Bản chúc thư - Chương 13
Chương mười ba
Ông chủ con bò khoảng một giờ sau, khi cơn bão bắt đầu lắng xuống và cơn mưa tạm ngưng. Ông đi chân trần, mặc quần ngắn bạc màu, áo T-shirt có hình bò tót. Ông ta tên Marco và không có vẻ ân cần, hiếu khách cho lắm.
Ông bảo thằng bé đi ra, rồi bắt đầu cuộc tranh luận gay gắt với Jevy và Milton về giá trị của con bò. Còn Milton thì quan tâm đến chiếc máy bay hơn và Jevy thì lo lắng cho cái cổ tay sưng của mình hơn. Nate đứng bên cửa sổ và tự hỏi làm thế nào mình đang đứng giữa nơi hoang vu này của xứ Brazil vào ngày trước Giáng sinh, trong một chuồng bò hôi hám, cả người trầy trụa, ê ẩm, vấy đầy máu bò, để nghe ba người lạ cãi nhau bằng thứ tiếng mình chẳng hiểu mô tê gì, thế mà vẫn cảm thấy may mắn vì mình còn được sống sót. Không có câu trả lời thỏa đáng.
Băng vào những con bò khác đang gặm cỏ gần đó, thì chúng chẳng đáng giá gì mấy. “Tôi sẽ bồi thường con bò chết tiệt đó cho ông ta”, Nate nói với Jevy.
Jevy hỏi ông ta bao nhiêu, rồi nói, “Một trăm reals”
“Ông ta có chịu lấy thẻ tín dụng American Express không?” Nate hỏi đùa, nhưng sự hài hước trở nên lạc lõng. “Tôi sẽ trả lão ta một trăm đô đấy.” Anh muốn giải quyết cho xong để Marco thôi cằn nhằn.
Cuộc thương lượng kết thúc tốt đẹp và lão ta hí hửng, trở thành người chủ nhà hiếu khách ngay. Ông ta dẫn họ về nhà, một bữa ăn đang được sửa soạn bởi một người đàn bà thấp bé, đi chân đất, tươi cười đón tiếp họ rất ân cần. Rõ ràng là họ chưa từng nghe khách đến viếng Pantanal và khi họ biết rằng Nate là người Mỹ thì bà mẹ kêu cả ba đứa con ra để ngắm nghía ông khách Mỹ, một sinh vật quả là quý hiếm nơi xứ sở hoang vu, sình lầy mênh mông này!
Bà ta gom quần áo của ba người, bỏ ngâm vào một cái thau với xà bông và nước mưa. Họ ăn cơm và đậu đen quanh một cái bàn nhỏ, để ngực trần và không quan tâm chi đến chuyện đó. Nate tự hào với cơ bắp cứng chắc và cái bao tử lép của mình. Jevy có tia nhìn sắc của một tay cử tạ hạng nặng. Anh chàng Milton biểu lộ những dấu hiệu sớm đến tuổi trung niên, nhưng vẫn điềm nhiên không hề áy náy.
Cả ba không nói gì nhiều trong bữa ăn. Sự kinh hoàng về một cuộc rơi máy bay hãy còn tươi nét. Bọn trẻ ngồi trên sàn nhà, gần bàn ăn, nhá bánh mì và theo dõi mọi cử chỉ của Nate.
Có một dòng sông nhỏ cách đó chỉ một phần tư dặm và Marco có một chiếc xuồng gắn động cơ. Đi ghe năm tiếng là đến sông Paraguay. Xăng nhớt may ra có thể đủ. Thế nhưng cả ba người cùng ngồi lên ghe thì không được.
Khi trời trong ra, Nate và bọn trẻ đi đến chỗ chiếc máy bay bị nạn để lấy chiếc va li của anh ra. Dọc đường anh dạy chúng đếm từ một đến mười bằng tiếng Anh. Còn chúng dạy lại anh đếm bằng tiếng Bồ. Chúng là những đứa trẻ hiền lành, lúc đầu rất mắc cỡ nhưng nhanh chóng thấy thân mật với Nate. Hôm nay là ngày trước Giáng sinh, anh tự nhắc mình. Ông già Noel có đến thăm vùng Patanal không? Hình như chẳng có ai chờ đợi điều đó.
