ngăm đen, do trầm tính ít nói, cô độc, nên ít bạn bè. Hình như ông ta đang sống với thế giới của những con số, những đường tròn trừu tượng cao siêu của mình, chả liên quan gì đến cuộc sống bình thường cả. Ông ta bị học sinh coi là… quái vật. Điều đó không chỉ biểu hiện ở đôi mắt đen, màu da đen, mà thỉnh thoảng còn biểu hiện ngay cả ra ở tính khí lúc ông ta giận dữ nữa; có thể phải dùng hai chữ “điên cuồng” mới hình dung ra được. Có lần, ông ta bị con chó nhỏ của McPherson quấy nhiễu, ông ta đã tóm lấy đầu nó, quẳng ra ngoài cửa sổ. Nếu không vì ông ta là một giáo viên giỏi thì chắc đã sớm bị đuổi rồi. Con người phức tạp và kỳ quái ấy đến bên cạnh chúng tôi.

- Ôi Chúa ơi! Chúa ơi! Tôi biết làm gì đây? Tôi giúp gì được chăng? - Ông ta bị sốc thực sự.

- Vừa rồi ông có ở chỗ anh ta không? Ông có thể nói cho chúng tôi biết chuyện gì xảy ra chứ?

- Không. Tôi không biết gì cả. Tôi phải làm gì bây giờ?

- Ông hãy đến ngay đồn cảnh sát địa phương trình báo đi!

Ông ta không nói gì, quay đầu đi như chạy. Tôi chủ động nhận làm vụ án này, còn Harold ở lại với người chết. Theo bản năng, việc đầu tiên là tôi ghi lại có những ai đang ở bờ biển. Từ cuối con đường nhỏ, tôi có thể bao quát cả dải bờ biển, chẳng thấy một ai; chỉ ở tít xa, có hai, ba bóng người đang đi về phía làng Fulworth. Tôi bước xuống con đường nhỏ thì thấy bước chân đi lên và đi xuống của cùng một người. Nhưng, sáng nay có thấy ai đi dọc theo con đường này ra biển đâu? Có chỗ tôi còn thấy dấu bàn tay mở rộng, ngón chĩa lên in lại trên vách đá. Điều này có thể cho thấy, anh chàng đáng thương kia đã từng ngã ở đây. Đoạn cuối con đường nhỏ là hồ nước mặn do thủy triều rút đi để lại. Cạnh đấy, McPherson đã từng thay quần áo, vì còn một chiếc khăn lông của anh ta sót lại trên tảng đá. Chiếc khăn gấp gọn gàng và còn khô; xem ra anh ta còn chưa xuống nước. Khi tôi tìm kiếm giữa những hòn đá trơ cứng đó, một đôi lần tôi phát hiện thấy cả vết giày vải lẫn vết chân trần của anh ta, chứng tỏ anh đang chuẩn bị xuống tắm.

Vụ này rõ ràng cần được làm sáng tỏ. Có thể nói, đó là một trong những vụ kỳ dị nhất mà tôi gặp trong đời. Đương sự chỉ vừa tới bờ biển trong mười lăm phút. Harold đã theo anh ta từ trường học, điều này không cần nghi ngờ gì cả. Anh ta đi tắm, quần áo đã cởi ra rồi. Sau đó anh ta lại vội vã mặc vào, quần còn xộc xệch, cúc chưa cài, có thể anh chưa xuống nước, hoặc ít nhất là chưa kịp lau khô người đã quay về ngay. Nguyên nhân khiến anh ta đổi ý là do anh bị đánh bằng roi rất tàn tệ, đau đớn đến mức phải mím chặt môi lại, còn chút sức lực cố bò ra khỏi nơi đó rồi chết. Kẻ nào làm cái việc độc ác như vậy? Dưới chân vách đá còn có một số hang động nhỏ, nhưng bị ánh mặt trời chiếu vào nên không có chỗ ẩn nấp. Phía xa còn mấy bóng người nữa, nhưng họ ở rất xa, chắc không liên quan gì tới vụ án được. Trên biển cũng có vài chiếc thuyền, song cách khá xa; nếu có thời gian có thể hỏi han những người trên thuyền. Trước mắt đã thấy mấy manh mối để điều tra, nhưng quả thực là chẳng có gì rõ ràng cả.

