Bố già trở lại - Phần VIII - Chương 30 - Phần 2

Geraci nhún vai. “Chưa từng nghe đến bao giờ.”

“Tất nhiên là không. Điều khác biệt là, mọi chuyện Russo làm đều được sự chấp thuận của họ, còn, đáng tiếc là, chiến dịch của bạn lại không. Hình như đó là một sự phá vỡ nghi thức (a breach of protocol) đủ nghiêm trọng để họ cho phép... ờ, chúng tôi không chắc là ai. Giả định là Russo. Thủ tiêu bạn, chuyện là thế. Bạn không rung lắc gì cả à?”

“Nó đến và đi. Một hiện tượng thuần sinh lí.”

“Nếu điều gì đó giống như chuyện này xảy đến với tôi, e rằng tôi sẽ rung lắc dữ dội.”

“Đây chỉ là một dạng của hội chứng Parkinson. Không phải sợ hãi. Không liên quan gì đến sợ hãi. Vả chăng, làm thế nào bạn biết được điều gì đó giống như chuyện này lại không xảy ra với bạn?”

“Ồ, mình chắc là nó đang xảy ra,” anh ta nói. “Bất cứ giá nào, thì mọi chuyện cũng đang di động nhanh và bạn cần phải di động còn nhanh hơn. Cái này, theo lời dạy của một bậc thầy về binh pháp - hình như là Tôn tử thì phải - gọi là dĩ nhất biến ứng vạn biến, hay gì gì đó. Tôi không chắc là về câu chữ mình có nhớ chính xác không nhưng đại khái nghĩa lí thì như thế.”

“Chứ không phải là chúng ta?”

“Ồ không,” Lucadello nói. “Không phải chúng ta. Chúng tôi chưa từng có liên hệ chút chi với bất kì chuyện gì. Bạn và tôi chưa bao giờ gặp nhau. Không hề có chúng ta. Cũng không có tôi. Điệp viên Ike Rosen không hề tồn tại trên cái cõi đời ô trược này.”

Lucadello nói rằng điều tốt nhất mà anh ta có thể làm là đưa Nick Geraci và gia đình anh khỏi nơi đó. Những tấm vé một chiều dưới những cái tên giả định, đến bất cứ nơi nào trên trái đất. Chuyện khả thi là sẽ có người đón họ ở sân bay, cho vài hướng dẫn nhanh cần thiết về việc bắt đầu một cuộc đời mới ở bất kì nơi nào họ sẽ đến. Tất nhiên là chuyện này không phải khả thi ở mọi nơi, nhưng nếu Geraci muốn nêu lên một số địa điểm nào đó, thì anh ta có thể nói chúng có phải là lựa chọn tốt hay không.

Geraci nhìn vào khẩu súng trên bàn của mình. Tên láu cá này có bị giết có lẽ cũng là đáng đời. Giết hắn có lẽ cũng không làm cho mọi chuyện tệ hơn như chúng đang là.

Thế rồi, trong một tia chớp, hầu như một thị kiến, anh nhìn thấy đường ra khỏi mê cung này, hay ít nhất làm thế nào để mua thời gian.

“Đồng ý,” Geraci nói, đưa bàn tay phải ra, bắt chước, một cách có ý thức, nghĩa phụ của mình - Vincent Forlanza. “Có bốn điều. Trước tiên” - ngón trỏ chỉ lên - “Tôi sẽ đến Sicily. Như thế tôi không cần có người của bạn đón rước, hướng dẫn gì cả. Tôi có người thân ở đó rồi. Thứ nhì” - ngón giữa giơ lên - “Tôi không bay. Chấm. Miễn bàn tại sao. Nhưng bạn giúp tôi đến nơi tôi muốn đến, và cả gia đình tôi nữa. Thứ ba” - ngón tay đeo nhẫn - “Tôi đoan chắc với bạn, là Michael Corleone, cố nhân của tôi, sẽ không giết tôi đâu, vậy nên bạn có thể kiểm tra lại nguồn tin tình báo của bạn và xem nó chuệch choạc chỗ nào. Và thứ tư” - ngón út - “Tôi quyết liệt khuyên bạn không nên giết Carmine Marino hay cho người giết cậu ta.”