Trên một gốc cây bằng phẳng ở sân trước, Nate cẩn thận mở cái điện thoại vệ tinh ra. Chiếc điện thoại nhỏ xíu không lớn hơn quyển sổ tay bỏ túi. Nate mở máy và chậm rãi quay đĩa thâu cho đến khi nó bắt được tín hiệu từ vệ tinh Astar-East đang bay vòng đâu đó ở gần xích đạo, ở độ cao trăm dặm trên Đại Tây dương. Tín hiệu rất mạnh, mốt tiếng bíp rất rõ xác nhận điều đó và Marco cùng gia đình quây vòng tròn sát hơn vào Nate. Anh tự hỏi không biết họ đã từng thấy một chiếc điện thoại bao giờ chưa.
Jevy gọi số điện thoại nhà Milton ở Corumbá. Nate bấm số chậm rãi và nín thở chờ đợi. Nếu cuộc gọi không thực hiện được, thì họ phải ở lại vui Giáng sinh với gia đình Marco thôi. Nhà nhỏ xíu, chật chội; chắc là mình phải ngủ ở chuồng bò để tưởng nhớ: Đêm Chúa sinh ra đời. Cũng tốt. Một hồi tưởng thấm đẫm niềm tín mộ!
Kế hoạch B là đưa Jevy và Marco xuống thuyền. Gần một giờ chiều. Năm giờ đi thuyền đến sông Paraguay sẽ đưa họ đến đó đúng trước hoàng hôn, giả định rằng có đủ xăng dầu. Một khi đến sông lớn, họ sẽ đối đầu với nghĩa vụ tìm kiếm sự cứu trợ, mà chuyện này cũng phải mất hàng giờ. Nếu xăng dầu không đủ, họ sẽ bị chôn chân nơi vùng Patanal. Jevy không phủ quyết ngay kế hoạch này nhưng không ai nhiệt tình hưởng ứng.
Có những yếu tố khác. Marco có vẻ miễn cưỡng khi phải xuất hành muộn đến vậy. Thường thì khi đến Paraguay để mua bán anh ta vẫn đi từ rạng đông. Còn đi giờ này, muốn nài thêm xăng dầu từ ghe khác, coi bộ khó.
“Mình ơi!” một giọng đàn bà vang ra từ ống nghe và mọi người mỉm cười. Nate trao điện thoại cho Milton, anh chào vợ rồi sa đà vào một cuộc trần thuật buồn thảm về cảnh ngộ nguy khốn của ba người. Jevy thì thầm dịch lại cho Nate nghe. Bọn trẻ con trố mắt tò mò.
Cuộc nói chuyện dồn dập lên rồi ngưng đột ngột. “Bà ấy đang tìm số điện thoại”, Jevy giải thích. Số điện thoại hiện ra, của một phi công quen với Milton. Anh ta hứa sẽ về nhà ăn tối và gác máy.
Viên phi công không có nhà. Vợ anh ta nói rằng anh đang bận việc ở Campo Grande đến chiều tối mới quay về. Milton giải thích anh đang ở đâu và chị vợ tìm thêm những số điện thoại khác mà chồng có thể liên lạc.
“Bảo anh ta nói ngắn gọn cho”, Nate nói khi anh ta chỉ vào số khác. “Pin của điện thoại không phải vô tận đâu.” Không có tiếng trả lời ở số kế tiếp. Ở số tiếp theo viên phi công ở đầu kia cầm máy và giải thích rằng máy bay của anh ta đang phải sửa chữa và đúng lúc đó, tín hiệu bị cắt.
Những đám mây lại đùn lên.
Nate nhìn vào bầu trời u ám, thấy lòng nặng trĩu. Milton gần như muốn khóc.
Một cơn mưa trút xuống nhanh. Bọn trẻ thích thú nô đùa trong mưa, trong lúc người lớn ngồi tựa cửa, yên lặng nhìn chúng.
