Bố già trở lại - Phần IV - Chương 16 - Phần 1
Chương 16
Vào lúc nhìn thấy hòn đảo Sicily lần đầu tiên Kay Corleone đã há hốc vì ngạc nhiên.
Michael nhìn lên từ quyển sách anh đang đọc - Peyton Place, mà Kay đã mua sau khi mẹ nàng, Deanna Dunn, và nhiều phụ nữ khác ở Liên hiệp Phụ nữ Las Vegas đã giới thiệu đầu sách đó cho nàng. Nàng đã đọc xong từ nhiều giờ trước đó và thấy nó chẳng ra gì.
“Có gì không ổn hả em?” Mike hỏi.
“Ồ, không có gì đâu,” Kay đáp. “Ôi Trời! Anh chưa bao giờ nói với em là hòn đảo này lại đẹp đến thế.”
Anh đặt quyển sách xuống, nghiêng người qua Kay, về phía cửa sổ. “Đẹp thật.”
Một dãy núi tuyết phủ trên đỉnh vòng quanh thành phố Palermo được bao bọc bởi tường thành, nhìn từ trên không là cả một sự hào phóng của những thóp hình chóp và đá được đục đẽo, chạm khắc và những ban - công dạng cuộn. Trời đang vào tháng hai và Địa trung hải vẫn một màu xanh bất tận, với đầu ngọn sóng lóng lánh nắng vàng và sóng cũng chỉ gợn lăn tăn truyền đi bản giao hưởng êm đềm giữa mây trời và gió biển. Phi đạo nằm trên một doi đất chạy dài về phía tây bắc thành phố. Trong vô số những điều mà Michael đã nói nhằm khuyên can Kay đừng nên đến đây vào kì nghỉ của họ đó là, theo thống kê, thì đây là một trong những phi trường nguy hiểm nhất trên thế giới. Phần lớn thời gian, chính anh cũng bay đến Rome rồi đi xe lửa và đi phà đến đây. Lúc máy bay hạ thấp xuống gần sát mặt nước, sát một chiếc thuyền câu nhỏ đến độ nàng có thể thấy những bộ mặt râu tóc xồm xoàn không cắt, không cạo của mấy ngư dân, Kay, người từng đến châu Âu trước đây, nhưng luôn luôn bằng đường biển - đã thích thú đến mê hoặc về chuyện nàng đã cố nài để cả hai bay trọn quãng đường đến đây.
Chỉ khi cái bóng của máy bay xuất hiện trên lớp đá cuội của tuyến đường ven biển thì một cơn đau nhói nóng bỏng của kinh hoàng mới bắn xuyên người nàng - các con ơi! - nhưng một cơn đau nhói thì cũng chỉ thoáng qua thôi. Mấy giây sau, họ tiếp đất, hơi nặng hơn một tí nhưng vẫn là một cuộc hạ cánh nói chung là an toàn.
“Sau bao nhiêu năm chung sống trong một gia đình Sicily,” Kay thích thú nói, “giờ đây em mới lần đầu đặt chân lên mảnh đất cố quốc của nhà chồng.”
“Nơi sinh của thần Vệ nữ,” Michael tự hào khoe, tay xoa đùi vợ. “Nữ thần Tình yêu.”
Suốt trọn cuộc đời trưởng thành của Kay, nàng đã từng nghe về tất cả những gì có và không có tính chất Sicily, những điều mà nàng chẳng bao giờ có thể hiểu được bởi vì nàng không phải là người Sicily. Michael từng đến đây nhiều lần vì công việc và ngay cả là, trong ba năm liền, từng sống ở đây. Điều ít nhất mà anh có thể làm là dẫn nàng đi tham quan những nơi đáng xem ở đây trong tuần lễ đầu và một tuần thứ nhì ẩn náu nơi một khu nghỉ dưỡng thơ mộng được khoét vào trong một triền núi gần Taormina. Anh còn nợ ân tình với nàng nhiều lắm. Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân...
