Công tước và em - Mở Đầu
Mở đầu
Ngày sinh của Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset, Bá tước
Clyvedon, trùng với ngày lễ lớn. Nhà thờ đổ chuông trong hàng giờ liền, rượu
sâm banh được hào phóng xả lênh láng trong khuôn viên tòa lâu đài khổng lồ, nơi
cậu bé mới sinh gọi là nhà, và cha ngài Bá tước nhỏ tuổi đề nghị toàn thể dân
làng Clyvedon nghỉ việc để tham dự yến tiệc và kì nghỉ.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com/ - gác nhỏ cho người yêu
sách.]
“Đây không phải đứa trẻ bình thường đâu,” bác bán bánh mì
nói với người thợ rèn.
Vì Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset không phải cả đời
sẽ sống với tước vị Bá tước Clyvedon. Đó chỉ là một tước vị có được do ưu đãi.
Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset - cậu bé con có nhiều tên hơn bất kì đứa
trẻ nào khác - là người thừa kế một trong những tước Công lâu đời nhất và giàu
có nhất nước Anh. Và cha cậu bé, ngài Công tước Hastings đời thứ chín, đã chờ đợi khoảnh khắc
này hàng bao nhiêu năm rồi.
Khi đứng trong đại sảnh bên ngoài phòng sinh của vợ, nâng
niu đứa con đỏ hỏn đang khóc ầm ĩ trong tay, trái tim ngài Công tước gần như nổ
tung vì tự hào. Giờ quá bốn mươi tuổi rồi, ngài đã chứng kiến biết bao người
bạn của mình - tất cả đều là Công tước và Bá tước - sinh ra hết người thừa kế
này đến người thừa kế nọ. Nhiều người buộc phải chấp nhận có một vài cô con gái
rồi mới sinh được đứa con trai quý giá, nhưng cuối cùng, tất cả họ đều được yên
lòng vững dạ vì dòng dõi của họ sẽ tiếp tục, dòng máu của họ sẽ được truyền lại
cho thế hệ tinh hoa tiếp theo của nước Anh.
Nhưng với ngài Công tước Hastings thì không phải vậy. Mặc dù trong
suốt cuộc sống vợ chồng mười lăm năm của họ, vợ ngài đã năm lần mang thai, song
chỉ hai lần bà hạ sinh, và cả hai lần con ngài đều chết yểu ngay khi mới chào
đời. Sau lần mang thai thứ năm, kết thúc bằng vụ sẩy thai vào tháng thứ năm của
thai kì, các bác sĩ đều cảnh báo họ không nên thử thụ thai thêm bất kì lần nào
nữa. Mạng sống của chính nữ Công tước đang trong tình trạng nguy hiểm. Bà quá
yếu, quá mỏng manh, và có thể, họ nhẹ nhàng nói, quá lớn tuổi rồi. Ngài Công
tước chẳng thể làm gì ngoài việc đành cam chịu thực tế rằng tước Công rồi sẽ
không còn liên quan đến dòng họ Basset nữa.
Nhưng nữ Công tước, Chúa phù hộ cho bà, biết rõ vai trò của
mình, và sau sáu tháng phục hồi sức khỏe, đã mở cánh cửa thông giữa hai phòng
ngủ, và ngài Công tước lại tiếp tục công cuộc kiếm tìm một đứa con trai.
Năm tháng sau, nữ Công tước báo cho ngài biết bà đã có mang.
Tâm trạng ngài Công tước lập tức phấn chấn hẳn lên với một niềm tin không gì
lay chuyển được - chắc chắn là không gì lay chuyển được - rằng lần mang thai
này sẽ thành công. Nữ Công tước đang nằm liệt giường tại thời điểm nhận ra mình
đã trễ tháng. Bác sĩ đến khám cho bà mỗi ngày, và suốt thời kì mang thai ấy,
ngài Công tước đã tìm đến vị bác sĩ uy tín nhất ở London và trả cho ông ta một khoản hậu hĩnh
để ông tạm thời rời phòng mạch đến sống ở lâu đài Clyvedon.
Ngài Công tước lần này quyết không phó mặc số phận nữa.
Ngài sẽ có một đứa con trai, và tước vị sẽ vẫn
nằm trong tay dòng họ Basset.
