Bố già trở lại - Phần IV - Chương 16 - Phần 2

Khi xong việc, nàng quay người và thấy Al Neri, ngồi trong một ghế da nơi phòng khách, vừa hút thuốc vừa nhai một ổ bánh mì ngọt. Nàng lắc đầu và anh ta gât đầu.

Nàng bảo người quản lí là mình đã nhầm. Nàng cần hai phòng. Không sát liền nhau thì hay hơn. Anh ta thở ra và biểu lộ cử chỉ bực tức nhưng vẫn quay số điện thoại và rồi cũng đổi được phòng.

Kay lấy một li cà phê espresso từ quầy bar của khách sạn. Khách sạn có một sân lợp kính dùng làm nơi uống cà phê, giải khát, và trên đường đi kiếm bàn ngồi, một anh chàng khoảng cỡ tuổi nàng huýt sáo, mắt bị hút theo hướng đi của nàng, chăm chú nhìn đến suýt... rớt dải! Một cu cậu trẻ hơn kế bên chàng ta nhướng một bên lông mày và trêu ghẹo: “Người đâu mà xinh thế!” Nàng cố làm mặt nghiêm, không phản ứng gì, nhưng nàng là một sinh thể giống cái hạnh phúc và quả thực là những hành vi tưởng chừng như có phần khiếm nhã của những sinh thể đực rựa kia lại càng làm cho nàng hạnh phúc hơn! Nàng mới ba mươi hai mà, vẫn còn phơi phới nửa chừng xoan! Ờ, thì bọn họ là đàn ông Ý, nhưng vẫn thật dễ chịu khi nghĩ về mình như một phụ nữ có khả năng “huy động vốn” những lời tán tụng lốp bốp, rốp rẻng từ những người lạ. Xin phép được hỏi: “Có chị nào mà không khoái chí khi ‘chẳng may’ rơi vào tình huống đó?”

Nàng chiếm một chỗ ngồi cho riêng mình, tắm trong ánh sáng màu vàng hồng rất đặc trưng đó của Rome.

Nhớ lại ngày nào Michael ngỏ lời cầu hôn nàng, anh cũng đồng thời cảnh báo Kay rằng họ sẽ không thể là những đối tác đồng đẳng. Kay đã phản đối; rõ ràng bố Michael tin cậy ở mẹ chàng, đúng không nào? Đúng, Michael đã nói, nhưng lòng trung thành thủy chung của mẹ chàng vẫn luôn luôn dành cho bố chàng, trong suốt bốn mươi năm, trước sau như một. Nếu mọi sự cũng diễn biến tốt như thế đối với họ, Michael đã nói, có lẽ một ngày nào đó chàng sẽ kể cho nàng nghe một vài những điều mà có lẽ nàng không thực sự muốn nghe. Hóa ra là cái ngày nào đó lại là ngày hôm qua.

Lẽ ra Kay phải giận dữ, sợ hãi hay ít nhất là thả neo cho cảm xúc nhưng nàng lại không làm thế. Mặc dầu hay có lẽ ngay cả bởi vì những điều Michael đã nói với nàng, Kay không thể nhớ lại lần cuối cùng mà nàng cảm thấy hạnh phúc đến như thế này là lúc nào. Quả là phi lí đến không tưởng, nhưng, nghĩ kĩ lại, thì có hạnh phúc nào mà không phi lí?

Chồng nàng là một kẻ sát nhân. Chàng đã từ Mỹ đào thoát về Sicily không phải vì chàng đã bị kết án một cách bất công là đã giết chết hai người - một đại úy cảnh sát và một trùm ma túy - mà bởi vì chàng đã bắn họ, một người vào đầu, người kia vào tim và cổ, và muốn tránh phải ra tòa đền tội. Ba năm sau những vụ chém giết đó, nhờ những vận động và dàn xếp của bố chàng và của ông anh kết nghĩa, Thomas Hagen - một luật sư tài ba lỗi lạc trong chuyện chạy cửa sau - Michael lại ung dung trở về Mỹ, chẳng sợ bị anh cớm nào sờ gáy, cũng chẳng phải đối mặt với quan tòa. Đa kim ngân phá luật lệ, nén bạc đâm toạc tờ cáo trạng là thế. Khi anh và Kay gặp lại nhau, anh thú thật là, anh đã từng ở với một phụ nữ khác, quả có vậy, trong thời gian lưu vong, nhưng chỉ bởi vì anh không bao giờ nghĩ rằng anh còn có thể gặp lại Kay. Có điều anh vẫn chưa nói với nàng mãi cho đến ngày hôm qua đó là người phụ nữ đó, một cô gái quê còn vị thành niên tên là Apollonia, đã là vợ anh, có cưới hỏi đàng hoàng. Nhưng chỉ sáu tháng sau nàng đã bị nổ tung lên trời trong chiếc xe hơi đua Alfa - Romeo bị cài bom.

