Nam Hải dị nhân - Chương 5 - Phần 1

CHƯƠNG THỨ V: CÁC BẬC MÃNH TƯỚNG

LÊ PHỤNG HIỂU

Lê Phụng Hiểu người làng Băng Sơn, phủ Thanh Hóa (tức là xã Dương Sơn, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa bây giờ). Người cao lớn to tát, râu ria xồm xoàm, gân sức khỏe mạnh. Khi đang trạc 20 tuổi, có hai thôn Cổ Bi, Đàm Xá tranh nhau địa giới, đem dân phu ra đánh nhau. Phụng Hiểu vung cánh tay lên bảo với người làng Cổ Bi rằng:

- Chỉ một mình tôi có thể đánh đổ được muôn người.

Các cụ làng ấy mừng lắm, làm rượu mời Phụng Hiểu ăn uống. Phụng Hiểu uống rượu say rồi ăn hết nồi ba mươi cơm mới no. Bấy giờ mới ra khiêu chiến với người làng Đàm Xá. Khi hai xã giáp chiến, Phụng Hiểu vươn mình lên nhổ một cây to bên vệ đường, cầm ngang trong tay, xông vào đánh dân Đàm Xá. Dân kia rẽ ra mà chạy, không ai dám địch, mà ai địch cũng thua, hoặc chạy không kịp thì chết. Dân ấy sợ hãi phải nhường trả ruộng làng Cổ Bi.

Bấy giờ vua Thái Tổ nhà Lý, kén người có sức khỏe mạnh, để sung vào quân túc vệ. Phụng Hiểu ra ứng mộ hầu hạ vua đắc dụng lắm, dần dần được nhắc lên làm Võ vệ tướng quân.

Khi vua Thái Tổ mất, vua Thái Tôn nối ngôi, có ba vị vương là Dực thánh vương, Võ đức vương và Đông chinh vương mưu làm phản, đem binh phạm vào cửa cung Đại nội, muốn tranh ngôi vua Thái Tôn.

Vua Thái Tôn lo sợ, vời Phụng HIểu mà bảo rằng:

- Việc kíp đến nơi rồi, trẫm không biết nghĩ ra làm sao nữa, cho người được phép tự tiện mà giúp việc cho trẫm.

Phụng Hiểu vâng mệnh, đem quân túc vệ ra cửa cung, đánh nhau với quân ba phủ kia. Phụng Hiểu trông thấy Võ đức vương cưỡi ngựa đứng ngoài cửa Quảng Dương trỏ bảo quân sĩ, Phụng Hiểu hầm hầm nổi giận, cầm gươm xông thẳng đến trước ngựa Võ đức vương, trỏ vào mặt mà quát mắng rằng:

- Các vương dám dòm nom thần khí, coi thường thiên tử, trên thì quên ơn Tiên đế dưới thì trái nghĩa tôi con. Tôi là Phụng Hiểu đây, xin dâng đại vương một thanh kiếm này!

Nói đoạn, xông thẳng vào chém, các quân chống lại không nổi, chạy dãn ra bốn phía. Võ đức vương toan quay ngựa, nhưng chạy không kịp, bị chém ngã quay xuống đất.

Quân ba phủ kia thấy vậy, người nào người nấy tìm đường tháo thân, quân túc vệ thừa thế đành tràn ra, giết quân ba phủ không còn mống nào, chỉ có hai vị vương kia chạy được thoát.

Vua Thái Tôn thấy Phụng Hiểu thắng trận, gọi vào an úy[lxv] rằng:

- Trẫm nay được thừa đương cơ nghiệp của Tiên đế, và được toàn vẹn cái thân, toàn do tự sức của ngươi cả. Trẫm xem sử nhà Đường, thấy Uất trì Kính Đức cứu nạn cho vua Đường Thái Tôn, tưởng là các bày tôi đời sau không còn ai trung dũng được như Kính Đức nữa, nay ngươi khỏe mà lại trung với trẫm như thế, thì ra hơn Kính Đức ngày xưa.

