Bố già trở lại - Phần VII - Chương 25 - Phần 1

Chương 25

“Em biết tên anh là Billy,” Mary nói. “Em gọi anh là Bee - Boy chỉ vì chị họ Kathy - rất giống chị Francie, chỉ khác là không có em bé trong bụng - cũng gọi anh như thế, mặc dầu em nghĩ ra trước tiên, trở lại lúc em còn là em bé. Nhưng em đã ra đời, tất nhiên rồi.

“Anh thích điều đó,” Billy nói, vừa chỉ mọi người bên trong của căn hộ, “đến từ em.”

Francesca đã dậy từ bốn giờ, mở các hộp đồ nhà bếp, đi đến tiệm bách hóa, và nấu bữa ăn sáng. Nàng rất mệt mỏi nhưng đã quen. Đứa bé quậy đạp nhiều đến nỗi dầu làm cách nào nàng cũng không ngủ được nhiều.

“Mọi thứ sắp sẵn sàng rồi,” nàng nói. “Xin lỗi vì nhà cửa còn bề bộn quá. Chúng cháu mới dọn về đây có hai ngày. Billy, sao anh không dẫn các em đi xem nhà một vòng và sau đó chúng ta sẽ ăn sáng. Này, Sonny! Qua đây,ngay lập tức! Nhà có khách!”

Cậu con nàng đứng lên từ phía trước ti vi, chạy và đụng vào Tony. Sonny cảm thấy xấu hổ vì mới lên ba. Trong khi Tony đã lên chín. Tony biết xử sự rất chững chạc. Chú Mike ghi nhận lòng kiên nhẫn của con trai mình với sự tán đồng lộ rõ. Francesca chưa từng lưu ý nét giống nhau giữa chú Mike và ông nội Vito, nhưng bỗng nhiên nét đó lộ rõ nơi đôi mắt vừa có vẻ mệt mỏi của Michael, lại vừa có “cái thần” khiến người ta sợ.

“A, Sonny cháu đây,” Michael nói, vừa nhấc bổng cậu bé lên. “Ông là Ông trẻ Mike của cháu đây. Cháu khá nặng cân đấy chứ?”

Francesca đảo tròn mắt. “Sonny sẽ không bao giờ bỏ cái mũ bảo hiểm ấy ra. Nhiều khi ngủ cháu cũng vẫn đội mũ đấy. Đó là lỗi của Frankie. Dịp lễ Giáng sinh cậu ta chỉ lo dạy cho Sonny chơi bóng đá.”

Billy, chẳng có lí do rõ ràng nào, lại liếc mắt nhìn chú Mike như thể chàng ta nghĩ rằng chú có thể để rơi Sonny.

“Một thầy giáo giỏi, chú chắc thế,” Michael nói. Frankie Corleone, khi là sinh viên năm dự bị, đã bắt đầu chơi cho đội bóng của Đại học Notre Dame.

“Em có thích chơi bóng, chơi thể thao?” Billy hỏi Tony.

Tony nhún vai.

“Anh cũng như thế,” Billy nói, vò tóc chú bé.

“Anh ấy ghét chuyện đó,” Mary nói.

“Tôi chẳng quan tâm đâu,” Tony nói.

Nghe anh nói thế, cô bé cũng vói tay lên định vò đầu ông anh, ai ngờ bị anh gạt tay ra. Michael đặt Sonny xuống, xốc Mary lên bằng một cánh tay và lấy tay kia cặp tay Tony.

“Xin lỗi,” Michael nói. Hai vợ chồng lập tức thở phào nhẹ nhõm, hết căng thẳng. Mike là một ông bố vui tính.

“Ồ, có gì đâu chú,” Francesca nói. “Trẻ con mà. Cháu dám cá là hồi nhỏ chú còn đánh nhau với các anh chú và với cô Connie còn hơn thế nữa. Cháu may mắn là chưa bao giờ cấu xé dữ dội với người chị em sinh đôi của mình.”

“Căn hộ xinh xắn ghê,” Michael nói.