“Ba trong bốn điều bạn nêu ra chúng tôi hoàn toàn đáp ứng như bạn mong muốn. Nhưng còn với Carmine, thật lòng tôi cũng yêu thích cậu ta lắm. Cậu ta không hề làm điều gì sai. Cậu ta đã đến nơi cậu ta được lệnh đến, đã bắn một phát đúng y boong mục tiêu mà chúng tôi bảo cậu ta bắn, rồi cậu ta cũng đủ khôn ngoan để nuốt xuống lòng kiêu hãnh đàn ông và ăn mặc như một phụ nữ để cố tìm cách trốn thoát. Nếu đủ quyền quyết định, tôi sẽ tưởng thưởng và tuyển dụng tiếp cậu ta, thế nhưng... ờ, tôi chỉ có thể nói là chuyện đó ngoài tầm tay của tôi. Lực bất tòng tâm, xin bạn thông cảm.”

Geraci mỉm cười. “Tên thời con gái của bà mẹ Carmine là Bocchicchio.”

Ngay cả sau khi anh đã giải thích về tài năng đánh thuê khó ai bì kịp của bộ tộc Bocchicchio nhất là khi trả thù chính đáng, Lucadello vẫn không lay chuyển.

“Vậy họ sẽ đeo đuổi ai, hở?” Lucadello nói. “Chính quyền Mỹ?”

Geraci lắc đầu. “Họ giải quyết từng em một thôi.”

“Nghĩa là gì? Tôi? Hay, chờ tí, tôi biết rồi! Họ sẽ đeo đuổi Tổng thống!”

Đột ngột, Geraci lại run. Để kiên định lại, anh đi qua lại trong phòng, bất ngờ nắm chặt áo Lucadello, kéo giật thật mạnh khiến anh chàng này ngã xuống chân anh. “Carmine hiện còn sống,” anh thì thầm. “Hãy để hắn sống nhé và họ sẽ không đeo đuổi bất kì ai.”

Chỉ có một người chèo thuyền làm việc vào lúc sáng sớm như thế, nhưng các chiếc gondolas ở đây khá lớn với lòng thuyền rộng rãi. Như Hagen chờ đợi, thủ hạ của Russo đem theo súng tiểu liên lên thuyền.

“Đừng có nhìn như thế chứ, chàng Ố nị,” Louie Russo đổi giọng, ngồi vào phía trước. “Tớ biết chú em không phải là loại lính cơ bắp. Chú mày làquân sư quạt mo ngồi trong trướng quyết việc xa ngàn dặm mà! Đáng tiếc là chú mày lại quá khinh suất dám thiên lí tẩu đơn kị vào tận long đàm hổ huyệt của ta. Giờ thì cá nằm trên thớt rồi đừng vùng vẫy, giãy nãy chỉ vô ích. Hãy thư giãn và ta sẽ ân hạn cho sống lâu hơn chút chút. Tin ta đi. Lời danh dự của thống lĩnh đấy.”

Mấy tên bộ hạ của lão cười hùa theo để nịnh thủ lĩnh của bọn chúng. Người chèo thuyền quay mắt đi và không nói năng gì. Anh ta bắt đầu đưa họ qua cái hồ nhân tạo hôi thối. Cuối cùng anh ta và Hagen giao tiếp bằng mắt. Hầu như không ai thấy, anh ta gật đầu.

Hagen thôi đổ mồ hôi. Một cảm giác yên bình tràn qua người anh. Russo đang ba hoa về chuyện bằng cách nào hắn ta gầy dựng nên cơ ngơi này với vẻ đắc chí thấy rõ, và hắn muốn Hagen trước khi lìa đời cũng phải tâm phục khẩu phục tài trí của hắn, nhưng dĩ nhiên là Hagen đâu thèm nghe lời hắn, mà chỉ lo tập trung động não để ứng phó sao cho hữu hiệu nhất trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc này. Anh quan sát bờ bên kia, dự kiến lúc đi đến giữa hồ, cúi người xuống vừa đủ để không ai lưu ý là anh đang tháo dây nịt (thắt lưng) ra.