Khi chiếc máy bay lăn bánh đến trạm dừng cuối, Kay nhận thấy một hàng những chiếc xe Ý nhỏ nhắn sắp hàng ngay ngắn nơi sân cỏ. Bên trong những chiếc xe đó, khoảng độ ba mươi người, nhiều người cặp bánh mì và hoa, đứng sau một dây thừng giăng ngang cao tới ngực, tươi cười và vẫy chào máy bay đến. Đứng trước sợi dây giăng ngang là bốn tay khinh binh mặc đồng phục, hai người cầm gươm bạc sáng loáng để ngang vai, hai người khác với kiếm để trong bao và súng máy mang ngang ngực.
“Những người anh quen biết?” Kay hỏi.
Nàng chỉ hỏi đùa thôi, nhưng, hóa ra, Michael lại gật đầu. “Những người bạn,” anh nói. “Nói đúng ra là, những người bạn của những người bạn. Dự kiến là sẽ có một party gây ngạc nhiên - a surprise party - tại một nhà hàng trên bãi biển ở Mondello.
Nàng nhìn chồng có ý dò hỏi.
“Anh biết,” chàng nói.
“Em nghĩ chúng ta có sự hiểu biết - ”
“Đúng thế. Anh không phải là người làm em ngạc nhiên đâu. Không còn ngạc nhiên nào từ anh, chuyện là thế.Trong mức độ cái phần của thế giới mà anh không kiểm soát được, em sẽ phải tìm sự ngạc nhiên nơi Chúa.”
“Chàng nói thế là có ý gì nhỉ?” Phải chăng chàng đang đùa về chuyện nàng trở thành tín đồ Công giáo?
“Không có gì,” chàng nói. “Xem này, anh không chắc là nó sắp xảy ra. Anh sẽ cho em biết ngay khi anh thấy rằng nó sắp xảy ra. Có lẽ nó cũng sẽ là một ngạc nhiên không kém buổi party gây ngạc nhiên mà anh bảo với em là sắp kết thúc lại không xảy ra, đồng ý chứ?”
Nàng lắc đầu và vỗ vào gối anh. Anh thực sự cần một kì nghỉ. Nàng cũng vậy. Nàng đặt tay lên đùi chồng. “Chúng ta không thể vào khách sạn và tắm rửa sao?”
“Nếu đó là điều em thực sự muốn,” anh nói, mà đó là cách để anh nói không. “Hãy cố làm ra vẻ ngạc nhiên, bằng bất kì giá nào. Vì lợi ích của họ.”
Khi máy bay dừng lại, những khinh binh không mang súng máy cũng tra gươm vào vỏ và chạy ùa ra đường nhựa. Một cô tiếp viên yêu cầu hành khách ngồi yên tại chỗ.
“Có chuyện gì thế? Kay thì thầm.
“Anh cũng không rõ.” Michael quay đầu về phía sau, rất khẽ khàng hầu như không nhận ra nhưng đủ để “tiếp nhãn” với Al Neri, ngồi sau họ hai hàng ghế. Xét theo cách Michael đồng ý đi hưởng kì nghỉ này với chỉ một vệ sĩ (mặc dầu là người thiện chiến nhất và tin cậy nhất) dường như là một dấu hiệu rõ ràng rằng mọi chuyện đã chuyển biến tốt hơn. Và đúng như lời Michael, họ đã ở trên máy bay hay ở sân bay trong hầu hết trọn hai ngày, và thực sự là như thể Al Neri đã không có mặt ở đó.
Cửa ra vào trên máy bay mở ra. Những bước chân đi xuống. Cô tiếp viên trưởng và mấy người khinh binh có một cuộc trao đổi nhanh mà mặc dầu nàng thích nghĩ là mình hiểu được tiếng Ý, song Kay chỉ lõm bõm tiếng được tiếng mất nên chẳng hiểu được gì.
