Bản chúc thư - Chương 12
Chương mười hai
Tiền bạc đã làm được việc. Viên phi công chấp nhận thực hiện chuyến bay dầu có phần miễn cưỡng, với điều kiện là phải khởi hành thật sớm và quay về Corumbá giữa trưa. Anh có mấy đứa con thơ, một bà vợ hay gắt gỏng, và nhất là hôm nay là ngày trước Giáng sinh. Valdir hứa hẹn, dỗ dành và ứng trước cho anh ta một khoản tiền mặt hậu hĩnh.
Ông cũng ứng trước một khoản cho Jevy, người hướng dẫn mà trước đó ông đã thương lượng cả tuần. Jevy hai mươi bốn tuổi, độc thân, lực sĩ cử tạ với bắp thịt cuồn cuộn và khi chàng ta xông vào phòng khách lớn của khách sạn Palace, với một cái mũ lông thú bù xù trên đầu, quần jeans ngắn, giày bốt nhà binh, áo T-shirt không cánh tay và một con dao lê sáng loáng cài ở thắt lưng, dùng để lột da. Chàng ta như muốn bóp nát bàn tay của Nate khi bắt tay. “Bom dia” anh ta chào với nụ cười rộng đến mang tai.
“Bom dia” Nate chào lại, nghiến răng vì các ngón tay đau ê ẩm. Không thể lờ đi con dao lê, lưỡi dao dài đến 8 inches.
“Ông nói được tiếng Bồ?” Jevy hỏi.
“Ồ không, tiếng Anh thôi.”
“Không sao”, chàng ta nói, và cuối cùng buông cái siết tay đau điếng người. “Tôi nói tiếng Anh.” Giọng hơi nặng nhưng cho đến giờ thì Nate có thể nắm bắt mọi lời anh ta nói. “Tôi học tiếng Anh trong quân đội,” Jevy nói với vẻ tự hào.
Ngay sau đó Jevy tỏ ra khả ái. Chàng ta xách va li cho Nate và nói đùa gì đó với cô tiếp tân làm cô nàng đỏ mặt nguýt dài theo kiểu… nói nữa đi anh!
Chiếc tải nhẹ Ford 1978 của anh ta là chiếc xe hơi lớn nhất mà Nate nhìn thấy, cho đến lúc ấy, ở Corumbá. Một loại xe sẵn sàng xông xáo trên mọi địa hình với bánh xe lớn, một máy nâng bằng xích trên cản phía trước, khung sắt viền quanh đèn trước, sơn màu xanh lá cây sậm, không vè. Và không có máy điều hòa không khí.
Họ phóng qua các đường phố Corumbá, chỉ hơi chậm lại khi gặp đèn đỏ, hoàn toàn phớt lờ các dấu hiệu dừng và thường húc vào các xe khác - tất cả đều ngán đụng độ với chiếc xe tăng đó của anh chàng Jevy. Bộ phận hãm thanh rất tồi, động cơ rú ầm ầm và Jevy nói chuyện như hét trong lúc điều khiển vô-lăng như một tay đua xe hơi chuyên nghiệp. Nate chẳng nghe được tiếng nào. Anh cười và gật đầu như một chàng ngố trong khi cố giữ vững vị trí - đôi chân ấn chặt xuống sàn xe, một tay bám chắc vào khung cửa sổ, tay kia giữ va li. Tim anh thót lại nơi mỗi giao lộ.
Hiển nhiên các tài xế hiểu rõ hệ thống lưu thông, trong đó các luật lệ đi đường, nếu có, đều bị phớt lờ. Không có tai nạn, không có chuyện tàn sát. Mọi người, kể cả Jevy, xoay sở bằng cách hoặc ngừng, hoặc la to lên, hoặc quẹo, ngoặt, lạng lách đúng lúc, an toàn.
Sân bay vắng người. Họ đậu xe ở trạm nhỏ và đi vào một đầu của đường đổ may bay, nơi bốn chiếc máy bay nhỏ đang đậu. Một chiếc đang được viên phi công khởi động thử - Jevy cũng chưa biết tay này. Các lời giới thiệu được tuôn ra bằng tiếng Bồ. Tên của viên phi công hình như là Milton. Anh ta khá thân thiện, nhưng rõ ràng là không hăng hái lắm khi phải bay và làm việc vào đúng ngày trước Giáng sinh.