Được nửa đường, người chèo thuyền rút mái dầm lên khỏi mặt nước. Anh ta đã thực hiện hàng vạn cuộc chèo thuyền qua lại cái hồ này rồi và công việc đó giúp cho anh ta có đôi cánh tay khỏe đến độ bất kì đại lực sĩ nào cũng phải ghen tị! Khi Hagen rút dây nịt ra và cầm hai đầu kéo thẳng ra, anh chàng chèo thuyền vung mái chèo, tháo xiềng xích cho cơn giận bị dồn nén từ lâu của một người đã bỏ ra bao nhiêu năm muốn làm chuyện này đối với tất cả những tên bố láo huênh hoang vẫn ngồi trên chiếc gondola mà anh ta phục dịch việc chèo qua lại trên hồ. Hôm nay, chiếc hồ này sẽ thành dòng sông địa phủ Achéron cho các người đây. Chiếc mái chèo của anh ta vụt đánh bốp - với tất cả sức mạnh cuồng nộ bị kìm hãm từ lâu nay - vào sọ của một trong hai tên vệ sĩ khiến y đổ gục xuống tức thì, không kịp kêu lên tiếng nào. Không thể có ngón tuyệt kĩ nào hiệu quả hơn!

Tên kia lủi một vòng để tránh nhưng trước khi kịp giương súng để bắn thì y đã bị giật đầu ngã ngược ra sau. Chiếc dây nịt da của Tom Hagen đã siết chặt vào cổ y và một đầu gối anh chèn sau lưng y khiến y ngước mặt lên trời rồi thè lưỡi ra, mắt trợn ngược, cứt đái cùng lúc tháo chạy tán loạn ra khỏi người y, thối um, khai ngấy!

Người chèo thuyền rất nhanh chóng bỏ mái chèo chộp lấy khẩu súng nơi người chết đầu tiên và chỉa mũi súng vào mặt Louie Russo.

Con mồi trong tay Hagen dãy dụa, giật giật mấy cái, mặt tím tái rồi toàn thân cứng đờ. Tom Hagen đẩy y ngã sấp mặt xuống sàn thuyền.

Russo dợm nhảy và làm động tác bơi, nhưng trước khi y kịp ra khỏi thuyền, người chèo thuyền đã nắm vào phía sau cổ áo y rồi giữ chặt y lại. Cặp mắt kính của y rơi tõm xuống nước.

Ông Trùm với những ngón tay nhỏ nhắn, có phần ẻo lả, bắt đầu ca bài ca con cá. “Em cắn rơm cắn cỏ lạy quý ông anh tha cho cái mạng heo chó của em. Quý ông anh muốn gì em cũng xin chiều. Em không dám tiếc cái gì cả, miễn là được sống. Thế nhé, quý anh nhé!” Và lão cộp cộp côp, dập đầu ba lần vào mạn thuyền, hành đại lễ xin tha mạng.

“Đừng có cợt nhã với ta bằng những trò ba hoa đó,” Hagen nói. Anh rút khẩu.22 có gắn bộ hãm thanh ra khỏi áo khoát của kẻ bị anh giết. Đồ chơi hàng tuyển của thích khách. Hai tay anh tê tê ngứa ran do cố gắng vận sức để siết cổ tên kia cho chết đứ đừ đừ. “Mi đã dự tính giết ta,” Hagen nói, giật giật khẩu súng trước mặt Russo. “Nhưng kiến đã không ăn được cá thì giờ đây cá lại xơi kiến. Có ý kiến ý ruồi gì không? Có buồn không dzậy? Nhưng buồn mà chi em. Ráng dzui lên trước khi chết thì sẽ được đi đầu thai sớm hơn. Hiểu được cái đạo lí đó không hở, bồ tèo?”

“Ông anh điên rồi,” Russo thút thít, rên rỉ. “Đó chỉ là khẩu súng. Nó đâu có nghĩa gì. Nó đâu có tội tình gì.” Trong cơn quýnh quáng, y nói mà không còn biết mình nói gì, chỉ còn biết nói cho đỡ sợ, đồng thời cũng hi vọng mong manh là kẻ thù động lòng, nghĩ rằng tha cho mình thì có lợi hơn, hoặc là chùng chình chưa giết mình ngay thì biết đâu, nhờ phúc đức ông bà tổ tiên nhà ta, mà sẽ có viện binh đến kịp lúc... Sắp chết đuối thấy cọng rơm cũng vớ. Là thế.

“Ờ, súng đạn thì chẳng có tội tình gì nhưng mi thì có đấy! Mà ngay cả nhà ngươi có ngây thơ vô (số) tội thì ta cũng đếch cần biết. Mi đã cho Roth ý tưởng cài bẫy cho Fredo phản bội Gia đình, và mi dàn dựng mọi chuyện với bộ hạ của mi ở L.A. Mi đã làm hàng trăm chuyện khác khiến ta giận sôi gan nên mới giết mi đây.”