Cô tiếp viên quay lại và đối mặt với hành khách. “Xin quý khách lưu ý!” cô nói bằng thứ tiếng Anh rất chuẩn. “Xin Ông và Bà Michael Corleone vui lòng cho chúng tôi được hân hạnh biết mặt.”
Cô nói tiếng Anh còn nhẹ hơn phần lớn những nhân viên của Michael. Cô còn Mỹ hóa cả cách phát âm của Corleone.
Neri đứng lên và bước về phía đằng trước của máy bay. Cô tiếp viên hỏi anh ta có phải là Ông Corleone không, và Neri không nói năng gì.
Chỉ sau khi anh ta đi qua Michael và Kay, Michael mới đưa tay lên. Kay làm theo.
Kay cố giữ cho đôi môi đứng yên. “Ngạc nhiên đấy,” nàng lẩm bẩm.
“Anh chắc là không có chuyện gì đâu,” Michael nói. “Chỉ là chuyện hậu cần thôi.”
Neri bắt đầu nói với cô tiếp viên bằng tiếng Ý - chuyện gì đó về việc bảo vệ và về việc Michael là một người quan trọng như thế nào ở Mỹ và cái gì đó về sự thô bạo và tính hiếu khách, tất cả bằng những tiếng đã được bịt đi vừa đủ khiến Kay không thể hình dung được chuyện gì đang diễn ra. Sau đó Neri quay về phía Michael và Kay và làm một cử chỉ vỗ vỗ - đấy, đấy. Michael gật đầu. Cô tiếp viên yêu cầu Ông và Bà Corleone ngồi yên tại chỗ cho đến khi mọi hành khách khác đều ra khỏi tàu. Neri chiếm một chỗ trống ở phía trước máy bay và ngồi vào đấy.
“Chuyện gì vậy?” Kay thì thầm.
“Sắp ổn rồi,” Michael trấn an.
“Đấy không phải là điều em hỏi anh.”
Khi mọi người khác đã rời máy bay, hai tay khinh binh lại bước lên. Neri chận họ lại. Họ có cuộc trao đổi nhanh, thì thầm, rồi cùng đi xuống lối đi ở giữa và đứng kế bên Michael và Kay.
Bằng tiếng Ý, Michael chào đón họ. Một trong mấy người kia hình như biết anh. Michael ra hiệu cho họ ngồi. Họ vẫn đứng. Họ giải thích rằng có những nguồn đáng tin cậy đã chỉ điểm rằng cuộc dạ hội chào mừng ở Mondello tuy không chắc chắn nhưng rất có thể là một cái bẫy, rằng có lẽ Ông và Bà không nên đặt chân lên đất Sicily vào thời điểm này.
“Những nguồn đáng tin cậy?” Michael lặp lại, bằng tiếng Ý.
Khuôn mặt của mấy người kia vẫn bình thản. “Yes,” anh chàng hình như biết Michael, trả lời bằng tiếng Anh.
Michael liếc mắt nhìn Neri, anh chàng này nói thầm Chicago. Anh ta có thể có ý chỉ gì bằng từ đó? Có lẽ anh ta muốn nói thầm điều gì khác, hay tên một ai đó.
Michael đứng lên, gật đầu, hướng về phía trước máy bay. Hai chàng khinh binh đi theo anh, và họ “gút” cuộc tranh luận tại đó, bằng những lời thì thầm, ngoài tầm nghe của nàng. Kay không biết mình nên hoảng sợ hay nên giận dữ nữa. Bên ngoài, những người vẫy tay chào vẫn đang kéo đèn cù chung quanh, ra dấu hiệu về hướng máy bay bằng nhiều cách biểu tỏ khác nhau. Nhiều người bước vào xe của họ và lái đi xa. Kay kéo màn che cửa xuống. Cuối cùng Michael vỗ vào lưng hai chàng khinh binh. “Bene” (Tốt) anh nói thành tiếng, không còn thì thầm nữa. “A che ora è il prossimo volo per Roma?” (Mấy giờ có chuyến bay tiếp theo đến La mã?”