Khi tôi quay trở lại bên người chết thì thấy mấy người đứng ngó xem. Đương nhiên Harold vẫn ở đó. Murdoch đã mời cảnh sát Anderson đến. Anh ta có dáng cao to, chậm chạp, nhưng khỏe mạnh, mang đậm dòng máu Sussex. Anh ta im lặng lắng nghe, rồi ghi lại những ý chính mà chúng tôi nói. Cuối cùng, anh ta kéo riêng tôi ra một chỗ, thì thầm:

- Thưa ngài Sherlock Holmes, tôi xin ngài chỉ giáo cho. Với tôi, đây là một vụ án lớn, nếu mắc để sai sót, cấp trên sẽ khiển trách tôi.

Tôi nói hãy mời cấp trên của anh ta tới, ngoài ra cần mời một bác sĩ, trước khi họ đến không được di chuyển bất cứ thứ gì ở hiện trường. Trong khi chờ đợi, tôi kiểm tra túi áo của người chết. Trong đó có một chiếc khăn tay, một cái kẹp đựng danh thiếp kiểu gấp lại, lộ ra một góc tờ giấy. Tôi lấy tờ giấy, giao cho cảnh sát. Nét chữ trên đó là của một phụ nữ, viết nguệch ngoạc: “Em nhất định sẽ đến! Mong anh yên tâm. Maudie”.

Xem ra có vẻ đây là cuộc hò hẹn của đôi tình nhân. Nhưng, thời gian và địa điểm lại không cụ thể. Viên cảnh sát để tờ giấy vào lại chỗ cũ và cho cả các thứ khác vào trong túi áo choàng. Vì không có tiến triển gì thêm, tôi đề nghị họ kiểm tra kỹ dưới chân vách đá, rồi quay về nhà ăn sáng.

Hai giờ sau, Harold đến nói với tôi, thi thể đã được chuyển về Gables để khám nghiệm. Ông ta còn mang tới một số tin tức rất quan trọng và chính xác đúng như dự đoán của tôi. Còn dưới chân vách đá, không phát hiện được thêm gì cả. Nhưng khi họ kiểm tra bàn làm việc của McPherson thì đã phát hiện ra vài bức thư có quan hệ rất mật thiết. Người gửi thư chính là tiểu thư Maud Bellamy ở làng Fulworth. Ông ấy giải thích:

- Thư đã được cảnh sát mang đi. Nhưng tôi không biết nó có liên quan gì đến tai họa kia không, trừ chuyện cô gái đó có hẹn gặp anh ta.

- Nhưng, chắc không thể là ở chỗ mà mọi người thường đến bơi chứ?

- Hôm nay, ngẫu nhiên mấy học sinh lại không đi bơi cùng anh ta. Murdoch giữ họ lại. - Harold chau mày - Ông ta kiên trì theo đuổi việc giảng giờ đại số trước buổi ăn sáng.

Ông ta có vẻ rất đau buồn vì chuyện xảy ra hôm nay. - Nhưng tôi nghe nói họ không hợp nhau.

- Có một dạo thế thật. Nhưng một năm nay, có thể nói hai người lại rất gần gũi nhau. Tính cách của họ thì quả không hợp nhau lắm.

- Hóa ra là vậy. Tôi nhớ mang máng hình như ông đã nói với tôi, có lần do việc xử tệ với con chó mà họ đã cãi nhau.

- Việc đó lâu rồi.

- Nhưng có thể để lại chút oán hận nào đó?

- Không thể! Tôi tin họ là bạn bè thật sự.

- Vậy được rồi. Chúng ta phải cùng đi điều tra tình hình của cô gái. Ông có quen cô ta không?

- Cô ấy là cô gái đẹp, hoa khôi thực sự ở đây; đi tới đâu cô ấy cũng thu hút sự chú ý của mọi người. Tôi biết McPherson đang theo đuổi cô ấy, nhưng không ngờ đã phát triển tới mức như trong thư.

- Cô ấy là người thế nào?

- Cô ấy là con gái của Tom Bellamy. Ông ta sở hữu toàn bộ các xe tắm và tàu thuyền của Fulworth. Trước kia ông ấy chỉ là người đánh cá, nhưng giờ thì đã khác. Ông ấy và con trai William cùng kinh doanh, buôn bán.

- Chúng ta có cần đến thăm họ một chút không?

- Lấy cớ gì được nhỉ?