Jevy xoay quanh kế hoạch khác. Có một căn cứ quân sự ở vùng ven Corumbá. Cậu ta không trú đóng tại đó nhưng cũng từng giao du với một số sĩ quan trong căn cứ. Khi trời sáng trở lại, họ quay về tụ tập chung quanh cái điện thoại Jevy gọi cho một người bạn nhờ tìm mấy số điện thoại của các sĩ quan nọ.
Quân đội có trực thăng. Và dẫu sao đây cũng là một tai nạn máy bay. Khi tay sĩ quan thứ nhì trả lời điện thoại Jevy nhanh chóng giải thích điều gì đã xảy ra và yêu cầu giúp đỡ.
Chờ kết quả cuộc điện đàm của Jevy quả là một cực hình đối với Nate. Anh không hiểu được từ nào nhưng ngôn ngữ thân xác cũng nói lên được câu chuyện. Những nụ cười mỉm hay những cái nhăn mày, những lời nài nỉ, cầu khẩn, những tiếng ngập ngừng, đứt quãng, rồi lặp lại những điều đã nói.
Dứt cuộc điện đàm, Jevy nói với Nate, “Anh ta muốn thỉnh thị ý kiến của chỉ huy trưởng. Anh ta muốn tôi gọi lại khoảng một giờ sau.”
Một giờ dài như cả tuần lễ. Mặt trời quay lại, sấy khô đám cỏ ướt. Hơi ẩm dày đặc. Vẫn còn mình trần, Nate bắt đầu cảm nhận những tia nắng châm vào người.
Họ rút vào bóng râm của một cây lớn để tránh nắng. Bà chủ nhà ra xem quần áo phơi của họ, vẫn còn để trên dây phơi trong cơn mưa vừa qua, nên bây giờ vẫn còn ướt.
Jevy và Milton có màu da sẫm hơn Nate rất nhiều và chẳng quan tâm gì đến chuyện nắng làm rám da. Marco cũng vậy và cả ba tiến về chiếc máy bay để xem xét thiệt hại. Nate vẫn đứng yên phía sau, dưới bóng cây, coi bộ an toàn hơn. Cái nóng buổi xế thật gắt. Ngực và vai anh bắt đầu cứng lại và ý nghĩ về một giấc ngủ ngắn chạy qua đầu anh. Nhưng mấy chú bé đã bày trò khác. Giờ đây Nate đã biết được tên chúng – đứa lớn nhất là Luis, đứa đã xua con bò đi khỏi đường băng mấy giây trước khi họ đáp xuống – Oli là đứa giữa và đứa bé nhất là Tomas. Dùng cuốn “Đàm thoại cấp tốc Anh-Bồ” vừa mới mua ở Campo Grande mấy ngày trước, Nate từng bước phá vỡ hàng rào ngôn ngữ. Hello, bạn khỏe chứ? Tên bạn là gì? Bạn bao nhiêu tuổi? Chào buổi chiều v.v… Mấy đứa bé lặp lại những câu đó bằng tiếng Bồ để Nate học cách phát âm, rồi anh dạy chúng nói những câu đó bằng tiếng Anh.
Jevy quay lại với mấy tấm bản đồ, và họ gọi điện thoại. Hình như họ đã gây được sự quan tâm nơi đám quân đội. Milton chỉ vào một tấm bản đồ và nói, “Fazenda Esperanca” sau, nét mặt cậu ta lại xìu xuống ngay và cậu ta gác máy. “Anh ấy không tìm được chỉ huy trưởng”, cậu ta nói bằng tiếng Anh, cố gắng tỏ ra vẫn còn hi vọng. “Hôm nay là Giáng sinh mà.”
Giáng sinh giữa vùng Ngữ Giác Nê Địa. Năm mươi lăm độ Ferenheit với độ ẩm còn cao hơn. Mặt trời làm bỏng da mà không có mành che nắng. Muỗi, vắt đầy mà không có thuốc diệt muỗi. Những đứa bé vui vẻ dễ thương chẳng hi vọng có được đồ chơi như món quà của ông già Noel. Không âm nhạc vì không có điện. Không cây thông Giáng sinh. Không có tiệc nửa đêm với ngỗng quay, rượu vang hay sâm banh. Tóm tắt là... không có gì cả!