Tòa nhà này đã hơn trăm năm tuổi. Xưa kia nó là một dinh thự và sau đó được chia thành bốn căn hộ lớn. Căn hộ của họ ở tầng trệt và gồm phần lớn chỗ xưa kia là một phòng khiêu vũ và hiện nay được cải tạo thành phòng khách, phòng ăn và phòng bếp. Các sàn bằng gỗ có độ nghiêng và cong đủ cho các đồ chơi và các hòn bi của Sonny chạy vòng vòng quanh phòng hoài. Francesca thích điều đó. Nàng chưa bao giờ sống một nơi chốn nào có tuổi xây dựng trên hai mươi năm, và chắc chắn là chưa có nơi nào trông lịch sự đến thế, mặc dầu đã mang nhiều dấu vết phôi pha. Nhiều lần trong ngày nàng đi đến chỗ ngày xưa dùng làm nơi buộc ngựa chỉ để nhìn vào đó và ngạc nhiên thích thú rằng nơi đây hiện nay là chỗ ở của gia đình mình.

Nghĩ về điều này, nàng nhìn ra chỗ buộc ngựa và thấy Al Neri vẫn còn ngồi trong xe.

“Sao chú không kêu người tài xế cùng vào ăn sáng luôn?” nàng nói khi mọi người ngồi xuống. “Cháu chắc là ông ta cũng đói đấy.”

“Anh ta ăn rồi,” Michael nói. “Anh ta dậy sớm lắm.”

Francesca không thực sự lo lắng lắm về bữa điểm tâm và nàng cũng chưa rành chỗ mua sắm, cũng không khéo lắm về chuyện bếp núc nhưng nói chung thì mọi thứ cũng... không đến nỗi nào và nàng cũng tạo ra được một bữa ăn sáng gia đình tươm tất.

Nỗi băn khoăn trong lòng cho nàng có đề tài để nói về hơn là phải nhắc đến thím Kay.

Nàng không thể hình dung làm thế nào để nêu vấn đề đó ra. Nhà Corleones theo Công giáo - tức là vợ chồng không được li dị nhau - vậy mà trong vòng mấy năm qua cả cô Connie (đã tái hôn với Ed Federici và sống với nhau chưa đến một năm lại rã đám) và chú Mike đã li dị thím Kay. Và hẳn là phải có vài lí do khiến mẹ nàng và Stan Người bán rượu không bao giờ kết hôn nhau. Bao nhiêu điều đó, cộng thêm chuyện Billy hiện nay khiến Francesca phải ưu tư. Nàng không thể nghĩ ra điều gì khủng khiếp hơn là sống cách xa con mình cả một lục địa.

“Cháu thật áy náy khi nghe tin về chú và thím Kay,” Billy buột miệng nói ra như thế.

Francesca phân vân không biết nên ngưỡng mộ chàng vì cái tính thẳng ruột ngựa kia hay nên... cho chàng một cái tát vì bất lịch sự!

Michael trả lời với một cái gật đầu hối tiếc.

Francesca nghiêng người qua mặt bàn và bóp cánh tay chú để tỏ cảm tình.

“Cháu đã dành trọn tuổi thơ của mình nhiệt tình ủng hộ bố mẹ cháu li dị,” Billy nói. “Nhưng chú và Kay không.”

Francesca đá vào chân chồng dưới bàn.

“Chú không bao giờ biết đâu, cháu đoán thế,” Billy nói. “Chú có đi thăm Tony và Mary thường không?”

Ăn nói thế mà thấy được sao? Ngay trước mặt bọn trẻ. Tát cho anh chàng này một bạt tai cho hắn tỉnh người ra có lẽ lại hay đấy.

“Không thường xuyên lắm như chú mong muốn,” chú Mike nói. “Chú đang cố thu xếp lại một số trách nhiệm của mình với công việc để có thể dành nhiều thời gian hơn cho chuyện ấy.”

“Bố có thêm máy bay mới này!” Mary nói. “Bây giờ bố sẽ bay và đến thăm chúng ta mọi lúc mọi nơi.”

Tony lấy thêm chiếc bánh rán có thạch khác, dầu cậu vẫn chưa ăn chiếc đã có sẵn trên đĩa của mình.

“Chú vẫn còn giữ một căn hộ nhỏ ở New York để khi nào đến đó vì công việc thì có chỗ riêng để nghỉ chân,” Michael nói. “Chú có thể kiếm một căn hộ lớn hơn để hai em nó cũng có thể ở lại đó, bất cứ khi nào chú đông tiến.”

“Cháu cứ nghĩ như thể mọi người trong gia đình mình hiện vẫn còn sống ở New York,” Francesca nói. “Như thể là gia đình chú chỉ vừa mới dọn về Nevada.”