[lxv] An ủi, khích lệ (BT).

Phụng Hiểu lạy tạ nói rằng:

- Bệ hạ, đức cảm đến cả trời đất, uy khắp đến cả cõi xa; trong triều, ngoài nội, ai ai cũng phải tuân phép; thế mà chư vương dám manh tâm làm phản, thần thánh trên dưới cũng có bụng muốn giết, cho nên mới trừ được loạn, chứ như chúng tôi thì có công gì.

Vua phong cho làm Đô thống thượng tướng quân. Đến năm Thiên cảnh thánh võ (1044), vua Thái Tôn vào đánh Xiêm Thành, sai Phụng Hiểu làm tiên phong, phá tan quân giặc, tiếng lừng lẫy đến ngoại quốc. Khi vua thành công trở về, định phong thưởng cho Phụng Hiểu nhưng Phụng Hiểu từ không nhận tước thưởng, xin đứng ở trên núi Băng Sơn, ném một thanh đao ra ngoài, hễ rơi xuống chỗ nào, thì xin đất đến đấy để lập nghiệp.

Vua ưng cho như thế. Phụng Hiểu đứng ở trên đỉnh núi, ném một thanh đao ra ngoài mười dặm, sa xuống cắm vào làng Đa Mỹ. Vua mới ban ruộng thưởng cho đến chỗ cắm đao, tính ra được hơn nghìn mẫu.

Tự đấy ruộng thưởng cho công thần gọi là ruộng Thác đao (nghĩa là cắm đao), là do sự tích ấy.

Phụng Hiểu hết lòng thờ vua, biết điều gì nói điều ấy, mà động đi đánh trận nào cũng được. Đến năm 77 tuổi mới mất. Dân làng ấy lập miếu thờ làm phúc thần, lịch triều[lxvi] có phong tặng cả.

[lxvi] Các triều đại vua chúa (BT).

ĐOÀN THƯỢNG

Đoàn Thượng người làng Hồng Thị, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương. Thời vua Huệ Tôn nhà Lý, phụng mệnh trấn thủ ở Hồng Châu.

Đoàn Thượng có sức khỏe hơn người, gân xương như sắt, mỗi khi lâm trận, chỉ một đao một ngựa xông vào đám trăm nghìn người, tung hoành vô địch.

Đến khi Lý Chiêu hoàng nhường ngôi cho vua Trần Thái Tôn, Đoàn Thượng chiếm giữ một châu, không chịu hàng theo về mới nhà Trần. Thái sư nhà Trần là Trần Thủ Độ sai sứ đến dụ hàng. Thượng nhất định không nghe. Chiêu binh tập mã, tự xưng là Đông hải vương, có ý muốn khôi phục giang sơn cho nhà Lý.

Trần Thủ Độ đem quân xuống đánh nhau luôn mấy năm không phá nổi, mới lập mẹo sai người đến giảng hòa, mà kỳ thực thì sai một đại tướng là Nguyễn Nộn đem quân đánh tập công mặt sau.

Đoàn Thượng chắc đã giảng hòa rồi, phòng bị không được cẩn thận như trước, sực nghe tin Nguyễn Nộn đến đánh, mới kéo quân ra cự địch. Đôi bên đánh nhau đang hăng, thì Thủ Độ lại cầm đại quân từ đường Văn Giang đánh đến mé trước. Quân nhà Trần hai mặt đánh dồn vào một, quân của Đoàn Thượng kinh hãi chạy tán lạc mất cả. Đoàn Thượng vội vàng quay ngựa về đánh mặt tiền quân, không ngờ bị một viên tướng nhà Trần, từ mé sau sấn lên chém một nhát vào cổ gần đứt, Đoàn Thượng ngoảnh lại, thì tướng kia sợ hãi mà chạy mất. Đoàn Thượng mới cởi dây lưng ra buộc vào cổ cho khỏi rơi đầu, rồi hầm hầm tế ngựa chạy về phía đông. Chạy đến đâu, quân nhà Trần phải dãn đường cho chạy, chớ không dám đánh.