Trong lúc hai anh chàng Brazil nói chuyện, Nate khảo sát chiếc máy bay. Điều đầu tiên anh nhận thấy là lớp sơn bên ngoài đã bong ra và chi tiết này làm anh ưu tư không ít. Nếu bên ngoài đã trầy tróc như thế, liệu bên trong có khá hơn? Các bánh xe đã mòn nhẵn. Nhiều vết dầu quanh buồng máy. Một chiếc Cessna 206 một động cơ, cũ rích.
Việc tiếp nhiên liệu mất mười lăm phút và việc khởi hành sớm cứ kéo dài cho đến gần 10 giờ sáng. Nate rút cái điện thoại di động đút sâu trong túi quần Kaki ra và gọi Sergio.
Ông này đang ngồi uống cà phê với vợ, hai người đang bàn kế hoạch mua sắm vào phút cuối và Nate một lần nữa, cám ơn là mình đã đi ra khỏi xứ sở, xa khỏi không khí lễ hội cuồng nhiệt. Trời đang lạnh và mưa tuyết dọc theo vùng giữa Đại Tây Dương. Nate trấn an ông ta rằng chàng vẫn bình yên vô sự, không có gì phải lo.
Anh đã chận đứng cơn trượt, anh nghĩ. Anh đã tỉnh thức với quyết tâm và nội lực mới, vừa rồi chỉ là một lúc yếu đuối thoáng qua. Nên anh không kể ra cho Sergio nghe. Lẽ ra cũng nên nói, nhưng thôi, lúc này làm ông bận tâm cũng ích gì?
Trong lúc họ nói chuyện, mặt trời chui vào trong một đám mây dày, và vài hạt mưa lác đác rơi quanh Nate, nhưng anh không để ý lắm. Sau khi chúc Giáng sinh vui vẻ, anh tắt máy.
Viên phi công thông báo anh ta đã sẵn sàng. “Cậu có cảm thấy an toàn không?” Nate hỏi Jevy trong lúc họ chất va li, túi xách lên máy bay.
Jevy cười và nói, “Không sao đâu – Anh chàng này có bốn đứa con nhỏ và một bà vợ xinh xắn. Anh ta đâu có liều mạng khơi khơi được?”
Jevy muốn học lái máy bay nên tình nguyện ngồi vào ghế sát tay phải viên phi công. Thế cũng tốt cho Nate – Anh ngồi sau họ, buộc đai an toàn ở bụng và ở hai vai thật chắc. Máy bay rồ lên hơi miễn cưỡng – Nate có cảm tưởng là quá gượng gạo, và căn buồng nhỏ nóng như lò nướng bánh cho đến khi Milton mở cửa sổ ra. Máy bay lăn bánh, chồm lên trên đường băng, tăng tốc đến cuối phi đạo và cất cánh. Áo sơ-mi của Nate dán chặt vào ngực và mồ hôi chảy ròng ròng từ trán xuống cổ, xuống ngực, xuống lưng anh.
Chỉ trong khoảnh khắc, Corumbá đã ở bên dưới họ. Từ trên cao nhìn xuống, thành phố trông xinh xắn hơn với những dãy nhà nhỏ thẳng hàng, xếp thành những đường phố dịu dàng, trật tự. Khu phố trung tâm giờ đây nhộn nhịp hẳn lên với xe cộ nối đuôi nhau và bộ hành băng qua đường. Thành phố được xây trên bờ dốc với dòng sông bên dưới. Họ bay theo dòng sông về hướng bắc, lên cao dần và Corumbá xa mờ dần bên dưới. Đây đó những đụn mây và máy bay bị sốc nhẹ.
Ở độ cao bốn ngàn bộ, vẻ hùng vĩ của vùng Pantanal đột nhiên hiện ra khi họ bay qua một đám mây lớn. Về hướng đông và hướng bắc, cả chục con sông nhỏ chạy ngoằn ngoèo, lòng vòng, giao thủy với nhau, loanh quanh không biết hướng về đâu, nối mỗi đầm lấy với hàng trăm đầm lầy khác. Vì là mùa lũ, nên các con sông đều đầy toàn nước, nhiều nơi chúng hợp lưu thành mặt hồ mênh mông. Nước mang nhiều sắc độ khác nhau. Những đầm lầy tù đọng có màu xanh sậm gần như đen ở những nơi cỏ mọc dày. Những vũng sâu hơn màu xanh lá cây. Những phụ lưu nhỏ mang dòng nước đỏ lờ, và con sông lớn Parayguay tràn đầy con nước màu nâu sẫm như sô-cô-la. Về phía chân trời xa tít tắp, mọi con nước đều màu xanh và đất màu lá cây.