Đây là một cuộc phiêu lưu, anh cố tự nhủ mình. Nào, ý thức hài hước của anh bạn để đâu?
Nate tắt điện thoại, đút sâu vào túi quần. Milton và Jevy đi vào máy bay. Bà chủ trại đi vào nhà. Marco làm gì đó ở sân sau. Nate lại bước vào trong bóng râm, mơ màng nghĩ phải chi được nghe một đoạn thơ trong bài “Đêm trắng Giáng sinh” trong khi nhâm nhi một li rượu bọt thì khoái biết chừng nào.
Luis xuất hiện với ba con ngựa gầy khẳng khiu đến độ không thể gầy hơn. Một con có yên cương, bàn đạp sơ sài bằng da và gỗ, dành cho Nate. Còn Luis và Oli phóng phát một lên hai con ngựa trần trụi không yên cương, chẳng cần gắng sức chút nào, chỉ nhún người rồi nhảy lên một cách nhẹ nhàng, nhanh gọn và thế là chúng đã ngồi vững vàng, với sự thăng bằng hoàn toàn thoải mái, trên lưng ngựa.
Nate ngắm nghĩa con ngựa dành cho anh. “Onde?” anh hỏi – Đi đâu?
Luis chỉ tay về phía con đường mòn. Nate đã biết, từ sự hướng dẫn trong bữa ăn trưa và sau đó, rằng con đường mòn đưa đến bờ sông nơi Marco neo chiếc xuồng máy.
Tại sao không? Đây là một cuộc phiêu lưu. Có việc quái gì khác để làm trong khi thời gian kéo dài lê thê. Anh lấy lại chiếc áo sơ mi từ sợi dây phơi, rồi xoay xở để leo lên con ngựa gầy khốn khổ, sao cho khỏi té ngã mà ê mặt với tụi nhỏ.
Tháng mười vừa rồi, Nate và vài bạn nghiện khác ở Walbut Hill đã qua một chủ ngày chủ nhật thích thú trên lưng ngựa, đi qua vùng Blue Ridge, đã nếm mùi vinh quang của việc ngã ngựa. Mông và đùi của anh đau ê ẩm cả tuần nhưng anh đã thắng được nỗi sợ các con thú. Gần như thế.
Anh thọc đôi chân vào hai bàn đạp, giữ chặt dây cương cho con vật đứng yên. Mấy đứa bé nhìn một cách thích thú, rồi bắt đầu cho ngựa đi nước kiệu về phía con đường mòn. Con ngựa của Nate cuối cùng cũng đi nước kiệu, một nước kiệu chậm và xóc làm anh lắc lư từ hông này sang hông kia. Thấy đi bộ coi còn dễ chịu hơn, anh buông cương và con ngựa chậm lại. Mấy đứa nhỏ quay vòng lại và cùng đi bộ bên anh.
Con đường mòn đi qua một cánh đồng cỏ nhỏ, đến một khúc quanh và căn nhà bị khuất tầm mắt. Phía trước là một đầm nước, giống như vô số những đầm nước mà Nate từng thấy từ trên không. Mấy đứa bé chẳng hề tỏ vẻ ngần ngại, bởi vì con đường mòn chạy ngang qua giữa đầm nước đó và mấy con ngựa trước đây đã từng qua lại nhiều lần. Chúng chẳng hề chùn bước hay chậm lại chút nào. Nước lúc đầu chỉ sâu vài inch, rồi một bộ, rồi chạm vào bàn đạp. Tất nhiên bọn trẻ vẫn đi chân trần, hoàn toàn thản nhiên đối với nước và chẳng thèm đếm xỉa có gì trong đó. Nate vẫn mang đôi giày thể thao Nike chẳng mấy chốc đã ướt nhẹp. Anh nhớ lại sách hướng dẫn có nói đến loại Piranha, một loại cá nhỏ với hàm răng sắc như dao cạo, vẫn nhung nhúc ở vùng Pantanal này.