Chàng khinh binh có vẻ từng quen biết với anh tươi cười rạng rỡ. “Chúng tôi rất hân hạnh xin thưa với quý vị rằng,” anh ta nói, trở lại tiếng Anh, “quý vị sẽ lên chuyến bay ấy.”
Và sau câu đó, họ chào tạm biệt và rời đi.
Không những Michael, Kay và Neri sẽ ngồi trên chuyến bay kế tiếp đến Rome mà hóa ra đó còn là một chuyến bay riêng. Cô tiếp viên trưởng và các tiếp viên khác lo làm vệ sinh cabin, sau đó rời đi.
“Chuyện này có vẻ giống kiểu của anh quá,” Kay nói với Michael. “Anh không bao giờ thích đi Sicily, và bây giờ anh đi theo cách của anh.”
“Kay,” anh nói,” em làm ơn nghiêm túc xem nào.”
“Hãy nghĩ đến mẹ anh,” nàng nói, vừa nghĩ đến chiếc va li đầy những quà tặng nằm đâu đó trong máy bay. Sửa soạn cho thùng quà tặng đó đã là lí do khiến bà sống được trong nhiều tháng, là lí do - mọi người đều nhất trí như thế, ngay cả các bác sĩ - giúp bà hồi phục tốt đến thế dầu đã chạm tay vào tử thần.
“Anh đã ra lệnh xuống hàng thùng quà ấy rồi,” anh nói. “Anh biết những người có thể đem thùng quà ấy đến đúng người cần giao.”
“Tất nhiên là anh làm được.”
“Kay này.”
“Em thấy quái dị quá, khi bay cả quãng đường dài dằng dặc như thế đến đây và lìa xa con cái. Để làm gì? Chẳng được cái tích sự gì cả.”
Michael cũng chẳng biết nói sao. Mà cũng chẳng cần phải nói. Anh muốn đến nơi nào đó và đem đám nhóc theo. Loại kì nghỉ đó mới đúng là kì nghỉ cho anh. Cái việc nặng nhọc nhất mà anh phải làm lúc đó là ngồi yên và để bọn nhóc chôn anh trong cát. Kay đã dành thời gian để trông nom chăm sóc Anthony và Mary, điều mà nàng thích làm nhưng đó không phải là kì nghỉ. Trong suốt hai năm liền nàng đã làm, một cách xả kỉ, những gì mà Michael cần nàng làm. Nàng đã phải nuôi dạy đám nhóc gần như thể nàng là góa phụ (kể cả giữ chúng qua những giờ than khóc không gì an ủi được trong năm mà anh bận bịu công việc ở Cuba đến nỗi không về nhà cả trong dịp lễ Giáng sinh). Nàng vẫn chưa trở về với công việc dạy dỗ được và bắt đầu sợ rằng nàng sẽ không bao giờ còn có thể trở lại với công việc mà mình yêu thích nữa. Riêng về bản thân, nàng chấp thuận với việc dời về Las Vegas. Rồi nàng lao vào công việc còn quan trọng hơn là thiết kế và trông coi việc xây dựng toàn bộ khu liên hợp ở Hồ Tahoe: nhà của họ, một khu giải trí, và những kế hoạch điều hòa kiến trúc sơ khởi cho những ngôi nhà của gia đình Hagen, cho Connie và Ed Federici, cho Fredo và Deanna Dunn, cho Al Neri, và cả một bungalow nhỏ cho khách khứa. Kay đã từng ngạc nhiên về chuyện nàng thích thú biết bao với việc xây nhà, thực vậy: vô số những chi tiết và quyết định, cơ hội đảm trách cuộc đi mua sắm cuối cùng, tất cả vì sự thoải mái tối đa cho toàn thể gia đình nàng. Vả chăng, đó là công việc. Nàng hầu như chẳng đòi hỏi gì từ Michael ngoại trừ là đi đến nơi nàng muốn đến vào kì nghỉ, mà chỉ hai người thôi.