- Cớ thì dễ tìm ra thôi. Người chết chẳng phải bị đối xử tàn bạo đến tận lúc chết đó ư? Nhất định là có kẻ dùng roi, nếu quả thực những vết thương trên người anh ta là do bị roi đánh. Ở nơi hẻo lánh này, số người anh ta giao du có hạn. Lần theo con đường này, chúng ta có thể phát hiện ra một động cơ nào đó, từ động cơ, chắc chắn có thể tìm ra được hung thủ.

Ngôi làng cổ này nằm trên một vùng đất hình bán nguyệt, quanh bờ vịnh. Phía sau làng, có mấy công trình kiến trúc hiện đại mọc lên, dựa vào sườn đồi. Harold dẫn tôi vào một ngôi nhà như vậy.

- Đây chính là biệt thự Haven mà Bellamy gọi là “Sơn trang cảng biển”, một ngôi biệt thự bằng đá xanh và có ngọn tháp bên góc. Với một người từ tay trắng đi lên thì quả là không tệ chút nào. - Ông ta bình luận.

Cửa vườn đang mở, một người từ trong đi ra. Dáng người cao gầy, hơi còng, không phải ai khác mà chính là thầy giáo dạy toán Murdoch. Một lúc sau, chúng tôi gặp nhau ở giữa đường.

- Xin chào! - Harold gọi ông ta. Ông ta cũng gật đầu, liếc nhìn chúng tôi rồi bước nhanh đi. Nhưng ông hiệu trưởng kéo tay ông ta lại hỏi giọng gay gắt:

- Ông lên đó làm gì vậy?

- Thưa ông, trong trường, tôi là cấp dưới của ông, nhưng tôi không hiểu tôi có nghĩa vụ gì mà phải báo cáo mọi việc làm của cá nhân tôi cho ông biết. - Ông ta mặt đỏ lự, nổi cáu cự lại.

- Ông nói vậy là hơi quá đấy.

- Câu hỏi của chính ông cũng không lịch sự chút nào cả !

- Ông luôn có biểu hiện phóng túng vô lễ như vậy, tôi không thể chịu đựng được nữa. Mời ông nhanh chóng đi tìm nơi khác! - Ông hiệu trưởng sôi tiết nói to.

- Tôi cũng định thế từ lâu. Hôm nay, tôi đã mất đi người duy nhất khiến tôi còn muốn ở lại trường của ông.

Nói xong, ông ta sải chân bước nhanh. Ông hiệu trưởng tức giận nhìn theo hét lên:

- Ngai đa thay hang ngươi cha ra gì the naỳ bao giơ chưa?

Lúc ấy, trong óc tôi đã bắt đầu nảy sinh mối hoài nghi mơ hồ, hình như Murdoch đã vớ được cơ hội đầu tiên để mở ra một lối thoát tội. Có thể chuyến viếng thăm nhà ông Bellamy sẽ làm cho vấn đề sáng tỏ ra thêm. Ông hiệu trưởng cố kìm nén, hai chúng tôi cùng bước vào nhà ông Bellamy.

Bellamy là người đàn ông trung niên, có bộ râu hung hung đỏ, ông ta hình như cũng đang nổi cơn tam bành:

- Thưa ngài, không, tôi không muốn biết các chi tiết. - Ông ta chỉ vào một anh chàng khỏe mạnh nhưng nét mặt sa sầm, đang ngồi ở góc nhà - Con tôi và tôi đều cho rằng McPherson theo đuổi Maudie là một sự nhục nhã. Anh ta chưa bao giờ nhắc tới chuyện kết hôn, nhưng thư từ và hẹn hò thì nhiều lắm. Còn có nhiều việc mà chúng tôi đều không tán thành. Con gái tôi mất mẹ, chúng tôi là người bảo vệ nó, chúng tôi quyết…

Cô gái bước vào, ông ta không nói gì nữa. Phải thừa nhận rằng, cô ấy đi đến đâu là mang lại sự rạng rỡ đến đó. Ai có thể tưởng tượng được, một bông hoa kiều diễm như vậy lại sinh ra trong một gia đình và trong hoàn cảnh như thế này. Tôi tin, bất kỳ chàng trai nào cũng có thể bị cô gái này chinh phục. Cô gái đẩy cửa bước vào, mở to đôi mắt sâu thẳm đầy căng thẳng đứng ngay trước mặt ông hiệu trưởng.

- Tôi đã biết tin anh McPherson chết rồi. - Cô gái nói - Xin chớ lo lắng, hãy kể tỉ mỉ cho tôi nghe với!