Nữ Công tước trải nghiệm sự đau đớn sớm hơn một tháng, người
ta liền lót đệm xuống dưới hông bà. Trọng lực sẽ giúp đứa bé bên trong, bác sĩ
Stubbs giải thích. Ngài Công tước nghĩ đó là một lập luận có cơ sở, và đến
chiều khi vị bác sĩ đi nghỉ, ngài luồn thêm một tấm đệm khác cho vợ ngài, giúp
bà nằm nghiêng theo một góc hai mươi độ. Bà giữ yên tư thế ấy suốt một tháng.
Rồi cuối cùng, khoảnh khắc quyết định cũng đã đến. Tất cả
mọi người đều cầu nguyện cho ngài Công tước vốn luôn khao khát có người thừa
kế, và có một số người còn nhớ đến chuyện cầu nguyện cả cho nữ Công tước, vốn
càng ngày càng mảnh khảnh và yếu ớt, ngay cả khi vòng bụng mỗi lúc một thêm
tròn và to hơn. Tất cả đều cố gắng không hi vọng quá nhiều - xét cho cùng, nữ
Công tước đã hai lần hạ sinh và cả hai lần đều phải chôn đứa bé. Ngay cả nếu
như bà mẹ tròn con vuông thì đứa trẻ ấy, chà, rất có thể là một bé gái.
Khi tiếng hét của nữ Công tước càng lúc càng lớn và lặp lại
thường xuyên hơn, ngài Công tước xô cửa bước vào phòng bà, mặc kệ lời phản đối
của bác sĩ, bà đỡ và cả đám hầu gái. Cho dù nơi đây có là chốn máu me hỗn độn
thì ngài vẫn nhất quyết phải ở đây để chứng kiến giây phút được biết giới tính
của đứa bé.
Đầu đứa bé xuất hiện trước, rồi đến bờ vai. Ai nấy đều vươn
người về phía trước để quan sát nữ Công tước căng mình ra rặn, và rồi...
Và rồi ngài Công tước đã biết rằng Chúa có tồn tại, và Chúa
vẫn mỉm cười với toàn thể dòng tộc Basset. Ngài cho bà đỡ một phút để lau sạch
đứa bé, để bà đặt cậu nhóc nhỏ bé vào vòng tay ngài, rồi ngài hùng dũng tiến
vào đại sảnh để khoe cậu với cả thế giới.
“Ta có một đứa
con trai!” ngài gầm lên. “Một đứa con trai nhỏ xíu hoàn hảo!”
Và trong lúc tất
cả người hầu vỗ tay thở phào nhẹ nhõm, ngài Công tước cúi nhìn vị Bá tước tí
hon mà nói. “Con thật hoàn hảo. Con mang họ Basset. Con là của ta.”
Công tước muốn ẵm
cậu ngài ra ngoài để chứng minh với mọi người rằng cuối cùng ngài đã cho ra đời
một thằng bé khỏe mạnh, nhưng vào ngày đầu tháng Tư đó trời đang se se lạnh,
vậy là ngài đành cho phép bà đỡ mang thằng bé đến chỗ mẹ nó. Ngài Công tước leo
lên một trong những con ngựa đua xuất sắc của mình mà cưỡi đến bữa tiệc tùng,
hét vang về vận may của mình cho bất kì ai chịu lắng nghe.
Trong lúc đó, mất
quá nhiều máu sau khi sinh, nữ Công tước dần dần chìm vào hôn mê, rồi cuối cùng
bà ra đi.
Ngài Công tước
tiếc thương vợ. Ngài thực sự tiếc thương. Ngài không yêu bà, dĩ nhiên, và bà
cũng chẳng yêu ngài, nhưng họ đã là bạn bè theo một cách thức xa cách lạ kì nào
đó. Ngài Công tước không mong mỏi gì hơn từ cuộc hôn nhân này ngoài một đứa con
trai và một người thừa kế, và xét trên phương diện này, vợ ngài đã chứng tỏ là
một người vợ mẫu mực. Ngài bố trí người đặt hoa tươi bên cạnh mộ phần của bà
hằng tuần, bất kể đó là mùa nào trong năm, và bức chân dung của bà được chuyển
từ phòng khách vào đại sảnh, tại một vị trí trang trọng trên lồng cầu thang.
Sau đó, ngài Công
tước bắt đầu xúc tiến công cuộc nuôi dạy cậu con trai.