Anh Sonny của chàng không phải chết trong một tai nạn xe cộ mà là bị bắn nát bét thành đống thịt băm tại một trạm thu phí cầu đường.

Mọi chuyện mà Tom Hagen đã kể cho nàng nghe từ hai năm trước - rằng Michael đã ra lệnh “thanh lí thể lí” Carlo, Tessio, Barzini, Tattaglia, và hàng lố những người liên quan - đều là thật, chứ không hề khoa trương để khoe khoang thành tích nhằm gây ấn tượng với ai cả! Ngày mà Hagen kể cho nàng nghe những chuyện đó - và bảo với nàng rằng nếu Michael mà phát hiện ra chuyện này thì Hagen cũng dễ... lãnh án tử lắm! - dường như là ngày đen tối nhất trong đời nàng.

Hôm qua, khi Michael đã đủ tin cậy nàng để đích thân kể cho nàng nghe những chuyện đó, khó có thể nói là một ngày tốt lành. Nhưng cũng chẳng phải là ngày tồi tệ nhất trong đời nàng. Không ai lại có thể cảm thấy vui sướng khi nghe những chuyện đó đã thực sự xảy ra nhưng nàng đã nhận ra và cảm thấy phấn chấn rằng chàng đã kể với nàng về chúng. Kay có bị sốc nhưng không ngạc nhiên. Một người vợ thì có quyền biết hay buộc phải biết những chuyện của chồng mình mà không một người nào khác có thể biết tường tận như mình. Kay biết Michael là ai. Ngay từ buổi đầu sơ ngộ, chàng đã biểu lộ là một pha trộn hoàn hảo giữa người tốt và người xấu. Trong tiệc cưới của Connie, Kay đã quy trách nhiệm cho rượu mạnh về trạng thái bốc đồng phớn phở của mình, nhưng thực ra điều tạo nên hiệu ứng đó chính là cách giải thích tỉnh bơ của Michael về công việc của gia đình chàng. Sau đó khi chàng kéo nàng vào chụp chung một tấm hình kỉ niệm với cả gia đình - sáu năm trước khi họ cưới nhau - Kay cảm thấy như nàng đã bị lôi kéo vào bản phân vai trong một vở kịch Shakespeare. Nàng đã diễn vai một cách bất đắc dĩ, nhưng vở kịch đã diễn. Và nàng thích tuồng tích đó.

Nếu như nàng trung thực ắt là nàng phải thừa nhận nàng cũng có những bí mật của riêng mình, những bí mật mà nàng vẫn chưa thú nhận với Michael. Trong những năm chàng lưu vong lánh nạn, nàng đã có một câu chuyện dài với ông thầy lịch sử mĩ thuật của mình tại Mount Holyoke (bởi nàng cũng không bao giờ nghĩ rằng mình còn có thể gặp lại Michael), một chuyện mà Michael cũng còn chưa biết tí gì. Deanna Dunn đã kể cho nàng nghe nhiều chuyện về Fredo mà Kay sẽ không bao giờ dám kể lại với Michael. Và Kay không bao giờ hé răng rằng Hagen đã nói chuyện gì với nàng - trừ những điều Michael ủy nhiệm chàng ta nói.

Kay đã đem lòng yêu Michael trong cái đêm chàng kể cho nàng nghe về những chuyện hãi hùng trên các đảo Thái bình dương - những thây người bị chặt đầu, bịc cháy thành than, bị phân rã trong sình lầy oi nồng. Chàng kể cho nàng nghe những người mà chàng đã giết. Tính bạo lực thô phác của con đực nơi câu chuyện đó - và sức mạnh mà con người này đã chứng tỏ, không phải để sống còn, mà là, trong vòng tay nàng, cho phép chàng tin cậy và phó thác vào nàng - đã thực sự kích động nàng. Chàng đã giết bao nhiêu người ở nơi ấy, và điều đó đã kích động nàng. Nếu như Kay đã có thể si mê một người đã từng giết bao nhiêu người khác vì đất nước mình (đem lòng yêu chàng, Kay biết, không phải là bất chấp chuyện đó mà là chính vì chuyện đó) thì làm sao nàng còn có thể bị sốc về chuyện chàng đã giết hay sai thủ hạ giết người khác nhằm bảo vệ mạng sống của chính mình?

Bây giờ thì Kay trưởng thành hơn, tất nhiên rồi. Nàng đã là mẹ của hai đứa con. Điều đó làm thay đổi mọi chuyện - mọi chuyện trừ cách mà hiện giờ nàng đang cảm nhận. Nàng uống cạn li cà phê. Tim nàng đập nhanh hơn lên.

Nàng lên lại cầu thang (nàng nghe bước chân Neri đi theo hộ vệ nhưng không quay lại để nhìn), kéo then cài cửa lại, vén các màn cửa ra và bật những đèn lớn lên cho căn phòng chìm ngập trong ánh sáng. Michael động đậy nhưng không thức dậy. Kay cởi bỏ hết quần áo và vùi người dưới tấm chăn cạnh bên chồng.

“Chúng ta sắp đi chơi núi Alps,” nàng thì thầm. Tim nàng càng đập rộn ràng hơn.

“Anh không trượt ski,” chàng nói.

“Chúng ta không đi trượt tuyết,” nàng nói. “Em còn không chắc chúng ta sẽ rời phòng hay không.”

“Ngoại trừ để dự lễ Mi - sa, hiển nhiên là thế.”

Chàng không hề có ý chế giễu nàng. “Ngay cả điều đó cũng không,” nàng nói. “Em không phải đi mỗi ngày.” Chỉ khi nàng nói điều đó nàng mới nhận ra rằng bỗng dưng nàng không còn cảm thấy nhu cầu phải đi lễ mỗi ngày nữa.

Nàng kể chi tiết cho chàng nghe. Họ sẽ thuê một máy bay nhỏ để chàng tự lái. Họ ở chơi một tuần, rồi về nhà sớm, mang mấy nhóc đi chơi Disneyland. Nàng đã gửi điện tín cho một hãng lữ hành nàng biết ở New York và hướng dẫn cho họ thu xếp cuộc đi chơi đó. Chàng có vẻ thích thú là nàng đã nghĩ ra cách cứu hộ cho kì nghỉ của họ một cách nhanh chóng và chu đáo như thế.

“Anh đánh giá thấp em đấy,” nàng nói. “Anh có ý tưởng nào về chuyện chúng ta sớm hơn lịch trình đến bao xa về công việc ở Hồ Tahoe không?”

“Anh sắp sửa bay ngang rặng núi Alps thật sao?”

“Em nghĩ là anh thích chuyện đó,” nàng nói. “Song nếu đó là thách thức qua lớn hay - ”

“Anh sẽ bay,” chàng nói. “Anh thích mà.” Chàng bóp eo nàng. Nàng vặn vẹo, quằn quại biểu lộ sự đồng tình nồng nhiệt, đầy nhục cảm.

Điều này luôn luôn là điểm mà mọi chuyện diễn ra tốt đẹp nhất với họ, trên giường. Không có vẻ gì là chàng sẽ không làm cho nàng mang bầu. Cách nàng cảm nhận hiện giờ, lần đầu tiên trong một thời gian dài, sẽ không thể là... không được vồn vã chào đón!

Thời gian vừa qua, vào những lúc hiếm hoi mà hai vợ chồng làm tình với nhau, thì hoặc là chàng ở trên, hoạc là nàng ở trên và họ giữ nguyên tư thế từ lúc khởi đầu, thực hiện chuyện gối chăn vợ chồng một cách chiếu lệ, thiếu sự say sưa hào hứng. Lần này với khung cảnh khác và với tâm trạng thoải mái hơn, cuộc ái ân của họ nồng nàn hơn, theo cách mà Kay mê thích nhất, thay đổi tư thế liên tục, theo kiểu đảo điên loan phụng: chàng trên nàng dưới rồi đổi lại nàng trên chàng dưới và nàng, lấy “cây trụ kình thiên” của chàng làm trục, quay vòng tròn, có lúc mặt nhìn xa khỏi mặt chàng, vểnh phao câu cho chàng ngắm, còn nàng thì mắt nhắm lim dim, “xay nghiền” vào chàng, cảm thấy vừa đủ hạnh phúc rằng đến thế là vừa đủ. Nhưng không, chàng làm cho nàng ngạc nhiên bằng cách chỉ ra rằng đường đi vẫn chưa đến. Chàng ngồi dậy, nâng nàng lên, mang nàng đến áp vào cái bồn tắm cẩm thạch. Chất đá lạnh truyền đi những cơn rùng mình lởm chởm sắc cạnh đến ghê người, và nàng vòng đôi tay quanh cổ chàng. Nàng ngửa đầu ra sau. Đôi bàn tay của Michael trượt trên những đường cong của bộ ngực và kéo nhẹ qua hai hàng ba sườn của nàng và nàng lại run lên, lần này mạnh hơn. Cao trào hoàn hảo. Khi nàng có thể cảm nhận chàng gần gũi đến thế nào, nàng đặt các đầu ngón tay nhẹ nhàng lên bộ ngực lấm tấm mồ hôi của chàng. Nàng không cần phải nói gì. Chàng biết dừng đúng lúc và rút ra, và nàng lập tức quay lên giường, quỳ hai gối chống hai tay. Khi chàng đi vào kiều diễm của thân em, nàng nghe một tiếng gầm gừ thoát ra từ cổ họng mình. Ánh nắng trên da nàng dường như đang nướng, nung khô và đốt cháy. Gối chăn xô lệch, làm lộ ra một phần tấm nệm trần bên dưới. Hai cánh tay Kay xoãi ra và mặt nàng rơi xuống tấm khăn trải giường. Điều kế tiếp mà nàng biết, rất nhanh khiến nàng chỉ vừa kịp ý thức nó diễn ra thế nào, đó là nàng lại ở bên trên chàng. Chàng kéo nàng mạnh vào sát mình, và tia nhìn vào mặt chàng, vào sự mở lòng, vào tính dễ tổn thương, vào nhiệt tình và sự quan tâm của chàng dành cho nàng, quan tâm đến cái gì nàng thích và nàng thích như thế nào, đó là điều làm nàng phấn khích. Hình như là một cơn đau dữ dội, giống cú sốc điện hơn là cơn cực khoái, và nàng cảm thấy giống như nàng đang mất đi ánh nắng - ánh nắng dường như tan loãng khỏi nàng thành làn sương mỏng lãng đãng mơ hồ, thành những làn sóng lăn tăn, nhấp nhô. Một nơi nào đó, trong những lằn nếp run rẩy của những dư chấn (aftershocks) nàng cảm nhận những co giật của chàng bên dưới nàng, xa bên dưới nàng. Và vào một thời điểm khác - có thể là mười giây hay cũng có thể là mười năm - Kay thấy mình cạn kiệt, đổ nhào xuống trên tấm nệm ướt đẫm.

Hoàn toàn không phải là cơn đau, tất nhiên rồi.

Michael thổi nhè nhẹ vào tấm lưng đang tí tách rơi từng giọt mồ hôi của nàng. Anh chạm vào nàng, thật khẽ khàng, bằng chỉ một ngón tay và viết những từ I love you. Lặp đi lặp lại nhiều lần. Hơi thở và nhịp tim của nàng cuối cùng cũng chậm lại. Bỗng dưng một dòng thác ngôn từ tuôn trào ra khỏi nàng, một bộc lộ tình yêu thật dài và đầy lòng biết ơn. Chỉ khi dừng lại nàng mới nhận ra là mình đã nói điều ấy toàn bằng tiếng Ý.

“Em học những câu ấy ở đâu vậy?” Michael nói, và cười ngạc nhiên, thích thú…

“Em cũng không có ý niệm nào cả,” nàng nói trở lại tiếng Anh, xoay tròn mắt và hôn chàng. “Đó là - ”

Chàng để một ngón tay lên môi nàng. Cả hai cùng nhoẻn miệng cười. Rất tươi và rạng ngời hạnh phúc. Không cần đến ngôn từ nào.

Mary mang đôi tai Chuột Mickey mới, áo dài của Cinderella và giày đế bẹt của Davy Crockett bất kì nơi đâu, mỗi ngày. Con bé mới lên ba và nó nghĩ rằng con gấu mà nó cùng nhảy múa vui đùa là con gấu thật. Anthony đi lòng vòng, biểu diễn những bài ca mà bé đã được nghe từ nhiều nguồn khác nhau. Nó được phú bẩm cái năng khiếu lạ lùng là chỉ cần nghe qua một đôi lần là có thể biểu diễn lại một bài hát. Điều này tạo cho nó không ít rắc rối khi ở nhà trẻ, nhưng Kay tin chắc là năng khiếu này là điềm lành cho cậu con về lâu dài. Thực tế là bố nàng, một người say mê opera, đã dự định thuê người đến nhà dạy ca nhạc cho Anthony vào dịp sinh nhật tới đây của cậu bé. Chúng là những đứa trẻ may mắn, Kay nghĩ vậy, và cảm thấy mình còn may mắn hơn khi có chúng.

Michael có biết là anh thiếu vắng đến thế nào khi đi xa nhà quá nhiều? Nhưng anh cũng yêu chúng. Anh đã bộc lộ niềm vui thú rõ ràng, có tính bản năng khi mang chúng đến khu vui chơi Disneyland... Bất kì khi nào ở nhà Michael đều tỏ ra âu yếm cưng chiều Mary. Anthony thì làm anh càng nặng lòng hơn, nhưng chính tình yêu kiên định dành cho Anthony khiến tia nhìn bối rối của Michael đối với con trai có cái gì đó làm nao lòng. Mấy ngày sau kì nghỉ này, Michael phải đi New York, vừa vì công việc vừa để thăm nom sức khỏe của bà mẹ như thế nào - vốn vừa có những diễn biến phức tạp nhưng vừa về nhà lại và có vẻ bình phục. Trong lúc sửa soạn hành trang anh gọi Kay đến cửa sổ phòng ngủ của họ. Anthony đã đào một lỗ lớn đằng sau cái đu và đang đứng trên đó, một mình, đầu cúi xuống, cầu nguyện.

“Đó là lễ tang cho chiếc mũ làm bằng da gấu trúc của nó đấy,” Kay giải thích.

“Em đùa đấy à?”

“Đừng giận dữ,” nàng nói.

“Anh đâu có giận. Anh chỉ - ” Hình như anh không thể tìm được cái từ để diễn đạt tâm trạng lúc đó của mình.

Anh dừng lại. Hiển nhiên là có những điều khác mà anh không thể nói với nàng. Cả hai biết điều đó. “Đấy không phải là điểm chính yếu. Rõ ràng là thế.”

“Ô, thực thế à? Vậy theo anh điểm chính yếu là gì?”

Anthony đang chôn cái mũ, Kay biết, ít vì tình cảm cho con gấu trúc bị chết hơn là vì chuyện mấy tháng trước đó trên ti vi nó đã thấy một thượng nghị sĩ từ Tennessee đội một cái mũ như thế, đi vận động tranh cử tổng thống và tố cáo đích danh Michael Corleone cùng một số người khác. Mua cái mũ là ý tưởng của Michael, không phải của Anthony. Anthony dường như hiếm khi có khả năng bộc lộ với bố điều gì nó thích hay không thích, còn Michael có ý định tốt nhưng lại hay quên. Kay không muốn đào sâu vấn đề này với Michael, nhất là ngay lúc này.