Anh?” Nước mắt Russo làm nhòa đi hiệu ứng của đôi mắt hiểm độc, quỷ quyệt của y. Nước mũi chảy ròng ròng từ cái mũi giống như con c... t đỏ bầm nằm giữa mặt y. “Giết tôi? Anh đâu phải bên , anh bạn Ái Nhĩ Lan. Anh là một luật sư, một Hạ nghị sĩ mà. Anh nghĩ là họ sẽ để yên cho anh sao, chàng Ái Nhĩ Lan khôn ngoan, đa mưu túc trí.”

Suốt cuộc đời trưởng thành của Hagen thiên hạ đều nghĩ lầm về anh. Trước tiên và trên tất cả anh là một thằng nhóc Ái Nhĩ Lan cùng khổ sống lang thang trên đường phố. Đứa bé ấy đã chui rúc trong những bụi cây và trong những đường ngầm suốt cả mùa đông ở New York và từng thắng trong những trận đánh đấm nhau với người lớn để giành lấy nửa ổ bánh mì đã mốc meo. Tính cạnh tranh khốc liệt để sinh tồn trong quãng đời niên thiếu đó đã giúp anh có những kĩ năng về cơ bắp và thể lực ít ai ngờ tới nếu chỉ biết anh như một học sinh, một sinh viên, con nuôi của một gia đình giàu có và quyền thế (cả trong thế giới nổi lẫn trong thế giới ngầm), rồi thành ông luật sư chỉ xách các - tắp, ngồi bàn giấy và múa võ mồm. Khối người bé cái nhầm là vì thế.

Hagen nâng khẩu súng ngắn lên. Giờ đây đến lượt anh cười khảy.

“Nếu bạn sống trong hang sói đủ lâu,” Hagen nói, “ắt bạn cũng biết tru như sói.”

Anh khạc lửa. Viên đạn xé vào não Louie, nhảy thia lia vòng quanh sọ lão ta, và không tạo ra lỗ thoát như kiểu một viên đạn có khẩu độ lớn sẽ tạo hiệu ứng như thế.

Hagen ném khẩu súng xuống hồ.

Anh và anh chàng chèo đò nhanh chóng, lặng lẽ buột những vật nặng vào ba tử thi và ném chúng ra khỏi thuyền. Không ai thấy họ. Anh chàng chèo thuyền đưa Hagen trở lại bờ rồi đi cọ sạch chiếc thuyền với một dung dịch tẩy. Anh không thấy vết máu nào nhưng giữ an toàn vẫn tốt hơn. Ăn vụng trứng nếu chỉ chùi mép cho sạch thì vẫn chưa an toàn mà phải đánh răng súc miệng thật kĩ mới không sợ bị phát hiện. Nhớ nhé!

Hagen lấy xe của Louie Russo và lái để chuồn đi. Anh chàng chèo thuyền sẽ sẵn sàng thề trên linh hồn bất tử của bà mẹ thánh thiện của mình rằng mình đã thấy tận mắt chiếc xe của Russo phóng đi xa.

Chiếc xe được tìm thấy hai ngày sau nơi bãi đậu xe của sân bay. Báo chí đăng tin rằng những hành khách với bất kì một trong nhiều biệt danh được biết là từng được Louie Mặt Đéo dùng đã lên máy bay ngày hôm đó. Không có cái nào trong những cái tên này tương ứng với người thật nào.

Những vệ sĩ là các chiến binh trung thành, tin cậy của Russo, những người mà rất khó, nếu không nói là bất khả cho nhà Corleones lung lạc, mua chuộc. Đàng khác, chàng chèo thuyền nọ, trong không đầy một năm, đã làm được việc đáng giá hơn cả kho tàng của Russo. Sau một tháng người ta tìm thấy xác của Russo và hai chiến binh của lão. Nhưng họ đâu phải là những cái xác duy nhất nơi đáy hồ nọ. Còn nhiều, nhiều những cái xác vô danh nữa chưa được nhận dạng và có lẽ cũng không ai “hưỡn” để nhọc công đi làm việc đó để mà ăn cái giải gì! Requyescat in Pace! Hãy để cho họ yên nghỉ. Cái hồ đầy axít đã tăng tốc quá trình phân hủy. Khi cảnh sát bang cho tháo nước rút cạn hồ và lớp bùn trên cùng được hút đi thì xương người lộ ra ngổn ngang cũng gần bằng với khi người ta bốc mộ di dời cả một nghĩa trang, phần lớn được cho vào những bao súng tiểu liên, những va li lớn hay những thùng đựng dầu được chèn thêm những vật liệu nặng như sõi đá, sắt thép...

Vào lúc đó thì tay chèo thuyền biến mất.

Không một nhân viên công lực nào cũng chẳng một ai trong bộ sậu Chicago tìm ra được chàng ta. Chàng ta sống hết những năm tháng còn lại dưới một cái tên khác trong một thị trấn nhỏ ở Nevada, quản lí một cửa hàng bán súng và một nghĩa trang tư nhân trên đất mua lại của chính quyền liên bang (bằng tiền của người khác), chỉ cách những vành đai ngoằn ngoèo, bị nhiễm phóng xạ của Doomtown có vài mươi dặm. Quả là một con người sống giữa thế kì hai mươi mà hành động như một hiệp khách thời Xuân Thu Chiến Quốc. Sự liễu phất y khứ, Thâm tàng thân dữ danh (Xong việc rũ áo biến, Ẩn sâu thân cùng danh - Hiệp khách hành. Lí Bạch, P.Q.Đ. dịch).

Joe Lucadello gọi từ một điện thoại trả tiền liền chỉ cách nhà Geraci chưa đầy một dặm và kể lại cho Michael Corleone mọi chuyện. Lời nói dối mà anh ta bịa ra về Russo, lời nói thật mà anh kể về Michael. Những chi tiết về chuyến tàu sẽ đưa Geraci đi Sicily. Một mình. Vợ con anh ta sẽ không đi chung với anh ta, điều này sẽ làm cho mọi chuyện dễ dàng hơn.

“Tiếc là chúng ta đã không cho thực hiện chuyện đó ở ngay đó,” Lucadello nói, ý chỉ Cuba. “Mình biết là bạn mong như vậy.”

“Chúng ta còn sống để chiến đấu vào một ngày khác nữa,” Michael nói. “Một người còn đòi hỏi gì hơn nữa ở cuộc đời?”

“Có thể hơn một chút thôi,” Joe nói. “Nhưng chỉ khi người ta trẻ.”

Tại tư dinh ở Chagrin Falls, Vincent Forlanza thức giấc trong bóng tối, thở một cách khó khăn, với cảm giác nhức buốt quen thuộc của một con voi đứng trên ngực mình. Ông cố bấm chuông để gọi cô điều dưỡng. Ông biết cú đột quỵ tim mạch khi ông có nó. Đây không phải là lần đầu, và cũng chẳng có cơ may là lần cuối. Song không đến nỗi tệ như những lần khác. Giống chú voi con hơn. Mặc dầu có lẽ là do ông đã quen với nó.

Cô điều dưỡng gọi xe cứu thương. Cô cố làm những gì mình có thể và nói với ông rằng ông sẽ ổn thôi. Cô không phải là một chuyên gia về tim mạch, nhưng cô hiểu điều mình nói. Bởi nhìn cho kĩ thì những dấu hiệu sự sống nơi ông còn tốt.

Vincent Forlanza là một người thận trọng. Ông Trời hình như cũng phải khó khăn để gọi lão già ngoan cố này về chầu mình, và lão ta càng là một món dai nhách khó nhằn đối với người trần. Bởi mặc dầu tuổi cao sức yếu, bệnh tật hiểm nghèo như vậy nhưng ai dễ gì đụng đến lão. Biết bao nhiêu người thân tín lo chăm sóc, bảo vệ cho lão. Biết bao nhiêu tường thành kiên cố vây quanh lão. Tư dinh ở đây và khu phức hợp có phần nổi và phần ngầm của lão ở Rattlesnake Island (Đảo Rắn Rung chuông) được xây dựng vô cùng kiên cố và được canh giữ rất cẩn mật. Đã nhiều năm rồi kể từ lúc Forlanza bước vào một chiếc xe hay chiếc thuyền mà không bảo thuộc hạ kiểm tra kĩ có ám khí nào được cất giấu trong đó không. Thường lệ ông cho hai thuộc hạ làm việc đó mà hai kẻ này rất là không ưa nhau, luôn tranh công, kèn cựa nhau và luôn muốn phát hiện ra kẻ kia đang phản chủ. Ông không ăn món nào không được chế biến dưới sự chứng kiến của ông. Nhưng ngay cả Don Forlenza, trong giờ cần đến chăm sóc y tế, cũng không hề có ý nghĩ tra vấn những người đến để cứu mạng mình. Những người trông coi nhà cửa và các vệ sĩ cũng không. Cả cô điều dưỡng, vốn thấy không có gì bất thường trong cách xử lí người bệnh của những người trên xe cứu thương. Cũng không có gì bất thường nơi chiếc xe cứu thương - cho đến khi nó rời đi và chỉ một thời gian ngắn sau đó, một chiếc khác giống hệt trờ tới.

Chiếc xe cứu thương thứ nhất được tìm thấy vào ngày hôm sau, một dãy phố cách nơi nó đã bị lấy trộm. Ông Trùm Do Thái Vincent Forlanza từ ngày ấy tuyệt tích giang hồ, không hẹn nhân gian thấy bạc đầu.

Trong lô dành cho gia đình nơi sân vận động, Tom và Theresa Hagen và cậu con đẹp trai của họ, Andrew đứng lên để chào quốc kỉ. Tom đặt nắm tay lên ngực và thấy mình đang hát theo.

Thường thì anh chỉ lầm bầm thôi mà,” Theresa nói.

“Đây là một xứ sở quá vĩ đại,” Tom nói. “Không nên chỉ lầm bầm khi hát quốc ca.”

Frankie Corleone là cầu thủ nhỏ người nhất trong hàng phòng ngự của đội Notre Dame, nhưng ở hiệp nhất ngay trong thời điểm chờ phát bóng cậu đã sút bóng vượt tuyến và bóng đập vào tay hậu vệ khổng lồ của đội Syracuse Orangement mạnh đến nỗi đầu chàng ta bật ra sau rồi cả thân mình cũng ngã theo. Đám đông la hét nháo nhào nhưng Frankie vẫn lững thững chạy đến trước đám đông lộn xộn kia như thể cu cậu chẳng làm điều gì bất thường.

“Frankie!” Andrew hét lên.

“Cháu ơi!” Theresa gọi.

Tom và Theresa ôm nhau, còn chàng hậu vệ đội Syracuse lắc lư bước ra khỏi sân mà không cần cáng.

Sang hiệp sau, Syracuse cố vượt lên. Khung thành của Notre Dame đang để hở vì thủ môn đã lao ra trái hướng. Ngay lúc quả bóng lừng lững sắp chui tọt vào khung thành thì Frankie vụt xuất hiện từ đâu không biết và đập mạnh cho quả bóng tạt ngang ra biên.

“Hay, hay quá!” Theresa hò reo.’ Tiến lên, Frankie!”

“Hảo Thủ!” Tom reo hò. Đó là biệt danh của cháu anh. Anh không cho phép mình nghĩ tới nghĩ lui gì về điều đó cả.

“Lẽ ra Má phải cổ vũ cho đội Syracuse chớ?” Andrew chế giễu mẹ mình (Vì Syracuse là trường cũ của Theresa).

Hôm ấy là một ngày đẹp trời của tháng mười một, rất thích hợp để chơi bóng, thời tiết khô lạnh và đang tranh đấu để có mặt trời. Mọi người còn nên đi xem một trận cầu ở Notre Dame nữa tại sân vận động Golden Dome.

“Chuyện này là khác,” Theresa trả lời con. “Gia đình mà.”

Nơi cảng Palermo, Michael Corleone ngồi trên boong của chiếc du thuyền yacht thuộc về ông bạn cũ của bố anh, Cesare Indelicato. Michael chưa bao giờ du hành với nhiều người tháp tùng đến thế vì lí do an ninh như trong lần này nhưng Don Cesare không lấy thế làm phiền lòng bởi họ đang sống trong thời buổi xáo trộn.

Michael ngồi vào một chỗ tiện nghi thoải mái, chỉ cách vài trăm mét đối với Geraci khi anh chàng này đến Sicily, để có được sự thống khoái lúc chứng kiến anh chàng này bị bắt khỏi thuyền bởi những sát thủ thiện nghệ nhất của Sicily.

Michael sẽ phải quay trở về New York. Khác với Hagen, những nhân vật xuất sắc mà Gia đình Corleone còn lại đều đặt ra những nguy cơ khó thể chấp nhận bởi những liên hệ của họ với Geraci. Những bộ mặt khác thì cũng vào hạng “lục lục thường tài” thôi như Eddie Paradise hay anh em DiMiceli. Michael sẽ phải điều hành Gia đình trở lại, phải để mắt đến mọi mặt. Anh sẽ có thể làm cho có vẻ như anh đang quay về trong chiến thắng, anh chắc như thế - việc loại trừ Louie Russo và Vincent Forlanza sẽ củng cố điều đó, ít nhất là trong mắt của những tay chóp bu từ các Gia đình New York khác. Nhưng biết bao những điều mà Michael từng mong ước - tính hợp pháp, bình yên, tình yêu của vợ và con cho mình, một cuộc đời khác và tốt hơn là cuộc đời bố mình đã sống giờ đây đã ngoài tầm với của anh: trong nhiều năm và có lẽ là mãi mãi.

Vết thương nhức buốt này sẽ không hề dịu đi bởi việc giết Geraci. Anh biết thế.

Sẽ không có lạc thú nào để rút ra từ một điều như thế. Anh cũng biết như thế.

Tuy nhiên.

Trong khi họ chờ đợi, Don Cesare - theo cái cách gián tiếp kiểu Sicilian tiêu biểu của ông ta - bàn luận về những lợi ích của việc làm thành viên Tổ chức Tam điểm La mã (Roman Masonic Organization) mà tên gọi, Propaganda Due, ông ta không cần phát âm nhưng vẫn được hiểu ngầm giữa những người này. P2, như nó thường được gọi (mặc dầu Indelicato cũng không nói điều này), là một hội kín được đồn đãi là còn mạnh hơn cả Mafia, Tòa thánh Vatican, CIA và KGB cộng lại. Michael đang được lôi kéo làm thành viên, và nếu mọi chuyện suôn sẻ, anh sẽ là người Mỹ đầu tiên được chấp thuận vào hội. Ngay cả Bố anh xưa kia cũng chưa được xem xét vinh dự này. Đây là một dấu hiệu cho thấy rằng, ngay cả đang lúc dư luận còn ồn ào về thất bại của vụ ám sát nhà lãnh tụ Cuba, những nhóm quyền lực nặng kí nhất vẫn hiểu rằng Michael Corleone đã được an bài để đảm nhận vai trò như là thế lực khuynh loát nhất trong thế giới ngầm ở Mỹ. Bất kì người nào khác ở vào địa vị Michael cũng sẽ “thấy phê” vì được vuốt ve tự ái và anh mạo hiểm làm ra vẻ như thế.

Cuối cùng con tàu lọt vào tầm nhìn. Michael chiêu một ngụm nước lạnh và dõi mắt quan sát những người mà Indelicato đã cài cắm ở bến tàu.

Con tàu vào bến.

Hành khách lần lượt rời tàu.

Chẳng thấy bóng dáng Nick Geraci đâu.

Indelicato gật đầu ra hiệu cho một người ở trên mái chiếc du thuyền yacht, anh ta vẫy một lá cờ màu cam, ra hiệu cho những người trên bờ thâm nhập con tàu kia và đi tìm mục tiêu.

“Họ sẽ tìm ra hắn ta thôi,” Don Cesare nói. “Đây toàn là những tay thiện chiến, và hắn ta không có nơi nào khác để đi.”

Nhưng chẳng mấy chốc đài phát thanh từ tàu đến bờ rạn vỡ với tin xấu. Mục tiêu dường như đã “né đẹp” họ.

Nổi điên, Michael kêu đài phát thanh gọi về Mỹ.

Anh không tiếp xúc được với Joe Lucadello, nhưng phụ tá của anh ta bảo đảm với Michael rằng không có gì chuệch choạc cả. Họ đã phải dùng nhiều lớp trung gian để che giấu nhân thân của người đó, nhưng người phụ tá bảo đảm với anh rằng, trừ phi anh chàng kia nhảy ào xuống đâu đó vào lòng Địa Trung Hải, thì anh ta phải ở trên con tàu đó. Tôi bảo đảm với anh đó là hắn ta,” người phụ tá nói. “Tôi có đầy đủ giấy tờ trước mặt đây. Fausto Geraci. Passport, hình ảnh, mọi thứ.”

Huýt sáo một điệu dân ca Palermo mà mẹ hát ru cho mình khi còn tấm bé, Fausto Geraci cha, biến đi dưới vòm cung xưa bằng đá gần bến tàu vào khu thành nội Palermo.

Cesare thú nhận mình cũng bối rối trước các tình huống, chẳng khác chi Michael.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3