Tất nhiên, ngài
chẳng có mấy việc để làm trong năm đầu tiên. Con ngài vẫn còn quá nhỏ cho những
bài học về quản lí đất đai và trách nhiệm, nên ngài Công tước để Simon lại cho
bảo mẫu và lên đường đi London, để rồi tại đây, cuộc sống của ngài vẫn tiếp
diễn như trước khi ngài được ban cho vai trò làm cha, ngoại trừ việc ngài buộc
tất cả mọi người - thậm chí cả đức Vua - phải chiêm ngưỡng bức tranh nhỏ họa
hình con trai ngài ngay sau khi thằng bé chào đời.
Ngài Công tước
thỉnh thoảng ghé thăm Clyvedon, rồi chuyển hẳn về vào dịp sinh nhật hai tuổi
của Simon, sẵn sàng đảm nhận trách nhiệm dạy dỗ thằng bé. Ngài mua một chú ngựa
con, chọn sẵn một khẩu súng nhỏ để cậu bé sau này đi săn cáo, và ngài cũng thuê
trước gia sư để dạy mọi môn học cần thiết cho con trai ngài.
“Cậu ấy còn quá
bé cho tất cả những thứ này!” bảo mẫu Hopkins la lên.
“Vớ vẩn,”
Hastings đáp trả với vẻ bề trên. “Rõ ràng là ta không trông đợi thằng bé mau
chóng nắm vững hết được bất cứ vấn đề nào trong số này, nhưng không bao giờ là
quá sớm để bắt đầu giáo dục một Công tước.”
“Cậu ấy có phải
Công tước đâu,” bà bảo mẫu lẩm bẩm.
“Nó sẽ là Công
tước.” Hastings quay lưng đi và cúi xuống cạnh cậu con trai lúc này đang xây
một tòa lâu đài xiêu vẹo bằng những hình khối trên sàn. Ngài Công tước đã không
xuống Clyvedon trong vài tháng, và rất hài lòng với sự trưởng thành của Simon.
Cậu bé giờ đây đã là một cậu trai cứng cáp, khỏe mạnh, với mái tóc nâu bóng
mượt và đôi mắt xanh dương trong trẻo.
“Con đang xây cái
gì thế, con trai?”
Simon mỉm cười
chỉ cho cha cậu.
Hastings ngước nhìn bảo mẫu Hopkins. “Thằng bé không nói à?”
Bà lắc đầu. “Vẫn
chưa, thưa ngài.”
Công tước cau
mày. “Nó đã hai tuổi. Lẽ ra nó phải biết nói rồi chứ?”
“Một vài đứa trẻ
cần nhiều thời gian hơn những đứa khác, thưa ngài. Cậu ấy thực sự là một cậu bé
thông minh.”
“Dĩ nhiên thằng
bé thông minh rồi. Nó là người nhà Basset cơ mà.”
Bà bảo mẫu gật
đầu. Bà luôn luôn gật đầu mỗi khi ngài Công tước nói về sự vượt trội của dòng
dõi Basset. “Có thể,” bà gợi ý, “cậu ấy chỉ là không có gì muốn nói thôi.”
Ngài Công tước
trông không có vẻ gì là bị thuyết phục, nhưng ngài chỉ đưa cho Simon chú lính
chì đồ chơi, vỗ nhẹ vào đầu thằng bé rồi rời khỏi nhà để tập luyện với con ngựa
cái ngài mới mua từ Hầu tước Worth.
Tuy nhiên, hai
năm sau, ngài không còn lạc quan được nữa.
“Tại sao nó
vẫn chưa nói?” ngài phát hỏa.
“Tôi không biết,”
bà bảo mẫu trả lời, vặn xoắn hai bàn tay.
“Bà đã làm gì
nó?”
“Tôi không làm gì
cả!”
“Nếu bà thực hiện
đúng đắn công việc của mình,” Công tước giận dữ chĩa ngón tay về phía Simon,
“thì đáng lẽ nó phải nói được rồi mới phải.”
Simon, đang tập
viết tại cái bàn nhỏ của mình, quan sát cuộc cãi vã với vẻ thích thú.
“Nó đã bốn tuổi
rồi, khốn kiếp thật,” Công tước rống lên. “Lẽ ra nó phải nói được rồi chứ.”