Khi chạy đến làng An Nhân, có một cụ già áo mũ chững chạc, chắp tay đứng bên đường nói rằng:

- Tướng quân trung dũng lắm, Thượng đế đã kén ngài làm thần xứ này rồi đây! Có một cái gò bên làng cạnh kia, đó là đất hương quả của tướng quân, xin tướng quân để lòng cho.

Đoàn Thượng vâng một tiếng, rồi đến chỗ gò ấy, xuống ngựa gối đầu vào ngọn mác mà nằm, một lát thì mất, mối đùn đất lên lấp thành mồ ngay.

Dân làng thấy vậy, lập miếu tô tượng để thờ. Về sau, nước lụt vỡ đê, tượng trôi vào làng An Nhân, làng ấy lại lập một tòa miếu khác để thờ. Miếu ở cạnh bờ sông Hồng giang, mé trước ngoảnh vào con đường cái chính xứ đông bắc. Thần linh ứng lắm, kẻ qua lại mà ngạo ngược thì có tai nạn ngay. Các khách buôn thuyền qua lại cửa đền, có đồ lễ vào thì buôn bán đắt hàng. Tục truyền những khách buôn chum vại vào bán chợ Hồng, ai mà vào đền lễ thì buôn bán thông đồng chóng hết lắm; mà ai không lễ, thì ế mãi không bán được, thường phải quẳng bỏ ngoài bến sông, nếu không thế thì tất lại có sự sóng gió lo lường.

Lịch triều cũng có phong tặng làm thượng đẳng thần. Miếu ấy đến giờ vẫn còn.

PHẠM NGŨ LÃO[lxvii]

[lxvii] Xem truyện “Hưng Đạo Vương” thì rõ sự tích.

Phạm Ngũ Lão là người học trò ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương (bây giờ thuộc về huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), có sức khỏe lạ thường, muôn người khôn địch.

Phạm Ngũ Lão mặt mũi khôi ngô, đủ cả văn võ tài lược. Nhà vốn chỉ có nghề làm ruộng, đến Ngũ Lão mới theo nghề học nho. Trong hai mươi tuổi đã có tính khảng khái. Trong làng có một người tên là Bùi Công Tiến đỗ Tiến sĩ ăn mừng, cả làng kéo đến mừng rỡ, chỉ Ngũ Lão không thèm đến.

Bà mẹ Ngũ Lão bảo rằng:

- Con làm thế nào cho bằng người ta thì làm. Nay người ta ăn mừng, cả làng mừng rỡ, sao con không đến mừng một chút.

Phạm Ngũ Lão thưa rằng:

- Thưa mẹ, con chưa làm nên gì để vui lòng mẹ, mà con đi mừng người ta, thì con lấy làm nhục lắm.

Ngũ Lão tính hay ngâm thơ, thường ngâm một bài rằng:

Ngọn gió non sông trải mấy thâu,

Ba quân tỳ hổ át sao Ngâu,

Công danh nếu để còn vương nợ,

Luống thẹn tai nghe truyện Võ hầu.

Nhà ở bên cạnh đường cái, có một khi Phạm Ngũ Lão ngồi vệ đường vót tre đan sọt, sực có Trần Hưng Đạo Vương từ trại Văn An vào kinh, quân quyền kéo đi rất đông. Quân tiền hô thấy Ngũ Lão ngồi xếp bằng tròn bên cạnh đường, quát lên bắt phải đứng dậy. Ngũ Lão cứ ngồi nghiễm nhiên, như không nghe tiếng. Quân lính cầm ngọn giáo đâm vào đùi, Ngũ Lão cũng cứ ngồi vững không động mình. Đến lúc xe Hưng Đạo Vương đến nơi, trông thấy thế lấy làm lạ, gọi đến hỏi, thì bây giờ mới biết là có quan quân đi qua, và quân lính đâm vào đùi mình.