Trong khi Nate nhìn về hướng đông và hướng bắc thì hai người bạn đồng hành nhìn về phía tây, về những dãy núi xa mờ của Bolivia. Jevy chỉ tay, thu hút sự chú ý của Nate. Bầu trời thẫm màu hơn phía bên kia các rặng núi.
Sau mười lăm phút bay, Nate mới thấy bóng dáng một nơi cư trú đầu tiên. Đó là một trang trại dọc bờ sông Parayguay. Căn nhà nhỏ nhưng khang trang với mái ngói màu đỏ theo quy định chung. Những con bò trắng gặm cỏ trên cánh đồng và uống nước ở mé sông. Đồ giặt giũ hàng ngày treo trên một dây phơi quần áo gần nhà. Không thấy dấu hiệu hoạt động của con người – không xe cộ, không anten ti vi, không đường dây dẫn điện. Một khoảng sân vuông nhỏ với hàng rao vây quanh, tiếp giáp với một con đường nhỏ bụi bẩn. Máy bay xuyên qua mây, và trang trại biến mất.
Thêm nhiều mây đùn vào dày đặc và Milton cho máy bay hạ cánh xuống tầm ba ngàn bộ để bay phía dưới mây. Jevy nói với viên phi công rằng đây là một chuyến bay quan sát địa hình, nên bay càng thấp càng tốt. Khu định cư đầu tiên của bộ lạc Giató cách Corumbá khoảng một giờ bay.
Máy bay vòng xa con sông trong ít phút và bay ngang một fazenda. Jevy trải bản đồ ra, khoanh một vòng tròn vào một chỗ trên đó và ném về phía sau cho Nate. Đây là trang trại da Prata, anh nói, rồi chỉ xuống bên dưới. Trên bản đồ, các fazenda đều được nêu tên, như thể chúng là những sản nghiệp lớn. Trên mặt đất, Fazenda da Prata cũng chẳng lớn hơn nhiều lắm so với trang trại thứ nhất mà Nate đã thấy. Có nhiều bò hơn, hai dãy nhà kho và chuồng trại, một căn nhà ở hơi lớn hơn và một vành đai bằng đất dài, thẳng mà Nate cuối cùng nhận ra đó là đường băng cho máy bay. Gần đó không có sông, cũng không có đường bộ. Phương tiện tiếp cận duy nhất là đường hàng không.
Milton càng lúc càng lo âu về bầu trời xám sẫm ở phía tây. Khối xám sẫm đang di chuyển về phía đông, còn họ đang di chuyển về hướng bắc, cuộc gặp gỡ dường như không tránh khỏi. Jevy nghiêng người về phía sau và la lên, “Anh ta không thích bầu trời mây xám đằng kia.”
Nate cũng chẳng thích đâu, song anh không phải là phi công. Anh chỉ nhún vai bởi anh không thể nghĩ ra cách trả lời nào khác.
“Chúng ta sẽ nhìn ngắm địa thế trong vài phút nữa,” Jevy nói. Milton muốn quay về nhà. Nate muốn chí ít cũng nhìn thấy mấy làng da đỏ. Anh vẫn còn nuôi hi vọng mơ hồ là có thể bằng cách nào đó bay vào tìm gặp Rachel và có lẽ bốc cô ta về Corumbá, nơi đó họ có thể cùng dùng bữa trong một quán ăn xinh xắn và bàn về tài sản của bố cố ta. Những hi vọng hão huyền nhanh chóng phai mờ.
Một chiếc trực thăng không phải là chuyện lạc đề. Tiền của để lại chắc chắn có thể chi cho chuyện đó chẳng có gì khó. Nếu Jevy có thể tìm đúng ngôi làng, đúng địa điểm để hạ cánh, Nate sẽ thuê một chiếc trực thăng ngay tức khắc.
Anh đang mơ màng.
Lại gặp một fazenda nhỏ khác, cách sông Paraguay chỉ một khoảng ngắn. Những giọt mưa bắt đầu đập vào của sổ máy bay và Milton hạ thấp xuống ở tầm hai ngàn bộ. Một dãy núi sừng sững án bên phía tay trái, gần hơn nhiều so với dòng sông ngoằn ngoèo rắn lượn xuyên qua những rừng dày.