“Sáu năm rồi đấy,” Michael nói. “Hầu như là bốn năm ở Tahoe. Chú vẫn giữ hai căn nhà, ở Vegas và ở Tahoe. Cả hai căn đều lớn hơn là chú cần dùng, nhưng đối với Mary và Tony những nơi đó đã là nhà của mình.”

“Ngày nay quả khác xưa nhiều,” Billy nói. “Người ta dời chỗ nơi này nơi khác nhiều hơn. Cưng nhìn chúng ta nè. Ba năm kết hôn, ba địa chỉ khác nhau.”

“Nghĩ cũng buồn cười thật,” nàng nói, “những năm tháng đó ở Florida, và em vẫn nghĩ New York như là quê nhà. Lẽ ra em nên đi học đại học ở đó, như Kathy.”

“Nhưng nếu thế thì chúng ta đã chẳng bao giờ gặp nhau,” Billy nói.

Francesca ngước đầu lên. Chàng hoàn toàn thành thật, vẻ mặt tiu nghỉu, như thể chàng thực sự đang tưởng tượng đã không bao giờ gặp nàng. Một cảnh tượng dễ gây thương tâm quá khiến nàng xúc động.

“Ôi tình yêu của đời em,” nàng nói, cũng hoàn toàn thành thật, vươn người tới để tát... yêu vào má chàng.

“Francie and Bee - Boy sittin’in a tree,” Mary nói. “Nào, Tony. Hát bài ấy với em đi.”

“Bố,” Tony nói. “Bảo em đừng có làm rộn nữa.”

Michael Corleone nâng cốc cà phê lên. “Cho tình yêu,” anh nói.

Một điều tuyệt vời được phát biểu đúng lúc, hợp tình hợp cảnh.

Mấy đứa bé ngưng cãi vã chí chóe và mọi người đều nâng li lên, và không ai, Francesca nghĩ, có thể cảm nhận bất kì điều gì khác ngoài tình yêu.

Ngoại trừ Billy, mà sự tham gia vào cuộc nâng cốc chúc mừng này không thể nào miễn cưỡng hơn.

Khi họ rời bàn, Francesca gửi một đĩa thức ăn cho người vệ sĩ.

Họ đứng trên những bậc thềm đá cẩm thạch trắng, vẫy tay khi chiếc xe đi xa. “Anh luôn luôn nói anh yêu gia đình em,” nàng nói với Billy. Sonny chạy lòng vòng, hai cánh tay khuỳnh ra ôm lấy con gấu bông giống như quả banh. “Vậy tại sao anh không thích chú em?”

Họ đã hục hặc với nhau vì chuyện này nhiều rồi. Vậy tại sao không thoát ra khỏi chuyện cấm kị này?

Nhưng Billy không nói gì. Chàng dặn Sonny đứng cách xa đường phố. Sonny thực ra cũng không đứng sát đường phố quá, nhưng Billy bế cậu lên và đi vào trong.

Tối hôm đó, sau khi Sonny đi ngủ, Francesca vào giường, mệt lử, để thấy Billy che phủ phía nàng với những tập hồ sơ. Chàng chống người một bên, đọc hồ sơ.

“Muốn em ngủ trên ghế xô-pha?”

Chàng nhìn lên, sững sờ, rồi ngay lập tức dồn mấy tập hồ sơ lại và lùa chúng xuống sàn. Nàng vào trong giường, chàng tắt đèn và bắt đầu xoa bóp cho nàng: thong thả, thận trọng, nấn ná trên hai chân đã sưng lên của nàng và phần dưới lưng nhức mỏi của nàng.

Nàng đã vào giường với chỉ vừa đủ năng lượng để nhắm mắt lại, thế nhưng khi cuối cùng chàng lột hết áo ngủ nàng ra, nàng quay về phía chàng, và khi lưỡi chàng chọc vào giữa đôi môi nàng, nàng để thoát ra một tiếng thở hổn hển, đầy thèm khát.

“Cái gì thế?” Chàng hỏi.

“Im đi và yêu em,” nàng lệnh.

Trong những giây phút ấy, vào thời khắc ấy, nàng quên đi mọi chuyện đã khiến nàng băn khoăn lo lắng để chỉ... đơn thuần là hiện hữu.

Sau đó mệt đứt hơi và mướt mồ hôi, nàng cảm thấy nặng nề trở lại. Billy vẫn gát cánh tay rám nắng trên cái bụng đồ sộ trắng như bụng cá của vợ. Họ nằm như thế một hồi lâu.