- Không cần phải lôi em gái tôi vào chuyện đó. - Chàng trai đang ngồi ở góc nhà gầm lên.

Cô em trừng mắt nhìn anh, đe:

- Đó là việc của em, William ạ! Xin anh để em xử lý theo cách của em. Nếu em có thể giúp tìm ra tội phạm, thì cũng là chút thành ý nhỏ nhoi đối với người đã khuất.

Cô nghe hai chúng tôi kể vắn tắt lại tình hình. Sự trầm tĩnh và chăm chú cao độ của cô khiến tôi cảm thấy cô không chỉ xinh đẹp mà tính cách còn rất cứng rắn nữa. Xem ra, cô đã biết tiếng tôi từ trước, bởi cuối cùng cô nói:

- Thưa ngài Sherlock Holmes, mong ngài tìm ra hung thủ để trừng trị theo pháp luật! Dù chúng là ai, ngài cũng luôn nhận được sự hợp tác của tôi. - Cô vừa nói vừa nhìn cha và anh trai, vẻ thách thức.

Tôi đáp:

- Cám ơn cô! Tôi rất coi trọng trực giác của phụ nữ đối với những việc như thế này. Cô vừa nói “chúng”, như vậy là cô khẳng định, không chỉ có một người liên quan đến vụ này phải không?

- Vì tôi rất hiểu anh McPherson. Anh ấy là người dũng cảm và mạnh mẽ, nếu chỉ có một người thì không thể đối phó với anh ấy được!

- Tôi vốn định nói chuyện riêng với cô, nhưng xem ra cha cô chắc không cho phép. - Rồi tôi nói tới mảnh giấy hẹn trong túi của anh ta: - Về mảnh giấy ấy, cô có thể giải thích một chút không?

- Điều ấy chẳng có gì bí mật cả. - Cô đáp - Chúng tôi hẹn nhau để đính hôn. Sở dĩ chúng tôi không tuyên bố chỉ là do ông chú già đã dọa hủy bỏ quyền thừa kế của anh ấy nếu anh ấy không kết hôn theo như nguyện vọng của ông ta.

- Lẽ ra con phải nói sớm cho chúng ta biết chứ! - Ông Bellamy gào lên.

- Cha à, nếu cha đồng ý thì con đã sớm nói cho cha biết rồi!

- Ta không tán thành con gái giao du với kẻ có địa vị xã hội không tương xứng.

- Chính vì cái nhìn phiến diện của cha, nên chúng con không thể nói cho cha biết. Còn về lần hẹn hò ấy, - Cô lấy trong túi áo ra một mảnh giấy nhàu nát - đây là thư trả lời anh ấy viết:

“Em thân yêu!

Như thường lệ, khi mặt trời lặn, em hãy gặp anh ở chỗ cũ bên bờ biển! Đó là quãng thời gian duy nhất anh có thể đi được.

F.M”

- Hôm nay là thứ ba. Tôi định tối nay sẽ gặp anh ấy.

- Thư không gửi qua bưu điện, vậy cô làm sao nhận được nó?

- Xin ngài cho phép tôi không phải trả lời câu hỏi này, vì thực ra nó chẳng có liên quan đến việc điều tra của ngài. Tôi đảm bảo, mọi việc có liên quan, tôi đều sẽ trả lời đầy đủ.

Cô ấy làm thế thật, nhưng chả có gì hữu ích thêm nữa. Cô ấy không cho rằng vị hôn phu của cô có kẻ thù ngầm, nhưng lại thừa nhận, chính cô có vài người theo đuổi rất cuồng nhiệt.

- Xin được hỏi cô, ông Murdoch là một người trong số họ phải không?

Cô đỏ mặt và tỏ ra hốt hoảng:

- Đã từng có thời gian tôi cho rằng đúng là như vậy. Nhưng sau khi biết quan hệ giữa McPherson và tôi thì tình hình thay đổi rồi.

Nỗi nghi ngờ về con người cổ quái kia càng được khẳng định thêm. Nhất thiết phải điều tra ông ta, phải kiểm tra phòng riêng của ông ta mới được. Ông hiệu trưởng cũng tỏ ý muốn giúp tôi, vì bản thân ông cũng rất nghi ngờ. Rồi chúng tôi rời biệt thự Haven với hy vọng đã nắm được một đầu của đoạn chỉ rối đó.