Từ trên những đỉnh núi, những cơn gió giật ùa tới họ, rít xoáy điên cuồng. Bầu trời bỗng nhiên tối sầm hơn, những ngọn cuồng phong làm chao đảo chiếc Cessna. Máy bay tuột thẳng xuống, làm cho đầu Nate dội vào trần cabin. Anh kinh hoảng thật sự.
“Chúng ta đang quay tròn” Jevy hét về phía sau. Giọng cậu ta thiếu vẻ điềm tĩnh mà Nate muốn nghe. Milton mặt lạnh như đá, nhưng mồ hôi túa xuống đầy trán, vẻ thản nhiên của một phi công dày dạn có phần lung lay. Máy bay đảo mạnh về phía phải, đông rồi đông nam và khi nó quay hẳn về phía nam, một cảnh tượng đáng buồn chờ đợi họ. Bầu trời hướng Corumbá đen ngòm.
Milton không muốn hướng về phía đó chút nào. Anh nhanh chóng quay về hướng đông và nói điều gì đó với Jevy.
“Chúng ta không thể về Corumbá”, Jevy hét to về phía ghế sau. Anh ta muốn tìm một fazenda. “Chúng ta sẽ đáp xuống và chờ cơn bão qua đi”. Tiếng cậu ta cao, đầy lo lắng, giọng khản đặc.
Nate gật đầu lia lịa. Đầu anh lùng bùng quay cuồng và còn đau nhói vì cú dội vào trần cabin. Và bao tử anh bắt đầu nhộn nhạo.
Trong vài phút, dường như chiếc Cessna mỏng manh thắng được cuộc đua. Chắc chắn là, Nate nghĩ, một chiếc máy bay kích cỡ nào cũng bay nhanh hơn tốc độ của gió cấp cao nhất. Anh chà xát đỉnh đầu mình và quyết định không nhìn ra phía sau. Nhưng bây giờ những đám mây đen lại đến từ hai bên sườn.
Cái anh chàng phi công ngô nghê này tại sao cất cánh mà không theo dõi đài radar. Song le mặt khác, đài radar của họ, nếu có, cũng thuộc loại cổ lỗ sĩ mất vài thập kỉ và tạm ngưng hoạt động vào ngày nghỉ lễ!
Mưa rơi lộp bộp vào máy bay. Gió xoáy chung quanh. Những ụ mây cuồn cuộn đi qua. Cơn bão chộp bắt chúng và chiếc máy bay nhỏ bị đội lên, đè xuống, bị xô dạt qua bên này, bên kia. Trong vòng hai phút – mà dài như hai đêm trường – Milton không điều khiển được máy bay vì một cơn gió xoáy dữ dội. Anh đang cưỡi một con ngựa hoang chứ không phải đang lái một chiếc máy bay nữa.
Nate nhìn ra ngoài cửa sổ và chẳng thấy gì, chẳng thấy mặt nước hay đầm lầy, hay các fazenda nhỏ với bãi đáp cho máy bay. Anh cúi xuống thấp hơn. Anh khóa chặt hàm răng lại và mong sao mình đừng nôn thốc tháo, sẽ ê mặt biết mấy với hai bạn đồng hành!
Một cái túi không khí làm máy bay rơi thẳng xuống hơn một trăm bộ trong vòng chưa đầy hai giây, và cả ba người đều kêu lên tiếng gì đó. Nate hét lên: “Bỏ mẹ rồi!.” Còn hai anh bạn Brazil chửi thề bằng tiếng Bồ Đào Nha. Những tiếng la hốt hoảng này đều được bọc lại trong những tấm chăn dày của nỗi sợ hãi.
Có một chỗ vỡ làm không khí lùa vào. Milton đẩy cần kiểm soát về phía trước và bắt đầu bổ nhào xuống. Nate dán sát người vào bằng cả hai tay lên phía sau ghế ngồi của Milton, và đây là lần đầu, hi vọng cũng là lần duy nhất trong đời, mà anh cảm thấy mình làm một phi công Kamikaze (phi công cản trở của Nhật thời Đệ nhị Thế chiến, lái máy bay đâm thẳng xuống tàu địch). Tim anh đập dồn dập liên hồi và bao tử như lộn lên cổ họng. Anh nhắm mắt và nghĩ đến Sergio, đến người thầy dạy yoga ở Walnut Hill đã chỉ anh lời kinh cầu và cách thiền niệm. Anh cố gắng thiền định và cầu nguyện nhưng quả là không thể khi bị dính vào trong một chiếc máy bay rơi. Cái chết chỉ cách vài giây.
Một tiếng sấm nổ đùng ngay bên trên chiếc Cessna làm họ giật thót người, giống tiếng súng shotgun vang lên trong buồng tối, làm chấn động họ đến xương cốt. Màng nhĩ của Nate muốn vỡ toang ra.
Cuộc lao xuống dừng lại ở tầm năm trăm bộ nhờ Milton vật lộn với sức gió và lấy lại bình độ. “Hãy nhìn xuống, tìm một fazenda!” Jevy từ phía trước hét to lên và Nate miễn cưỡng nghiêng đầu nhìn xuống. Mặt đất bên dưới mờ đi trong mưa gió. Cây cối vật vã trên những hồ nước trắng xoá. Jevy quét mắt trên bản đồ, nhưng họ đã lạc hướng, vô vọng.
Mưa kéo đến thành những bức màn trắng, hạn chế tầm nhìn chỉ còn vài trăm bộ. Có những lúc Nate không còn thấy được mặt đất. Họ bị vây quanh bở mưa như thác lũ, và cơn gió cuồng bạo đập vào bên sườn. Chiếc máy bay nhỏ bị cuốn lên, giật xuống như một cánh diều. Milton cố sức để điều khiển trong khi Jevy nhìn một cách tuyệt vọng về mọi hướng, Họ phải chiến đấu hết sức mình may ra mới có hi vọng đáp xuống mặt đất.
Nhưng Nate bỏ cuộc. nếu đã không thể thấy mặt đất thì làm sao còn chờ mong đáp xuống đất an toàn? Khúc nguy hiểm nhất của cơn bão đã chộp bắt họ. Đã qua chưa nỗi hiểm nghèo?
Anh không muốn mặc cả với Trời nữa. Đáng đời anh vì anh đã tự hủy hoại cuộc sống. Mỗi năm vẫn có hàng trăm người chết vì tai nạn máy bay, thêm một nạn nhân nữa phỏng có nghĩa lí gì.
Tia nhìn anh bỗng bắt gặp một dòng sông ngay phía dưới và anh chợt nhớ tới đám cá sấu và lũ trăn khổng lồ. Anh kinh hoảng với ý nghĩ máy bay rớt xuống đầm lầy. Anh thấy mình bị thương nặng nhưng không chết, vẫn còn bám vào đời sống, vùng vẫy đến kiệt lực để mong sống còn, cố làm cho cái điện thoại vệ tinh hoạt động, cùng lúc phải chống trả kịch liệt với đám bò sát đói khát gớm ghiếc kia.
Một tiếng sấm nổ khác làm rung chuyển cabin, và Nate choàng tỉnh, quyết định dầu sao cũng phải chiến đấu hết mình. Anh căng mắt nhìn mặt đất với ý đồ tìm thấy một fazenda. Một ánh chớp làm mờ mắt họ trong một giây. Động cơ khục khặc và gần như chết máy, rồi tự động nổ lại và lướt tới. Milton hạ xuống tầm bốn trăm bộ, một độ cao an toàn trong những tình huống bình thường. Ít ra thì cũng không phải lo đụng vào núi đồi trong vùng Patanal.
Nate kéo chặt dây đai ở vai hơn, rồi nôn ra giữa hai chân mình. Anh ta chẳng còn thấy chuyện ấy là bất lịch sự hay mất thể diện nữa. Anh chẳng còn cảm thấy điều gì khác ngoài nỗi kinh hoàng.
Bóng tối bao trùm họ. Milton và Jevy gọi ơi ới phía sau, phía trước trong khi họ ngả nghiêng và vẫn cố chiến đấu để kiểm tra chiếc máy bay. Vai họ đụng nhau, cọ xát nhau. Tấm bản đồ kẹt giữa đôi chân Jevy, hoàn toàn trở nên vô dụng.
Bão vẫn di động bên dưới họ. Milton hạ thấp xuống còn hai trăm bộ, ở tầm đó họ có thể thấy mặt đất loáng thoáng qua từng mảng. Một cơn giá mạnh thổi dạt vào sườn gần như lật nghiêng chiếc Cessna và Nate nhận ra tình trạng vô vọng của họ. Anh thấy một vật gì trắng trắng bên dưới, và vừa la lên vừa chỉ, “Bò! Bò!” Jevy hét lên bằng tiếng Bồ cho Milton nghe.
Họ cho máy bay hạ thấp xuống xuyên qua mây ở tầm tám mươi bộ, trong màn mưa mờ mịt và bay qua mái đỏ của một nóc nhà. Jevy lại la lên và chỉ còn một vật gì đó ở bên sườn máy bay phía cậu ta. Đường hạ cánh giống một con lộ đất nhỏ, ngay cả lúc thời tiết tốt cũng còn khá nguy hiểm. Không sao – Bởi họ chẳng còn lựa chọn nào khác. Nếu xảy ra sự cố, chí ít cũng còn có người gần đó biết.
Họ đã phát hiện và định vị được đường băng quá trễ để đáp xuống thuận hướng gió, vì thế Milton cho quay tròn máy bay để hạ cánh đối mặt với cơn bão. Gió đập mạnh xoay vòng chiếc Cessna và thực tế đã làm liệt máy luôn. Mưa giảm thiểu tầm nhìn đến gần như không còn thấy gì. Nate nghiêng người nhìn đường băng và chỉ thấy nước bắn lên tung tóe trên cần gạt nước.
Ở tầm năm mươi bộ, chiếc Cessna nghiêng hẳn về một bên. Milton cố đưa nó trở về vị trí cân bằng. Jevy la lên, “Vaca! Vaca!” Nate hiểu ngay rằng vaca nghĩa là bò, vì anh cũng thấy nó. Họ vượt qua con thứ nhất.
Trong chớp lóe của bao hình ảnh trước khi va chạm, Nate thấy một thiếu niên cầm cây gậy chạy qua cỏ cao, ướt lóp ngóp, vẻ mặt kinh hoàng. Và anh thấy một con bò chạy khỏi đường băng. Anh thấy Jevy chuẩn bị tinh thần trong khi nhìn trừng trừng qua cần gạt nước, mắt dại đi, miệng há hốc nhưng không thốt ra được lời nào.
Máy bay rơi xuống trên cỏ nhưng vẫn tiếp tục chồm tới. Đó là một vụ hạ cánh, không phải máy bay rơi và trong tích tắc đó Nate hi vọng cả bọn thoát chết. Một luồng gió xoáy khác bốc máy bay lên cao mười bộ, rồi thả nó xuống mặt đất trở lại.
“Vaca! Vaca!”
Cánh quạt máy bay chém phập vào một con bò lớn đứng bất động, tò mò nhìn cái vật lạ từ trên trời rơi xuống. Máy bay lồng lên dữ dội, mọi cánh cửa bật tung ra bên ngoài, cả ba người rú lên những tiếng kêu cuối cùng.
Nate tỉnh dậy, nằm nghiêng, tắm người trong máu, sợ đến đớ lưỡi, nhưng hú hồn thấy mình vẫn còn sống và chợt nhận ra trời còn mưa. Gió lùa qua máy bay. Milton và Jevy gối đầu vào nhau, nhưng cũng động đậy và cố gắng để tháo các dây đai buộc người.
Nate nhìn thấy một cửa sổ mở và thò đầu ra. Chiếc Cessna nằm nghiêng một bên với một cánh gãy và xếp lại dưới cabin. Máu tung tóe khắp nơi, nhưng đó là máu của con bò, không phải của ba người. Mưa vẫn rơi thành từng bức màn dày, nhanh chóng cuốn máu đi xa.
Cậu bé với cây gậy dẫn họ đến một chuồng bò nhỏ gần đường băng. Qua cơn giông tố, Milton quỳ gối xuống và lẩm bẩm một bài kinh tạ ơn Thánh Mẫu Đồng Trinh Maria. Nate nhìn và hầu như cũng cầu nguyện với anh ta.
Không ai bị thương nặng, Milton bị vết thương nhẹ trên trán. Cổ tay phải của Jevy bị sưng. Có lẽ sau đó họ mới thấy đau.
Họ ngồi trong chỗ dơ dáy đó một lúc thật lâu, nhìn mưa rơi, nghe gió gào, không nói lời nào, chỉ lặng lẽ trầm tư về những gì có thể đã xảy ra, chưa kịp nghĩ đến những gì sắp đến.