Hưng Đạo Vương hỏi rằng:

- Nhà thầy kia ở đâu, sao ta đi qua đây mà cứ ngồi chững chàng làm vậy?

Thưa rằng:

- Tôi đang mãi nghĩ một việc cho nên không biết là ngài chảy qua đây.

Hưng Đạo Vương lấy làm kỳ, hỏi đến sự học hành, thì hỏi đâu nói đấy, nội về kinh truyện thao lược, không sót chỗ nào, ứng đối nhanh như nước chảy.

Hưng Đạo Vương mới sai lấy thuốc dấu rịt vào chỗ nhát đâm, rồi cho ngồi xe đem về kinh, dâng lên vua Thánh Tôn.

Vua thấy người có sức khỏe, lại có học thức, cho vào làm quản vệ sĩ. Các vệ sĩ không chịu, xin đấu sức với Ngũ Lão. Ngũ Lão xin vâng, nhưng xin vua cho về nhà ba tháng, để thu xếp việc nhà, rồi sẽ xin đấu sức và nhận chức nhân thể. Vua cho về, Ngũ Lão về nhà ra ngoài đồng, tìm chỗ gò cao tập nhảy, cứ cách mười trượng chạy đến nhảy vót qua gò. Tập luyện thành rồi, vào kinh đấu sức. Khi đấu quyền với các vệ sĩ thì không ai địch nổi, rồi Ngũ Lão thách cả các vệ sĩ cùng ra đấu. Các vệ sĩ xúm xít chung quanh, hàng trăm, nghìn người. Ngũ Lão tay đấm chân đá, nhảy nhót như bay, chạm phải ai phi[lxviii]chết thì què gẫy, các vệ sĩ không tài gì mà đánh lại được, bấy giờ mới chịu phục.

[lxviii] Không (BT).

Vua thấy người kiêu dũng làm vậy, cho theo Hưng Đạo Vương đi đánh giặc Mông Cổ, thì đánh trận nào cũng được, lập nên công trạng rất nhiều. Hưng Đạo Vương có lòng yêu mến, gả con nuôi là Nguyên quận chúa cho.

Về sau, nước Ai Lao[lxix] đem hơn một vạn voi sang cướp đất Thanh, Nghệ, vua sai Ngũ Lão cầm quân đi đánh. Ngũ Lão sai dân chặt tre đực cứ dài độ một trượng, chồng chất vào các vệ đường. Khi Ngũ Lão kéo quân vào đánh, giặc thúc voi sấn lên, Ngũ Lão chỉ chân tay không sấn vào gặp đống tre nào thì với lấy cái đống tre chỗ ấy, đập vào chân voi. Voi bị đau gầm rống lên chạy về, giầy xéo cả quân Ai Lao. Ngũ Lão mới thúc quân đánh tràn sang, quân Ai Lao tan vỡ, phải trốn về đêm.

[lxix] Nước Lào (BT).

Vì có những công to ấy, được thiên[lxx] lên làm Điện tiền thượng tướng quân. Đến khi mất, được phong làm Thượng đẳng phúc thần, người làng Phù Ủng lập miếu thờ ngay ở chỗ nhà Ngũ Lão.

[lxx] Đổi (BT).

Ngũ Lão nguyên là bộ tướng của Hưng Đạo Vương, cho nên các đền thờ Hưng Đạo Vương, cũng có thờ Ngũ Lão nữa.

Tục lại truyền khi Ngũ Lão còn hàn vi, xin với mẹ đi tìm kế lập công danh, ở trong nước chưa có dịp nào, mới sang ở chăn voi cho vua nước Ai Lao. Ngũ Lão cầm một lá cờ đỏ dạy voi, hễ phất lá cờ thì voi phải quỳ xuống hết. Đến khi nghe tin có giặc Mông Cổ quấy nước Nam, mới về theo Hưng Đạo Vương đi đánh giặc. Về sau nước Ai Lao sang cướp vùng Thanh, Nghệ, vua sai Ngũ Lão đi đánh. Ngũ Lão thấy Ai Lao thúc voi xông vào trận, mới phất lá cờ đỏ, thì voi trông thấy hiệu ông ấy, lại phục cả xuống, vì thế mới phá được quân Ai Lao.