“Chúng ta sắp làm gì đây,” Kay nói, “đi lòng vòng rồi về nhà?”
“Chúng ta không phải về nhà. Ba cái chuyện này, nếu em nhớ lại, là một phần của lí do tại sao anh đã không muốn cùng em đến Sicily.”
“Vì Chúa, Michael. Đây là một đe dọa ám sát mà chúng ta đang trốn chạy.”
“Chúng ta không trốn chạy.”
“Đúng rồi. Chúng ta đang bay.”
“Đó không phải là điều anh có ý muốn nói. Và đó không phải là một đe dọa hơn là một biện pháp phòng ngừa. Xem nào, Kay, nếu có một điều mà anh vẫn luôn hoàn toàn kiên định và dứt khoát, thì đó là việc bảo vệ gia đình mình.”
Kay nhìn lãng đi và không nói gì. Quả thực là anh kiên định và dứt khoát về mọi chuyện. Đó là điểm hay và cũng là điểm dở trong tính cách của anh, là điểm mạnh đưa anh đến những thành công lớn lao và cũng là điểm yếu chết người dẫn đến những tai họa cũng lớn lao không kém.
“Những người đó,” anh nói, “những tay khinh binh nọ? Một trong số họ là Calogero Tommasino, con một ông bạn cố tri của bố anh. Anh có những chuyện làm ăn với bác ấy và cả với anh ấy. Anh tin cậy anh ta. Giờ đây chúng ta chắc chắn không gặp nguy hiểm gì và có lẽ cũng chưa từng có nguy cơ thực sự nào đe dọa chúng ta. Tuy vậy, thận trọng đề phòng thì vẫn hay hơn. Mong em hiểu cho. Và hẳn nhiên là em, với bất kì giá nào sẽ không bao giờ phải đương đầu với nguy hiểm. Luật lệ là không - ” Anh tự động dừng lại.
“Làm hại phụ nữ hay trẻ con,” nàng tiếp lời, đảo tròn mắt. “Luật lệ này, không nghi ngờ gì, vẫn mập mờ lưỡng nghĩa ở Sicily, điều dĩ nhiên em không thể hi vọng hiểu được. Em có thể không, bởi vì em không phải là người Sicily?”
Michael không trả lời vợ. Trông anh thật đáng sợ. Có lẽ bởi vì chuyến bay. Giờ đây nàng không thể chấp nhận nó, nhưng nếu như nàng đã thực sự hiểu thử thách khắc nghiệt gắn liền với việc bay từ Las Vegas đến Palermo, có lẽ nàng đã đồng ý với chuyện đi Hawaii hay Acapulco để nghỉ ngơi vui chơi rồi.
Các phi công trở lại máy bay. Neri đi vào buồng lái để nói chuyện với họ. Lát sau anh ta trở ra, ngồi vào một chỗ rất xa với Kay và Michael. Những chiếc xe với những người đón rước đã rời khỏi đường băng. Máy bay cất cánh.
“Thực sự em sẽ không hiểu đâu,” cuối cùng Michael nói. “Làm thế nào mà em có thể hiểu được?”
“Ôi, lạy Chúa!” Kay kêu lên. Nàng đứng lên và tìm chỗ ngồi xa khỏi Michael. Đã hai lần, chỉ trong khoảng thời gian ngắn ngủi, anh đã khiến cho nàng gọi tên Chúa một cách vô ích.
Anh để nàng đi.
Nhưng nàng biết, cuối cùng sự yên lặng của nàng sẽ phát huy tác dụng. Chính bởi vì anh rất thành thạo trong việc sử dụng yên lặng như một vũ khí, điều đó không có nghĩa là chính anh lại bất khả xâm phạm đối với thứ vũ khí đó, nhất là khi nó trong tay nàng. Nàng ngồi sát bên lườn phải của máy bay và chăm chú ngắm nhìn bờ biển nước Ý lướt qua bên dưới đường bay.
Sau độ một giờ, chàng đến bên nàng. “Ghế này có ai ngồi không vậy?” chàng hỏi theo một cách lịch sự (rởm!).
“Anh đã đọc xong quyển sách rồi à?”
“Xong rồi,” chàng nói. “Anh nghĩ quyển sách tốt đấy, thực thế. Một cuộc đào thoát dễ chịu.”
“Nếu anh cho là thế.” Quyển sách mà anh lấy đọc là quyển The Last Hurrah của Edwin O’Connors mà Kay đã mua tặng anh vào dịp Giáng sinh. Anh tiếp tục ngủ thiếp đi. Không lâu sau khi nàng đọc xong quyển của nàng, anh lấy quyển đó, và nàng lấy quyển của anh. Kay nghĩ The Last Hurrah là quyển hay nhất mà nàng từng đọc về chính trị ở các đô thị. Nàng hơi thất vọng là chàng đã không thích nó. “Và, vâng, ghế đã có người giữ.”
“Kay,” chàng nói. “Lí do mà em sẽ không hiểu được đó là vì anh đã không - ” Anh nhắm mắt lại. Có thể cả chuyện này - vật lộn để tìm kiếm những từ thích hợp - cũng có liên quan đến chuyến bay dài, nhưng giờ đây có điều gì đó nơi anh dường như là bị dao động nhiều hơn là do kiệt sức. “Bởi vì,” anh nói, “đúng là... là anh đã không hoàn toàn, em biết đấy...” Anh để lọt ra cái lúc đầu là một tiếng thở dài nản lòng và kết thúc thành một tiếng làu bàu nhẹ, bị tắt đi.
“Michael,” nàng nói.
“Anh muốn kể em nghe vài điều,” anh nói. “Anh phải kể cho em nghe vài điều.”
Phần lớn thời gian, nàng nhìn chàng và thấy khó nhận ra con người mà nàng từng mê đắm. Tóc chàng điểm nhiều sợ bạc, và - mặc dầu nàng tự nhủ lòng rằng đó chỉ là do mình tưởng tượng - chàng đã trở thành người kéo chuông chiêu hồn cho bố mình. Nhưng giờ đây trong đôi mắt chàng có cùng tia nhìn giống như tia nhìn chàng từng có nhiều năm trước đây, trên một sân golf ở New Hampshire vào một đêm ấm áp trời nhiều sao, khi chàng kể nàng nghe những gì chàng đã làm trong chiến tranh, những điều chàng chưa hề kể với ai, và chàng đã thổn thức trong vòng tay nàng. Dầu đang tức giận, thế mà nghĩ đến đó bỗng nhiên nàng mềm lòng.
“Em thích chuyện đó,” nàng nói, giọng run rẩy. Nàng vỗ vào chiếc ghế bên cạnh mình.
Chàng ngồi xuống. “Xin lỗi,” chàng nói.
“Đừng thế,” nàng nói, cầm lấy tay chàng. “Không phải xin lỗi hay biện hộ gì. Cứ nói tất cả với em.”
Họ lưu lại ở Rome chỉ vừa đủ lâu để ngủ bù cho việc chuyến bay bị hoãn lại, sau đó đi dùng một bữa thịnh soạn tại một nhà hàng mà nhiều năm trước Kay đã cùng ăn với bố mẹ nàng. Ngày hôm sau, với Michael còn ngủ trên lầu, nàng nói với người quản lí khách sạn và thu xếp việc giành chỗ tại khu nghĩ dưỡng ở vùng núi Alps thuộc Thụy Sĩ. Ông ta cũng giúp nàng thuê một máy bay cho Michael tự lái đến đó, điều mà nàng biết chàng rất thích. Nàng chưa bao giờ đến vùng núi Alps, nhưng khi họ bay ngang núi Alps trên đường tới Rome, nàng đã tự hứa một ngày nào sẽ đến đó. Hóa ra ngày nào đó lại là ngày mai.