Anh muốn đi lòng vòng quanh đây hơn là cứ tiến tới nhưng chẳng biết làm sao để diễn đạt ý đó. “Luis ơi”, anh gọi, giọng anh phản bội nỗi sợ nơi anh. Bọn trẻ nhìn anh không biểu lộ vẻ quan tâm chút nào.
Khi nước ngập sâu đến ngực mấy con ngựa, chúng chậm lại một tí. Thêm mấy bước nữa và Nate thấy lại đôi chân của mình. Mấy con ngựa nổi lên ở bờ bên kia nơi con đường mòn lại tiếp tục.
Họ đi qua một hàng rào đã đổ nát, về phía trái. Rồi lại một căn nhà đổ nát, hoang tàn. Con đường mòn rộng ra, lớn hơn. Nhiều năm trước đây, trang trại này hẳn là rộng lớn hơn bây giờ với những đàn gia súc đông đảo và nhiều nhân công.
Vùng Pantanal đã có những khu định cư từ hơn hai trăm năm trước – Nate biết điều đó từ những tài liệu để đọc – và chẳng mấy thay đổi. Dân cư thưa thớt và cách biệt nhau. Không thấy dấu hiệu người láng giềng nào hoặc trẻ con nào khác và Nate theo đuổi ý nghĩ về trường học và giáo dục. Những đứa trẻ này khi lớn lên có vù về Corumbá để tìm việc làm hoặc vợ chồng? Hay chúng chỉ lo thâm canh cái trang trại nhỏ này và sản sinh ra thế hệ pantaneiros kế tiếp? Marco và bà vợ có biết đọc, biết viết không và nếu biết, họ có dạy cho con cái họ không?
Anh sẽ hỏi Jevy những câu đó. Trước mặt, một đầm nước rộng lớn hơn với những cây mục ngã vào nhau, ở cả hai bên. Và tất nhiên là con đường chạy xuyên qua khoảng giữa đầm nước đó. Đang là mùa lũ, nước dâng cao khắp nơi. Trong những tháng mùa khô, đầm trở thành một vũng bùn và ngay cả một thiếu niên cũng có thể đi theo con đường này mà không sợ bị ăn thịt. Còn vào thời điểm này thì nên quay về thôi, Nate tự nhủ. Ít có cơ may lắm.
Mấy con ngựa lội ào ào như những cỗ máy, chẳng ngán gì sình lầy và nước bắn tung tóe nơi đầu gối chúng. Bọn trẻ nửa thức nửa ngủ. Bước đi hơi chậm lại vì nước đang dâng cao. Khi hai đàu gối của Nate đã ngập dưới nước và anh sắp la lên cho Luis nghe thì Oli uể oải chỉ tay về bên phải, nơi có hai thân cây mục vươn cao mười bộ trên mặt nước. Giữa hai thân cây, một con vật bò sát lớn màu đen, đang trầm mình dưới nước.
“Jacaré”, Oli nói và chỉ trỏ cho Nate biết. Một con cá sấu to đùng.
Đôi mắt nó lồi rõ so với toàn thân, và Nate chắc rằng đôi mắt khi đang âu yếm theo dõi anh. Tim đập nhanh như đang đua nước rút, anh muốn kêu to cầu cứu. Thằng Luis quay lại cười nhăn nhở bởi vì hắn biết ông khách quý đang hoảng sợ. Ông khách cũng cố cười… như mếu, làm bộ khoái chí được dịp chứng kiến tận mắt một con cá sấu… quá đỗi dễ thương!
Mấy con ngựa ngẩng đầu lên vì nước dâng cao. Nate đá vào con ngựa của anh, dưới nước, nhưng không có gì xảy ra. Con cá sấu chầm chậm trầm mình xuống nước cho đến khi chỉ còn thấy được đôi mắt, rồi nó phóng người tới trước về hướng họ, và biến mất trong làn nước đen. Nate rút đôi chân từ bàn đạp, gập hai đầu gối vào ngực, để đặt toàn bộ thân hình trên yên ngựa. Mấy thằng tiểu quỷ nói với nhau cái gì đó và cười rúc rích nhưng Nate mặc kệ chúng cứ cười cho thỏa thích, còn anh cữ giữ vững tư thế đó.
Qua khỏi khúc giữa của đầm, nước chỉ còn đến chân ngựa, rồi lắp xắp ở bàn chân. Lên bờ kia an toàn, Nate thấy thư giãn. Rồi anh tự cười mình. Khi về lại quê nhà, chuyện này sẽ có giá lắm đây. Anh có nhiều người bạn thích phiêu lưu – du lịch ba lô, đi bè trên sông lớn, đi bộ xuyên rừng rậm, đi săn thú dữ v.v… những kẻ lúc nào cũng muốn chơi trội hơn người khác với những câu chuyện kinh nghiệm “thập tử nhất sinh” của chính mình. Không biết trong bao nhiêu câu chuyện đó, có mấy phần thực hư, chứ còn chuyện của mình là phiêu lưu thứ thiệt, chứ không hư cấu chút nào. Nếu lao mình vào cái ngũ giác sinh thái của mình Pantanal này và với giá mười ngàn đô la, họ sẽ rất sung sướng được cưỡi con ngựa gầy... nhom này, băng qua đầm lấy, chụp hình rắn và cá sấu trên đường đi.
Không thấy con sông nào trước mắt, Nate quyết định quay về. Anh chỉ vào đồng hồ, và Luis dẫn cả bọn trở về nhà.
Chính viên chỉ huy trưởng đến nói vào điện thoại. Ông ta và Jevy trao đổi tâm tình chuyện đời quân ngũ hết năm phút – những nơi họ từng đóng quân, những người quen chung – trong khi đồng hồ chỉ điện năng nhấp nháy nhanh hơn và cái Sat-phone (điện thoại vệ tinh) dần dần hết năng lượng. Nate chỉ vào đó, Jevy đáp ứng bằng cách nói với viên chỉ huy tình cảnh nguy khốn của họ và mong ông ta khẩn cấp giúp đỡ.
Không sao. Một chiếc trực thăng đang sẵn sàng, phi hành đoàn đang túc trực. Thiệt hại có nặng lắm không?
Khá nặng, Jevy nói, nháy mắt với Milton.
Theo ước tính của đám phi công quân đội thì phải bay trực thăng mất độ bốn mươi phút mới đến nơi. Viên chỉ huy nói: Đợi chúng tôi khoảng một tiếng nữa. Milton, lần đầu tiên trong ngày, nở nụ cười.
Một giờ trôi qua và tình trạng lạc quan phai dần. Mặt trời lặn nhanh về phía tây, hoàng hôn tới gần. Một vụ cứu hộ ban đêm là điều không tưởng.
Họ quây quần bên chiếc máy bay bị hư hại, nơi Milton và Jevy đã làm việc cật lực trong cả buổi chiều. Cái cánh gãy cũng như cánh quạt đã được tháo ra. Cánh quạt được để trên cỏ, gần máy bay, còn dính đầy máu bò. Cái càng đáp bên phải bị cong nhưng không cần phải thay thế.
Con bò tử nạn máy bay đã được Marco và bà vợ xẻ thịt. Bộ xương của nó được phơi trên bụi cây gần đường băng.
Theo Jevy nói, Milton có kế hoạch quay lại bằng ghe ngay khi có thể tìm được một cái cánh và chiếc cánh quạt mới. Với Nate điều này có vẻ bất khả thi – làm thế nào anh ta chở một vật cồng kềnh như cái cánh máy bay trên một chiếc ghe nhỏ. Len lỏi trên các chỉ lưu chằng chịt của vùng Pantanal, rồi mang nó qua những đầm lầy như Nate đã từng đi qua trên lưng ngựa?
Nhưng đó là chuyện của anh ta. Nate có bao điều khác để lo lắng hơn.
Bà chủ trại mang cà phê và bánh ngọt đến và họ ngồi trên cỏ gần chuồng bò, nói chuyện phiếm. Ba cái bóng nhỏ theo sát Nate, sợ anh rời bỏ chúng. Lại thêm một giờ trôi qua.
Chính Tomas, đứa bé nhất, nghe được tiếng u u đầu tiên. Thằng bé nói gì đó, rồi đứng thẳng lên, chỉ trỏ và mọi người người như đóng băng. Âm thanh lớn dần và trở thành tiếng kêu không thể nhầm lẫn của máy bay trực thăng. Họ chạy đến khoảng giữa bãi đáp và nhìn lên bầu trời.
Khi máy bay đáp xuống, bốn người lính nhảy ra khỏi cửa và chạy đến bên đoàn người. Nate quỳ giữa đám trẻ, cho mỗi đứa mười real và nói với chúng “Feliz Natal” (Chúc Giáng sinh vui vẻ). Rồi anh rời xa chúng nhanh, xách va li của mình lên và chạy về phía chiếc trực thăng.
Jevy và Nate vẫy tay chào gia đình Marco khi máy bay bốc lên cao. Milton còn bận rộn cám ơn rối rít đám phi công và mấy người lính. Lên cao năm trăm bộ, họ nhìn thấy vùng Pantanal trải dài đến tận chân trời. Phía đông, trời đã tối.
Khi họ bay qua thành phố Corumbá, nửa giờ sau, thì trời đã tối mịt. Nhưng bên dưới quang cảnh trông thật đẹp mắt – nhà cửa và các tòa cao ốc đều lên đèn rực rỡ, các cây thông Noel nhấp nháy đủ màu, xe cộ qua lại tấp nập. Họ hạ cánh xuống căn cứ quân sự ở phía tây thành phố, trên một mũi đất cao sát bờ sông Paraguay. Viên chỉ huy đến gặp họ và nhận những lời cám ơn nồng nhiệt mà ông xứng đáng được hưởng. Ông hơi ngạc nhiên thấy không ai bị thương tích gì trầm trọng, tuy vậy ông rất vui vì cuộc cứu hộ thành công tốt đẹp. Ông cho một tài xế trẻ đưa họ lên xe jeep về thành phố.
Khi vào đến thành phố, chiếc xe jeep bỗng đột ngột quay một vòng và dừng lại trước một tiệm bánh thực phẩm nhỏ. Jevy đi vào và quay trở ra với ba lon bia Brahma. Anh thẩy một lon cho Milton, một lon cho Nate.
Sau một thoáng do dự, Nate bật nắp và dốc ngược lon bia vào mồm. Bia ướp rất lạnh, thật ngon. Vả chăng tối nay là đêm Noel mà. Một lon bia thì đã sao. Anh đủ sức tự chủ mà.
Ngồi phía sau xe jeep qua những đường phố bụi bặm, không khí ẩm ùa vào mặt, tay cầm lon bia lạnh, Nate tự nhắc lại mình đã may mắn biết bao khi vẫn còn sống sót an toàn sau chuyến bay kinh hoàng đó.
Gần bốn tháng trước anh đã toan tự tử. Bảy giờ trước đây anh đã sợ điếng hồn, tưởng mình chết đến nơi, và sung sướng đến phát khóc khi thấy mình còn sống sót sau tai nạn.
Nhưng một ngày đã qua mà chẳng được tích sự gì. Anh vẫn chẳng đến gần hơn với Rachel Lane được chút nào so với ngày hôm trước.
Trạm ngừng đầu tiên là khách sạn. Nate chúc tất cả một Giáng sinh vui vẻ, rồi đi về phòng mình, anh cởi bỏ quần áo và đứng dưới vòi sen trong hai mươi phút.
Có bốn lon bia trong tủ lạnh. Trong vòng một giờ, anh uống hết cả bốn lon, tự nhủ với mỗi lon, rằng đây không phải là trượt ngã trở lại. Sẽ không đưa đến sự cố. Mọi việc ở trong tầm kiểm soát. Anh đã vờn cái chết vậy tại sao không ăn mừng Giáng sinh vui vẻ một tí? Nào ai biết được. Nhưng anh quả quyết mình vẫn luôn vững vàng.
Điều độ. Luôn làm chủ được mình. Ngay cả nhấm nháp tí rượu. Không hề gì. Thỉnh thoảng một vài lon bia. Có gì phải sợ?