NGUYỄN XÍ

Nguyễn Xí người làng Sái Xá, huyện Chân Phúc, tỉnh Thanh. Thân phụ Nguyễn Xí gặp buổi cuối đời nhà Trần, trong nước loạn lạc, không muốn ra làm quan, tu ở chùa làng, gọi là Hòa Nam thiền sư. Mỗi đêm đến gà gáy thì thức dậy đánh chuông, đốt hương tụng kinh.

Có hàng thịt lợn ở cạnh chùa, hễ cứ nghe tiếng chuông thì thức dậy giết lợn. Một hôm, nhà hàng thịt mua lầm phải con lợn cái chửa, định để sáng mai thì làm thịt bán hàng.

Đêm hôm ấy, nhà sư nằm mơ thấy một người đàn bà đến kêu khóc rằng:

- Xin ông đêm hôm nay đừng đánh chuông vội, cứu lấy tám, chín mạng cho mẹ con tôi.

Nhà sư ngạc nhiên không biết sự gì, nhưng cũng nghe lời không đánh chuông vội. Nhà hàng thịt vì thế dậy trưa, thì con lợn cái đã đẻ ra 8 con. Nhà sư thấy vậy lấy làm kỳ, mới mua cả đàn lợn ấy thả vào trong núi.

Được vài tháng, nhà sự phải hổ bắt mất, nó cắn chết bỏ dưới sườn núi. Sáng mai, người nhà đi tìm thấy mối đùn đất lấp lên thành mồ rồi. Có người biết địa lý, xem hình thế chỗ ấy, cho là được ngôi hổ táng.

Con ông sư ấy là Nguyễn Xí, bấy giờ đã 17 tuổi, vốn có sức khỏe hơn người, tập nghề võ đã giỏi, nhưng vì nhà nghèo khó, phải ra tỉnh Thanh bán dầu kiếm ăn.

Một hôm đi qua huyện Lam Sơn, trời đã tối, xung quanh không cửa nhà nào, chỉ có một ngọn miếu thờ thần, mới vào nghỉ trong miếu ấy. Đến canh ba, phảng phất nghe có tiếng xe ngựa rầm rầm, và nghe có tiếng bảo ông thần trong miếu rằng: “Hôm nay trên thiên đình hội các bách thần định lập thiên tử nước Nam, việc ấy quan hệ to, mời ngài đi với tôi nhân thể”. Ông thần trong miếu nói rằng: “Tôi dở có quí khách dưới trần trọ đây, không sao đi được, ông có được nghe điều gì, xin về bảo cho tôi được biết”. Cuối canh tư lại nghe có tiếng về báo rằng: “Thiên đình đã định xong ngôi Hoàng đế nước Nam rồi, tức là người ở Lam Sơn, huyện Thụy Nguyên họ Lê tên Lợi. Thượng đế cho đến giờ thân, ngày thân, tháng thân thì khởi binh, mười năm mới yên xong thiên hạ”.

Nguyễn Xí nghe rõ ràng các câu ấy, gà gáy thức dậy, tìm đến làng Lam Sơn, hỏi thăm và nhà Lê Lợi, kể rõ lại những việc nghe thấy chuyện như thế.

Lê Lợi bấy giờ đã có 300 thủ hạ, sắp sửa muốn ra dẹp loạn, nghe thấy nói, lập tức khởi binh ngay tháng bảy năm ấy.

Nguyễn Xí theo giúp Lê Lợi đánh nhau với quân nhà Minh, xông pha trong đám mũi tên hòn đạn, đánh đến đâu quân Tàu tan ra đến đấy. Trong 10 năm trời, lập lên rất nhiều công trạng. Đến khi thiên hạ bình định, Lê Thái Tổ cho Nguyễn Xí là sáng nghiệp đệ nhất công thần, và phong làm Nguyễn quốc công, cho quốc tính gọi là họ Lê.