Michael thở dài, vẻ cam chịu. “Em có nghĩ là nó đang chôn lông gấu trúc thật hay không?” anh hỏi. “Hay chỉ là lông thỏ?” Nàng hôn lên đỉnh đầu anh. Anh cười gượng và ra ngoài để gặp Anthony. Kay quan sát. Hai bố con đứng đối mặt nhau qua cái lỗ. Anthony nhìn xuống và không có vẻ như đang nói gì. Đến một lúc nào đó nó bật ra thành lời “Ave Maria” (Kính mừng Maria). Michael lắng nghe hết. Trông anh có vẻ ngỡ ngàng hơn cả khi biết rằng con mình thực ra là một người da xanh tí hon đến từ hành tinh Marx!

Trong thời gian Michael du hành đến New York thì ngôi nhà đang hoàn tất nửa chừng của họ ở Hồ Tahoe lại bị hỏa hoạn. Tom Hagen, đang trở lại làm việc như luật sư của gia đình, tạt ngang nhà và cho nàng biết tin tức. Đã có một cơn giông với sấm sét. Song hãng bảo hiểm sẽ đền bù mọi thứ, anh ta bảo đảm với nàng. Không có hư hại đáng kể đối với cấu trúc cơ bản. Kay đã làm một công việc tốt khi quyết định mọi chuyện nên họ chỉ cần thuê một vài toán thợ lành nghề và xây dựng lại trong thời gian ngắn. Thêm điều nữa là, có một tòa nhà ở Reno, thực sự là một lâu đài, trước kia thuộc về một “vua” đường sắt, nhưng hiện đang được tháo dỡ để dọn đường cho một khách sạn hiện đại, và Kay có thể thủ đắc bất kì những đồ đạc cố định nào mà nàng muốn. Một khi Kay thấy nơi này rồi, Hagen nói, nàng sẽ kết thúc bằng cách nghĩ rằng cuộc hỏa hoạn kia tưởng là rủi lại hóa may. Hagen biết nàng từng hi vọng sẽ dời nhà vào mùa hè này, vậy nên anh đã nói với chủ thầu chính, người này dường như nghĩ rằng vẫn còn có khả năng hoàn tất mọi việc vào ngày Lễ Lao động.

“Anh nói với ông ấy? Trước khi ông ấy nói với tôi? Hay là anh nói với tôi?”

“Ông ta cũng là nhà thầu của tôi. Để xây dựng căn nhà của chúng tôi ở đó.”

“Michael có biết không?”

“Biết chứ.”

Nàng nhíu mày và chống nạnh cả hai tay lên hai bên hông, đứng ở lối vào cửa chính và không mở miệng mời anh vào. Cho đến hôm nay, nàng đã nhận ra là nàng chưa có thai. Vào thời điểm này, đó là một tin vui.

“Thực ra, tôi chưa nói trực tiếp với anh ấy,” Hagen nói. “Tôi chỉ để lại tin nhắn.”

“Với Carmela?

“Dĩ nhiên là không.” Anh ta nói. “Tôi biết cô đang nghĩ gì?”

“Đừng có đoán mò.”

“Chúng ta thử xem xét sâu sát hơn mọi chuyện, nhé?” anh nói. “Nhưng cô biết đấy, tạo nên một cơn giông sấm sét, chúng ta phải công nhận rằng, chuyện đó thuộc quyền năng của Trời.”

“Và chúng ta biết rằng đó là do sấm sét?”

“Chúng ta biết rằng đó là sấm sét.”

“Và làm thế nào chúng ta biết đó là do sấm sét? Có ai thấy tận mắt không?”

“Tôi biết cô hoang mang, Kay. Tôi cũng hoang mang. Và mọi người ở đó cũng trong tâm trạng đó.”

“Có ai tận mắt thấy không?”

Đằng sau nàng, Mary bắt đầu khóc. Anthony quỳ gối xuống, giang rộng đôi tay ra, và bùng vỡ thành một bài ca, lần đầu tiên được giới thiệu với thế giới bởi một xe ô-tô cũ cọc cạch trong một phim hoạt hình buồn tên là Dudley.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3