“Cậu ấy biết
viết,” bà bảo mẫu vội nói. “Tôi đã nuôi năm đứa trẻ, ấy vậy nhưng chẳng đứa nào
biết viết như cậu chủ Simon.”
“Viết tốt để làm
cái quái gì nếu nó không nói được chứ.” Công tước Hastings quay qua Simon, cơn
thịnh nộ cháy bùng trong ánh mắt. “Nói đi, thằng ranh con!”
Simon lùi lại,
môi dưới run lên.
“Thưa ngài!” bà
bảo mẫu kêu lên. “Ngài đang làm đứa bé sợ đấy.”
Công tước
Hastings quay phắt lại đối diện với bà. “Có lẽ cũng cần phải làm cho nó sợ.
Hoặc có lẽ cái nó cần là sự trừng phạt thích đáng. Có lẽ một cú chọc ra trò sẽ
giúp nó tìm lại được giọng nói đấy.”
Ngài Công tước
chộp lấy cái lược cán bạc mà bà bảo mẫu đã dùng để chải tóc cho Simon và tiến
về phía thằng bé. “Ta sẽ làm cho con nói, thằng nhỏ ngốc nghếch...”
“Không!”
Bà bảo mẫu há hốc
miệng. Công tước đánh rơi lược. Đây là lần đầu tiên cả hai nghe thấy giọng nói
của Simon.
“Con vừa nói gì?”
Công tước thì thầm, nước mắt ứa ra.
Nắm chặt bàn tay
ép vào hai bên sườn, Simon hếch cái cằm nhỏ của mình lên mà nói, “Đừng
đ-đ-đ-đ-đ-đ...”
Mặt ngài Công
tước tái nhợt như người chết. “Nó nói gì thế?”
Một lần nữa Simon
cố gắng nói thành câu. “Đ-đ-đ-đ-đ-đ-đ...”
“Lạy Chúa tôi.”
Công tước thở hắt ra, kinh hãi. “Thằng bé là đứa thiểu năng.”
“Cậu ấy không
phải người thiểu năng!” bà bảo mẫu thét lên, vòng tay che chở cậu bé.
“Đ-đ-đ-đ-đ-đ-đ-đừng
đ-đ-đ-đ-đ-đ-đánh,” Simon hít một hơi thở sâu, “con.”
Hastings rũ xuống
chỗ ngồi bên cửa sổ, gục đầu vào tay. “Ta đã làm gì để bị như thế này? Ta có
thể làm gì...”
“Ngài nên khen
ngợi cậu bé!” bảo mẫu Hopkins nhắc nhở. “Ngài đã đợi suốt bốn năm để nghe cậu
ấy nói, và...”
“Và nó là một
thằng ngốc!” Công tước Hastings
gầm lên. “Quỷ thần ơi, một thằng nhỏ ngốc nghếch đần độn!”
Simon bật khóc.
“Cái tên Hastings
sẽ thành tên của một kẻ ngốc nghếch,” Công tước rền rĩ. “Suốt bao nhiêu năm cầu
nguyện về một người thừa kế, thế mà giờ tất cả đã sụp đổ. Ta đáng lẽ nên để
tước vị lại cho họ hàng ta.” Ngài quay lưng khỏi cậu con trai lúc này vẫn đang
vừa thút thít vừa cố lau sạch nước mắt, gắng sức chứng tỏ cho người cha thấy sự
mạnh mẽ của mình. “Ta không thể nhìn mặt nó được nữa,” ngài thở dốc. “Ta không
thể chịu được khi nhìn nó.”
Và với những lời đó, ngài Công tước sải bước ra khỏi phòng.
Bảo mẫu Hopkins
ôm chặt cậu bé vào lòng. “Con không phải đứa ngốc,” bà thầm thì quả quyết. “Con
là đứa trẻ thông minh nhất mà ta biết. Và nếu bất kì ai có thể học được cách
nói cho rõ ràng, thì ta biết đó chính là con.”
Simon rúc vào trong vòng tay ấm áp của bà và sụt sịt.
“Chúng ta sẽ cho cha con thấy,” bà bảo mẫu hứa hẹn. “Cho dù
đó có là điều cuối cùng ta có thể làm được thì ta cũng sẽ làm cho ông ấy phải
cứng họng.”