Thai nhi bắt đầu quậy đạp, mạnh hơn bao giờ hết.

“Em muốn biết tại sao anh lại không thích chú của em hở?” Billy mở lời.

“Quên chuyện đó đi,” nàng nói. Dầu sao nàng biết, hay nghĩ là nàng biết. “Lẽ ra em không nên nói gì cả.”

Nàng cảm nhận luồng đau đớn cháy bỏng của một cơn co thắt.

“Ô, anh cảm thấy điều đó,” Billy nói. “Đạp mạnh ghê!”

Nàng nghiến chặt hàm để gồng mình chịu cơn đau. Rồi cơn đau cũng dịu dần.

“Em có nhớ khi anh bị gãy chân vì nhảy dù?” Billy nói.

“Tất nhiên là em nhớ,” nàng nói, hơi thở chậm lại lần.

“Anh nói dối. Cả đời mình anh chưa bao giờ chơi trò nhảy dù cả.”

“Vậy thì, tại...” Nàng bỏ dở câu nói vì một cơn co thắt, dữ dội hơn, ập đến. Một hồi lâu cơn đau mới dịu xuống. “Em nghĩ đến lúc rồi,” Francesca nói. “Chắc em sắp sinh bé.”

Đêm đó, Francesca trở thành nạn nhân của tiền sử bệnh án gia đình nàng. Bà nội nàng luôn từ chối nói về chuyện đó, nhưng bà đã trải qua ít nhất là bốn lần sẩy thai. Bà ngoại nàng đi lễ trọng vào ngày 22 tháng bảy hàng năm để tưởng niệm lần sẩy thai của mình. Mẹ nàng và hai dì của nàng cũng từng chịu những lần sẩy thai.

Thai nhi của Francesca ra đời sớm cả ba tháng, đã chống chọi khá kiên cường. Bé sống được gần một ngày, và được đặt tên là Carmela, theo tên bà cố. Francesca muốn chôn cất bé gần mộ bà cố, trên phần đất nghĩa trang gia đình ở Long Island. Billy không đồng ý. Anh nghĩ đứa bé nên được chôn cất ở Florida, nơi quê nội. Nhiều tình huống - nỗi kinh sợ khi mất đứa bé và lòng hối hận của Billy ngay cả trước khi sự việc này xảy ra - đã khiến cho ý kiến của anh chỉ là biểu lộ sự bất đồng chứ không phải là một luận chứng, và Fracesca vẫn có quyền quyết định.

Michael Corleone chịu mọi chi phí cho việc chôn cất em bé. Francesca biết rằng Billy phản đối trong lòng, nhưng nàng hài lòng thấy chồng mình cũng đủ lương thức để không xúc phạm chú mình bằng cách từ chối sự giúp đỡ của ông. Lễ tang được tổ chức nhỏ thôi và tiến hành ở nghĩa trang, trong cơn bão tuyết mù mịt.

Bố mẹ của Billy không đến. Người chị em song sinh của nàng cũng không đến, chỉ gửi một điện tín từ London nói rằng nàng rất buồn khi nghe tin chẳng lành. Cậu em Frankie của nàng bỏ lỡ trận bóng giao hữu mùa xuân vì chuyện này mà không hề phàn nàn. Cậu em út Chip cũng bỏ lỡ buổi tiệc sinh nhật thứ mười sáu mà không nghĩ ngợi gì. Tình gia đình mà.

Đó là một nghĩa trang theo truyền thống Ý với hình ảnh người quá cố đặt trong các khung đá chạm để trên các bệ cẩm thạch. Trước khi rời nghĩa trang Francesca cúi xuống hôn những khuôn hình lạnh buốt trong bão tuyết. Bà nội Carmela. Ông nội Vito. Bà cố Zia Angelina. Chú Carlo. Bố nàng, Santino Corleone. Nàng nhìn vào đôi mắt tươi cười của bố và nghĩ, Gặp lại lần tới nhé, Bố yêu.

Chú Fredo mất tích và được cho là đã chết, nhưng không có hình ảnh nào của chú ở đây. Cũng không có hình ảnh của bé Carmela. Vì chưa ai kịp nghĩ chụp ảnh cho bé. Bé đã sống quá mong manh như đóa phù dung sớm nở tối tàn. Chưa vướng tội lỗi nào, chắc là hồn bé sẽ đi thẳng lên thiên đường.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3