Nguyễn Xí làm quan trải ba triều: Thái Tổ, Thái Tôn, Nhân Tôn, khi có giặc giã thì đi dẹp, khi thường thì lại vào túc vệ trong cung cấm. Khi vua Nhân Tôn bị Nghi Dân cướp ngôi (con cả vua Thái Tôn, phải bỏ không được lập), Nguyễn Xí đem binh dẹp loạn, giết được bọn đồ đảng của Nghi Dân là Phạm Đồn, Phan Ban rồi bỏ Nghi Dân đi đón Bình nguyên vương lập lên, tức vua Thánh Tôn. Nguyễn Xí vì có công ấy lại được tiến lên làm chức Thái úy, Cương quốc công.

Bấy giờ Nguyễn Xí có 12 con, cũng được phong tước làm quan tại triều, quyền thế hách dịch nhất thời ấy. Vua thấy lồng lẫy quá, sai đào con sông Cấm giang ở làng Sái Xá, để triệt long mạch làng ấy, thân long chảy ra huyết ba ngày.

Một hôm, năm con làm quan trung úy, cùng chết một ngày, từ bấy giờ con cháu sa sút.

PHẠM TỬ NGHI

Tử Nghi người làng Vĩnh Niệm, huyện An Dương, tỉnh Hải Dương, sức khỏe như thần.

Tử Nghi thường đắp một con đường dài ở trên mặt đê, đôi đầu đắp ụ cao 5 thước, rồi vác gậy chạy lên mặt đê, cứ đến chỗ ụ cao thì đánh một cái, ụ lại sạt xuống như đất phẳng.

Khi sau đến kinh thành Thăng Long, trông thấy hàng trăm người lính đang kéo thuyền rồng ở trên mặt đất xuống sông, mà kéo không nổi.

Tử Nghi cười nói rằng:

- Khéo những đồ bị thịt kia! Có một cái thuyền như thế xúm xít vào kéo mà không nổi, thì làm trò gì được?

Chúng tức giận, kẻ nghiến răng, người trợn mắt, toan xúm vào đánh, thì Tử Nghi lại nói rằng:

- Vậy thì các anh để đấy, chỉ một mình ta kéo cho mà xem.

Chúng thấy nói vậy, bỏ cả đi ra, bắt Tử Nghi phải kéo thuyền, nếu kéo không xong thì sẽ hay. Tử Nghi vén tay áo, dùng hết sức bình nhật, chỉ một tay lôi tuột chiếc thuyền rống xuống sông. Chúng ai nấy lắc đầu le lưỡi, chịu ông ta là có sức khỏe gấp nghìn người.

Bấy giờ nhà Mạc mới lên, nghe có người hùng dũng làm vậy cử làm đại tướng, cho lên trấn thủ mặt Thượng du. Tử Nghi ở trấn vài năm, dẹp tan đám giặc cỏ, có tiếng lừng lẫy đến cả Bắc triều[lxxi]. Về sau nhân dẹp giặc, phá lây đến các tỉnh ven Tàu; Tàu đưa hịch sang trách đến triều đình nước Nam. Tử Nghi đến dinh quan Tổng đốc Quảng Đông, xin chịu tội để cho yên tâm vua nước mình.

[lxxi] Chỉ Trung Quốc (BT).

Người Tàu đem Tử Nghi ra hành tội, rồi bỏ đầu lâu và thây vào một cái hòm, che một cái lọng, thả xuống sông cho trôi về nước Nam. Trôi tự Nam Quan về mãi đến giang phận làng Vĩnh Niệm, thì đứng lại không trôi nữa, rồi đêm báo mộng cho dân làng ấy phải ra vớt về mai táng, và phải lập đền phụng tự.