Bảo mẫu Hopkins
đã chứng minh lời bà nói là đúng. Trong khi Công tước Hastings trở về London và
cố vờ như ngài không có đứa con trai, bà dành từng giây từng phút với Simon,
phát âm từng từ và âm tiết, không tiếc lời ca ngợi mỗi khi cậu đúng, và cổ vũ
cậu mỗi khi cậu không làm được.
Sự tiến bộ diễn ra chậm chạp, nhưng khả năng nói của Simon
ngày càng được cải thiện hơn. Vào năm sáu tuổi, “đ-đ-đ-đ-đ-đ-đ-đừng” đã rút gọn
lại thành “đ-đ-đừng,” và khi cậu lên tám, cậu có thể nói cả câu mà không hề ấp
úng. Cậu vẫn còn gặp rắc rối mỗi khi tinh thần bất an, và bà bảo mẫu phải nhắc
nhở thường xuyên rằng cậu cần giữ bình tĩnh, sắp xếp lại từ ngữ nếu cậu muốn
nói một câu hoàn chỉnh.
Nhưng Simon rất quyết tâm, lại cũng thông minh nữa, và có lẽ
quan trọng nhất, cậu cứng đầu chết đi được. Cậu học cách hít thở trước mỗi câu
nói, cân nhắc từ ngữ trước khi cố gắng phát âm ra. Cậu nghiên cứu cảm giác của
khuôn miệng khi cậu phát âm đúng, và cố gắng phân tích sai sót nằm ở đâu khi
cậu nói không chuẩn được.
Và cuối cùng, vào năm mười một tuổi, cậu đến trước mặt bảo
mẫu Hopkins,
dừng lại để sắp xếp suy nghĩ, và nói, “Cháu nghĩ đã đến lúc chúng ta đi gặp
cha.”
Bà bảo mẫu ngẩng phắt đầu lên. Ngài Công tước đã không thèm
để mắt đến con trai trong bảy năm liền. Ngài cũng không trả lời bất kì dòng thư
nào của Simon.
Simon đã gửi có khi phải đến cả trăm lá thư.
“Cháu chắc chắn chứ?” bà hỏi.
Simon gật đầu.
“Tốt lắm. Ta sẽ
chuẩn bị xe ngựa. Sáng mai chúng ta sẽ lên đường đi London.”
Cuộc hành trình
mất hơn một ngày rưỡi, và khi cỗ xe ngựa lăn bánh đến dinh thự Basset thì trời
đã sâm sẩm tối. Simon tò mò ngắm nhìn đường phố London nhộn nhịp trong lúc được
bảo mẫu Hopkins dẫn đến bậc thềm. Cả hai đều chưa từng đặt chân đến dinh thự
Basset, nên khi đến bên cánh cửa ra vào rồi, bà bảo mẫu chẳng biết phải làm gì
ngoài việc gõ cửa.
Cánh cửa bật mở
trong vài giây, và một vị quản gia oai vệ liếc xuống nhìn họ.
“Giao hàng,” lão
ta ngân nga, gần như đóng sầm cửa lại, “đi cửa sau.”
“Khoan đã!” bà
bảo mẫu vội nói, nhét chân vào khe cửa. “Chúng tôi không phải người hầu.”
Lão khinh khỉnh
liếc nhìn bộ dạng bà.
“Tôi đúng là
người hầu, nhưng cậu ấy không phải.” Bà nắm tay Simon kéo cậu về phía trước.
“Đây là Bá tước Clyvedon, và ông phải cư xử cho phải phép với cậu ấy.”
Miệng người quản
gia há hốc và lão phải chớp mắt vài lần rồi mới nói được, “Theo những gì tôi
hiểu thì Bá tước Clyvedon đã chết.”
“Cái gì?” bà bảo
mẫu rít lên thất thanh.
“Chắc chắn là ta
vẫn chưa chết!” Simon hét với tất cả sự căm phẫn chính đáng của đứa trẻ mười
một tuổi.
Lão quản gia quan
sát Simon và ngay lập tức nhận ra cậu có dáng vẻ của người họ Basset, vậy nên
cho cả hai vào.
“Tại sao ngươi
nghĩ là ta đã c-chết?” Simon hỏi, tự rủa thầm bản thân vì đã lắp bắp, nhưng
không lấy làm ngạc nhiên. Cậu thường xuyên nói lắp mỗi khi giận dữ.
“Tôi không nói
được,” viên quản gia trả lời.
“Hiển nhiên là có
đấy,” bà bảo mẫu bắn trả. “Ông không thể nói những chuyện kiểu thế trước một
cậu bé mới chỉ chừng ấy tuổi mà không có lấy một lời giải thích.”
Lão quản gia im
lặng trong một thoáng, rồi cuối cùng cũng lên tiếng. “Đức ngài đã không nhắc
đến cậu trong nhiều năm trời. Lần cuối tôi nghe được, ngài nói rằng ngài chẳng
có đứa con trai nào cả. Ngài có vẻ đau khổ khi nói thế, nên chẳng ai bàn về vấn
đề đó nữa. Chúng tôi - nghĩa là bọn người hầu kẻ hạ - đoán chắc là cậu đã qua
đời rồi.”
Simon cảm thấy
quai hàm siết chặt lại, cảm thấy cổ họng rát bỏng.
“Ngài ấy không để
tang đúng không?” bà bảo mẫu gặng hỏi. “Ông có nghĩ về điều đó chưa? Sao ông
dám khẳng định cậu chủ đã chết nếu cha cậu ấy không để tang?”
Viên quản gia
nhún vai. “Đức ngài vẫn thường mặc đồ đen. Có tang hay không vẫn chẳng thay đổi
phục trang của ngài.”
“Đây là một sự
lăng mạ,” bảo mẫu Hopkins nói. “Ta yêu cầu ông đi báo với Công tước ngay.”
Simon không nói
gì. Cậu đang phải hết sức cố gắng kiểm soát cảm xúc của bản thân. Cậu phải vậy.
Cậu sẽ không nói được một lời nào với cha trong lúc mọi tế bào máu trong người
đang rần rật thế này.
Lão quản gia gật đầu. “Ngài đang ở trên gác. Tôi sẽ đi thông
báo ngay là các vị đã tới.”
Bà bảo mẫu bắt đầu điên cuồng bước tới bước lui, lầm bầm
trong miệng và nhắc đến ngài Công tước với những từ ngữ hèn hạ nhất trong vốn
từ vựng đang được mở rộng đến đáng ngạc nhiên của bà. Simon đứng giữa phòng, ấn
tay giận dữ vào hai bên sườn, cố gắng thở sâu.
Mày có thể làm được, cậu gào lên trong tâm trí. Mày
có thể làm được.
Bà bảo mẫu quay qua, nhìn thấy cậu đang cố gắng kiểm soát
cơn giận dữ và ngay lập tức thở hổn hà hổn hển. “Phải, đúng vậy đấy,” bà nói
nhanh, khuỵu gối xuống và nắm lấy tay cậu. Hơn ai hết, bà biết rõ chuyện gì sẽ
xảy ra nếu Simon đối mặt với cha trước khi cậu lấy lại được bình tĩnh. “Thở sâu
vào. Và đảm bảo cháu đã cân nhắc kĩ trước khi nói. Nếu như cháu có thể kiểm
soát...”
“Ta thấy là bà vẫn còn đang nuông chiều thằng bé,” một giọng
nói hống hách bật ra từ trên ngưỡng cửa.
Bảo mẫu Hopkins
đứng thẳng người lên và chậm chạp quay lại. Bà cố gắng nghĩ đến một câu nói nào
đó thể hiện được lòng kính trọng. Bà cố gắng nghĩ đến bất cứ điều gì có thể xoa
dịu tình trạng căng thẳng này. Nhưng khi nhìn ngài Công tước, bà lại thấy hình
ảnh Simon trong ông, vậy là cơn thịnh nộ của bà bùng nổ. Công tước có thể trông
giống hệt con trai, nhưng ngài chắc chắn không phải một người cha đối với cậu
bé.
“Ngài, thưa ngài,” bà phun ra, “thật đáng khinh.”
“Còn bà, thưa bà, đã bị sa thải.”
Bà bảo mẫu loạng choạng lùi lại.
“Không ai nói năng kiểu đó với Công tước Hastings,” ông rống lên. “Không ai!”
“Ngay cả đức Vua sao?” Simon chế nhạo.
Hastings
quay phắt lại, không nhận ra con trai mình nói năng rất rõ ràng. “Mày,” ông nhỏ
giọng nói.
Simon gật đầu cụt ngủn. Cậu đã cố hết sức nói được một câu
ra đầu ra đũa, nhưng nó chỉ là một câu ngắn, và cậu không muốn thử vận may thêm
một lần nữa. Khi cậu đang cảm thấy muốn phát điên lên như thế này thì không.
Thông thường, cậu có thể nói cả ngày mà không lắp bắp, nhưng ngay lúc này...
Ánh mắt chằm chằm của người cha khiến cậu có cảm giác mình
chỉ như một thằng nhãi. Một thằng nhãi ngờ nghệch.
Và dường như lưỡi cậu đột nhiên trở nên cứng ngắc, vụng về.
Công tước mỉm cười tàn nhẫn. “Mày định nói gì với bản thân
vậy, nhóc? Hả? Mày định nói gì?”
“Sẽ ổn thôi, Simon,” bảo mẫu Hopkins thì thầm, ném cho Công tước cái nhìn
giận dữ. “Đừng để ông ta làm cháu bối rối. Cháu có thể làm được, cháu yêu.”
Và không hiểu sao, sự cổ vũ của bà lại càng làm mọi chuyện
tệ hơn. Simon đến đây để chứng tỏ bản thân mình với cha, vậy mà giờ đây bà bảo
mẫu lại đối xử với cậu như một đứa trẻ con.
“Có chuyện gì vậy?” Công tước châm chích. “Mày bị ăn mất lưỡi
rồi à?”
Các bắp cơ của Simon gồng lên đến mức khiến cậu bắt đầu run
rẩy.
Hai cha con nhìn nhau chằm chằm như thể không bao giờ dứt ra
được, cho đến khi Công tước bật ra tiếng chửi thề và sải bước về phía cửa.
“Mày là sai lầm tệ hại nhất của tao,” ngài rít lên với con
trai. “Không hiểu tao đã gây nên tội gì mà phải gánh chịu mày kia chứ, nhưng
cầu Chúa phù hộ để tao đừng bao giờ phải nhìn thấy mày lần nữa.”
“Đức ngài!” bảo mẫu Hopkins
hét lên phẫn nộ. Sao lại có thể nói với một đứa trẻ như thế chứ. “Lôi nó ra
khuất mắt ta đi,” ông quát lại bà. “Bà có thể bảo toàn công việc của mình miễn
là giữ nó tránh xa khỏi ta.”
“Đợi đã!”
Công tước chậm chạp quay về phía giọng nói Simon. “Mày vừa
nói gì?” ông dài giọng.
Simon hít thở sâu ba hơi dài, môi vẫn mím chặt giận dữ. Cậu
bắt quai hàm mình thư giãn, chà xát lưỡi lên vòm miệng, cố gắng nhớ lại cảm
giác khi nói rõ ràng. Cuối cùng, ngay khi Công tước định xua cậu đi lần nữa,
cậu mở miệng nói. “Con là con trai cha.”
Simon nghe bảo mẫu Hopkins
thở phào nhẹ nhõm, và nhìn thấy trong mắt cha cậu sáng bừng lên một sắc thái
cậu chưa từng thấy bao giờ. Niềm tự hào. Không nhiều lắm, nhưng vẫn có một chút
nào đó, lẩn khuất sâu thẳm bên trong; một chút nào đó đủ để trao cho Simon tia hi
vọng nhỏ nhoi.
“Con là con trai cha,” cậu lặp lại, lần này lớn hơn, “và con
không p…”
Đột nhiên cổ họng cậu tắc nghẹn. Và Simon điếng người.
Mày có thể làm được. Mày có thể làm được.
Nhưng cổ họng cậu thắt lại, lưỡi cậu cứng đờ, và đôi mắt cha
cậu bắt đầu nheo lại...
“Con không p-p-p-”
“Cút về nhà,” Công tước thấp giọng. “Ở đây không có chỗ cho
mày.”
Simon cảm nhận được sự chối bỏ của Công tước ngấm đến tận
xương tủy, cảm thấy nỗi đau đớn kì lạ lan khắp cơ thể, len lỏi vào tận trong
tim. Và với nỗi căm hờn tràn ngập, dâng đầy trong mắt, cậu đã lập một lời thề
trang trọng.
Nếu không thể trở thành người con trai như ông muốn, thì thề
có Chúa, cậu sẽ trở thành đứa con trái ngược một trăm phần trăm...