Dân làng sáng mai ra vớt, lập miếu thờ ngay bên cạnh sông, từ đấy linh ứng lắm. Về sau, hiển linh bảo các làng ở ven sông, cho nên tự Nam Quan về mãi đến Hải Dương, Sơn Nam nội chỗ nào có bến, là cũng phải lập miếu thờ cả.

Lịch triều phong tặng làm Linh ứng đại vương thần.

ĐINH VĂN TẢ

Về đời Lê trung hưng, ở làng Hàm Giang, tỉnh Hải Dương, có người tên là Đinh Văn Tả, sức vóc mạnh mẽ, tính khí hung hăng. Lúc còn nhỏ, chơi bời với lũ côn quang, chúng bầu lên làm đàn anh cả.

Cạnh làng có một con sông to rộng hơn một dặm, ngày ngày ra tắm, bơi vòng tự bên này sang bên kia, chơi bời luyện tập.

Một hôm, họp bằng bối[lxxii] uống rượu bên cạnh bờ sông, nghe bên kia sông, có tiếng chiêng trống tế thần. Anh em đố nhau lội được qua sông sang ăn trộm cái chiêng của làng kia đem về.

[lxxii] Bạn bè (BT).

Đinh Văn Tả nói:

- Khó gì việc ấy mà phải đố.

Bấy giờ đang đêm, Văn Tả lập tức lội xuống sông, vòng sang bên kia, lẻn vào đình, ăn trộm được cái chiêng đem ra, lại lội xuống bơi về. Khi ra đến giữa dòng sông, khua chiêng vang cả lên làng bên kia nghe tiếng, mới biết là mất trộm, tìm thuyền đuổi theo thì không kịp.

Về sau, nhân có tội phải giam trong ngục Đông Môn. Khi ấy, triều đình đương có việc dụng binh, chúa Trịnh sai các tướng võ tập bắn ở lầu Ngũ Long. Văn Tả và tên lính canh ngục đứng xem thấy không mấy người bắn trúng bia, cười mà nói rằng:

- Bia rành rành thế kia, mà bắn không trúng, sao mà họ hèn làm vậy?

Các tướng đứng bắn, nghe tiếng giận lắm, đưa súng cho Văn Tả và bảo rằng:

- Anh nói khoác làm gì thế, súng đây, anh thử bắn đi này!

Văn Tả không thèm cầm súng nhỏ, xin mượn khẩu súng to, cắp lên trên mang tai, bắn ra ba phát, vỡ ba cái đích. Các người kia ai cũng chịu là tài; rồi lại sai bắn thử lần nữa xem làm sao, thì bắn phát nào tin phát ấy, mười phát đậu chục. Việc ấy lên đến tai chúa Trịnh, mới tha tội, cho theo đi đánh giặc.

Bấy giờ chúa Trịnh đang chống nhau với Nguyễn ở trong Nam hà. Một bữa quân Bắc đóng ở trên núi, quân Nam đột nhiên đến vây đánh, quân Bắc bị thua tan chạy mất cả, chỉ còn một mình Đinh Văn Tả phục trong bụi rậm, chờ khi quân Nam đuổi theo, ở trong bụi bắn ra, quân Nam tưởng có nhiều quân mai phục phải lui về; quân Bắc thừa thế quay lại đánh, quân Nam phải chạy. Tự bấy giờ nổi tiếng. Về sau, lại lập được nhiều công chiến trận, chúa Trịnh phong cho làm quận công. Văn Tả nộp trả bằng sắc không nhận, chỉ xin rút trong sổ án từ ra mà thôi, nhưng chúa Trịnh cũng cứ phong cho.

Đến thời vua Hi Tôn, dư đảng nhà Mạc là Mạc Kính Vũ, vẫn còn chiếm giữ trên xứ Cao Bình. Vua sai Văn Tả thống lĩnh đại binh đi đánh, phá vỡ quân nhà Mạc. Kính Vũ phải chạy sang Long Châu, mới trừ hết được đảng nhà Mạc. Tự đấy làm quan đến cực phẩm hàng võ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay