Trở lại Thiên Đường - Chương 21 - Phần 2 (Hết)
Quay trở lại với chiếc máy làm bốc hơi, anh tập trung vào đợt thứ nhì. Nhưng lần này anh không đổ chúng qua máy ép lọc khi nhiệt độ đạt đến bảy độ trên sôi, tức là độ để nhựa biến thành xi rô, anh cứ tiếp tục khuấy và cạo để nó khỏi bị cháy xém. Ngay trước khi nhiệt độ lên cao dần, và trước khi nó đạt đến điểm biến chất xi rô thành những hạt đường, anh rót chúng vào xô, hai cái cho anh và hai cái cho Griffin. Để Billy và Amos lại tại máy làm bốc hơi, cả hai bước ra bên ngoài.
Làm sao Micah không sung sướng khi nhìn thấy quang cảnh ở đây? Hầu hết những người mà anh yêu mến đều có mặt. Poppy, Lily và John, Cassie cùng với gia đình, Charlie và Annette cùng với mấy người con không phải trực ở cửa hàng, Camillle gia đình Winslow, bạn bè của Heather như Sigrid, Marianne, Leila Higgins cùng với những người sống ở phía bên kia hồ, nhóm người ở khu Ridge, ngay cả Willie Jack, người từng liên can đến vụ bắt giữ Heather. Micah không còn giữ mối ác cảm với ông ta nữa, hay với Norman Anderson lúc này đang được bà Maida đón tiếp rất chu đáo với tất cả lòng hiếu khách của Lake Henry.
Ánh nắng xế chiều biến mọi thứ từ những chiếc áo khoác ngoài, những chiếc mũ đến những khuôn mặt náo nức, những ngọn đồi, thành một màu vàng sẫm. Gần đấy là một chiếc bàn dài bên trên đặt sẵn những hộp bánh cam vòng, một thùng dưa ngâm dấm và những đĩa bằng giấy, khăn ăn và muỗng.
Micah vừa đặt cái xô xuống là đám trẻ con đã đến bu quanh anh, mỗi đứa trẻ trên tay đều có sẵn một món đồ đựng tuyết. Anh cầm từng cái một, múc chất xi rô nóng đổ lên đấy theo một đường vòng xoáy, trả lại cho đứa bé, rồi tiếp tục đổ cho đứa khác. Chất xi rô nóng gặp tuyết đông lại ngay, và biến thành một chất dẻo có thể dùng tay hay nĩa lấy ra. “Nhựa cây thích” đó là cái tên trước kia dùng để gọi nó. Nhưng bây giờ nó có một cái tên khác, “Đường nhúng tuyết” nghe hay ho hơn. Ăn nó không cũng đã ngon lắm rồi, ăn nó với bánh cam và dưa chua càng ngon tuyệt.
Đường nhúng tuyết là một trong số rất ít những ký ức đẹp đẽ nhất thời thơ ấu của anh. Anh chợt thấy mình trẻ như một cậu bé. Và trong cái tâm trạng ấy, anh đã cho chiếc muỗng xi rô ngòng ngoèo thành chữ đầu tên của những đứa bé. Con bé Star cười khúc khích khi anh cho một muỗng xi ro chạy thành chữ S trên bát đựng tuyết của nó. Nó đưa ra một cái đĩa tuyết khác, rồi đưa mắt trìu mến nhìn lui về phía Thea lúc ấy đang đứng chờ cạnh đó, anh thấy thương và cho muỗng của mình vẽ thành chữ T. Star rất sung sướng chồm lên hôn mạnh má anh.
Khi Star chực chạy đi, anh nắm chéo áo sau của nó: - Chị con đâu?
- Con không biết. - Rõ ràng là con bé không quan tâm đến chị nó nữa. Tình thương của nó bây giờ đã dành cả cho con người có mang một phần của Heather trong đó.
Griffin đứng cạnh anh, đang múc xi rô cho mọi người, lên tiếng: - Nó vừa đến chỗ tôi với mấy con bé của Rose Winslow, và tất cả hiện đang ở trên đồi.
Micah đưa mắt nhìn lên. Missy đang cùng với Emma, Ruth và mấy đứa bé khác bốc thứ gì đó trên cùng một cái đĩa, và trông có vẻ vui sướng.
Anh yên tâm quay trở lại tiếp tục công việc. Khi đám trẻ con được ăn xi rô thỏa thích xong thì đến lượt người lớn đến, và chỉ một lát sau là xi rô của anh đã cạn. Micah đang định quay đi lấy thêm, thì nhìn thấy từ đầu con đường dẫn vào nhà anh, một chiếc xe của cảnh sát Lake Henry đang chạy vào. Anh đặt cái xô xuống đất, tự nhủ có lẽ Peter muốn ghé lại xem sự việc diễn tiến ra sao và chợt thấy lạnh ở sau gáy - một linh cảm - giống như lúc sáng tinh mơ cách đây hơn ba tuần lễ, hôm Heather bị bắt giữ. Anh thấy không chỉ mình anh mà quanh anh tiếng cười cũng lắng xuống, và đám đông đã im lặng hẳn.
Anh bước tới trước. Cassie xuất hiện ngay gần đấy, nhưng anh vẫn không dừng bước. Chiếc xe nọ đột nhiên chạy chậm lại, nhưng vẫn còn ở một khoảng cách xa ngôi nhà. Nó vừa dừng lại thì cửa xe mở ra ngay.
Micah đứng khựng lại khi thấy Heather bước quanh chiếc xe, dừng lại một chút, rồi bắt đầu chạy. Chiếc áo khoác ngoài của nàng mở tung ra, mái tóc xõa dai hai bên. Dù vẫn còn cách anh một khoảng, Micah cũng thấy nàng đang khóc, nhưng đôi mắt màu xám bác như sáng hẳn lên, tràn đầy vui sướng. Và nàng đang chạy về phía anh. Micah chợt thấy mọi nỗi ngờ vực của anh đều tan biến. Anh không hiểu tại sao, nhưng biết ngay là những gì anh cùng nàng chia sẻ trước giờ vẫn còn nguyên đó. Những kết hợp trong cuộc sống hàng ngày, những tương hợp về cá tính, đã không mất đi như anh nghĩ.
Anh bắt đầu chạy, càng đến gần nàng càng nhanh hơn. Rồi thì Heather đã ở trong vòng tay anh, nức nở gọi tên anh, ôm chặt cổ anh.
- Em yêu anh, - nàng thì thầm. Rồi buông anh ra ngập ngừng nói. - Em trở về được chứ? Em muốn trở về.
Anh đưa mấy ngón tay cái lên lau những giọt nước mắt trên má nàng, rồi hôn nàng bằng tất cả sức lực, tất cả niềm đam mê của mình. Anh lại ôm chặt nàng, nhắm mắt hưởng thụ nỗi sung sướng, nhấc bổng người nàng lên quay một vòng, người ngây ngất đê mê.
Khi anh đặt nàng xuống, nụ cười không ngớt nở trên môi anh. Heather cũng thế. Nàng vuốt má anh nhè nhẹ, rồi thì thầm nói:
- Em cần gặp mấy con bé của em.
Đôi mắt nàng nhìn anh như muốn xin sự chấp thuận của anh. Micah nhìn lui vừa lúc con bé Star đang len qua đám đông ở nhà máy chạy đến. Heather nhấc bổng nó lên ôm chặt vào lòng.
- Chị Missy con đâu rồi? Heather hỏi Star. Con bé nhìn lui về phía lưng. Missy đang đứng ở rìa đám đông, trông có vẻ do dự không biết phải làm gì, ở lại, bỏ chạy hay khóc.
Lại đây ngay! Micah định lớn tiếng bảo con bé, nhưng anh dừng lại kịp. Đó là cái lối nói của bố anh trước kia, thoạt đầu là la mắng, rồi ra lệnh, và sau đó là trừng phạt nếu ý muốn của ông cụ không được tuân theo. Micah không bao giờ muốn giống Dale, bố anh, về điểm ấy. Heather đã kịp thời giúp anh.
Nàng giao con bé Star cho anh bế, bước lại nơi Missy đang đứng. Micah không biết nàng đã nói gì, khoảng cách khá xa anh không nghe được, nhưng anh thấy nàng nâng đầu con bé lên vuốt tóc.
Anh thấy cằm Missy run run. Nó nhìn nhanh Micah, rồi quay lại Heather, nước mắt rưng rưng. Chỉ vài giây sau, miệng nó méo xệch, rồi nó bước tới trước, vòng hai tay quanh eo Heather, đan chặt hai bàn tay sau lưng nàng.
Đám đông bây giờ đã xúm quanh Heather, lần lượt ôm nàng.
Peter đặt tay lên vai Micah nói: - Chúng tôi đã can thiệp mạnh để cô ấy để cô ấy về ngày hôm nay. Đây là chuyện nhỏ nhất chúng tôi có thể làm được. Cô ấy là người tốt. Micah bắt tay anh ta cám ơn. Tay vẫn ẵm con bé Star, Micah tiến đến đám đông nơi Heather đang đứng. Thấy anh đến gần, nàng choàng tay qua người anh. Cả bốn người giờ đây đang đứng trên mảnh đất của họ, vây quanh là những người họ yêu mến. Ngay lúc đó giá có ai đề nghị trả cho anh một triệu đô la đổi lấy mảnh đất, năm triệu đổi lấy công việc làm ăn của anh, anh cũng từ chối không nhận. Anh hiện đang có cuộc sống giàu sang nhất mà bất cứ người nào cũng mong ước.
Anh hít vào một hơi thật sâu và đều, đưa mắt nhìn lên. Đứng xa đấy một khoảng cách, tách biệt hẳn, như tôn trọng cái không khí đoàn tụ của Heather và Micah và cuộc sống riêng tư của hai người, là hai bố con ông Norman Anderson.
Giờ đây lại có lại niềm tin, Micah cầm tay Heather nói: - Anh muốn em đến gặp một người - rồi tay ẵm con bé Star cùng với Heather dắt theo bé Missy đi qua đám đông. Đến bên hông nhà chế biến đường, Heather chợt khựng người lại thở nhanh.
Thea đứng bất động. Trông nó có vẻ vô cùng sợ hãi. Micah chợt nhận ra là trong khi anh lo mất Heather vì cô con gái này, thì Thea lại sợ bà mẹ ruột của nó không muốn gặp nó.
Anh đưa tay đẩy nhẹ Heather tới trước và nói: - Con bé và ông bố của nó. Hai bố con rất thương yêu nhau, và có một cuộc sống tốt đẹp. Nhưng nó muốn gặp em.
Heather đưa mắt nhìn anh. Đôi mắt màu xám bạc ấy đang long lanh đầy nước mắt, một lần nữa muốn được sự chấp thuận của anh. Lúc ấy, bất cứ yêu cầu gì của nàng anh cũng chấp thuận cả.
Heather chắc đã nhìn thấy được sự thông cảm ấy trong mắt anh, vì nàng đã hít vào một hơi dài để lấy lại bình tĩnh, rồi dắt bé Missy tiến đến Thea.
Sau một ngày dài đầy xúc động, Poppy biết nàng cần phải làm gì. Nàng không biết có phải do nàng đã thấy Micah và bà Maida thay đổi nhiều hay không, mà chỉ biết là mình cũng cần phải mạnh dạn thay đổi.
Có điều đáng ngạc nhiên là Micah đã nghỉ làm đường ngày hôm ấy, một việc mà trước giờ anh ta chưa hề làm. Anh muốn ở bên cạnh Heather. Do đó Griffin đã ở nhà với Poppy. Anh đốt lửa lò sưởi, trả lời điện thoại trong khi Poppy thay đồ rồi vào phòng tập. Con mèo Victoria đi theo nàng, nhưng nó chỉ đứng gần cửa. Poppy tưởng tượng là nó muốn chắc là nàng không co vòi lại vì sợ.
Nàng không thế. Đã đến lúc rồi.
Nàng tập những động tác cho phần trên thân thể, rồi sử dụng máy đạp nằm một chút. Khi thấy cơ thể ấm dần lên đủ, nàng đến bức tường có những dây chằng buộc chân. Poppy rất ghét những thứ ấy, nàng ghét hình dáng của nó, cảm giác khi buộc nó vào, và âm thanh của nó. Nhưng chúng là phương tiện cho một mục đích, và cái mục đích ấy có nghĩa là một sự khởi đầu.
Đặt những dây chằng lên đùi, nàng lăn xe lùi lai cặp xà kép thể dục. Nàng nhìn chúng một lần chót, hít vào một hơi rồi gọi Griffin.
Griffin bước đến cửa phòng với một nụ cười. Nhưng khi nhìn thấy vật Poppy đang cầm, nụ cười anh vụt tắt. Anh nhìn thẳng vào nàng. Từ tia mắt ấy nàng nhìn thấy một câu hỏi, và cả một niềm hy vọng nữa. Thấy phấn khởi, nàng cầm bộ dây buộc đưa cho anh, bảo: - Mang chúng vào cũng khá rắc rối. Anh giúp em nhé!
Bốn tuần lễ sau Poppy ra khỏi nhà một mình. Nàng không cho Griffin biết mình đi đâu, chỉ để anh ngồi viết những trang cuối của cuốn tiểu sử Hayden và nghĩ rằng nàng chỉ ra phố một lúc.
Ngồi vào chiếc Blazer, Poppy hạ kính cửa xe xuống. - Giờ đang là tháng Tư, những trận mưa đầu mùa đã làm cho những con đường không tráng nhựa trong thị trấn thành bùn lầy. Mùa đường trong năm đã xong. Mầm non đã xuất hiện trên những thân cây. Chỉ có mặt đất bên dưới còn nhem nhuốc.
Hiện tượng tan băng xảy ra hai giờ chiều hôm trước. Poppy đã ngồi ở bàn điện thoại nhìn ra theo dõi nó, và đã gọi Griffin cùng đến nhìn vào phút cuối cùng khi băng đá bắt đầu tan. Đến chiều tối, có hai người gọi đến báo cho nàng biết đã nhìn thấy hai con chim bói cá. Sau đó nàng đã lắng nghe tiếng hót của chúng, nhưng chẳng có tiếng hót nào. Nàng đoán có lẽ chỉ mới có vài ba con vừa trở lại, nên những trận chiến giành lãnh thổ của chúng chưa bắt đầu.
Giờ đây, khi lái xe quanh bờ hồ, có lẽ nàng đã cố lắng tai nghe tiếng hót của chúng nữa, nên đầu óc không bận nghĩ đến một chuyện khác. Vào đến trung tâm thị trấn, nàng cho xe chạy ngang qua bãi tắm, sở bưu điện, ngôi nhà bằng vàng kiểu Victoria có văn phòng của tờ Lake News. Hai tay của Poppy bám chặt vào tay lái. Dù căng thẳng nàng cũng không quay nhìn lui.
Poppy cho xe rẽ vào bãi đậu của trung tâm thị trấn, tiếp tục chạy về phía bên phải nhà thờ, rồi bắt đầu chạy lên một con đường hẹp của nghĩa trang xứ đạo. Con đường được trải nhựa, nhưng không đều, và đầy những vũng nước đọng. Hai bên đường, tuyết hầu như đã tan hẳn trừ một vài có nhiều bóng râm, cỏ vẫn màu nâu, nhiều nơi đẫm nước và bùn lầy. Nàng cho xe chạy chậm, ngang qua ngôi mộ của bố nàng, nhưng không dừng lại, ngang qua ngôi mộ của Gus Kipling, vẫn tiếp tục lái lên một gò cao dẫn lên ngôi mộ của Perry. Đến một khu đất nằm đối diện với ngôi mộ này nàng dừng xe lại.
Perry đang nằm đấy, còn nàng thì ở đây. Khoảng cách hai mươi mét chia cách hai người chỉ là hố sâu bùn lầy.
Nàng rút nhanh đôi nạng trong xe ra, kẹp chúng vào hai cánh tay, rồi tính độ cứng của mặt đất, lựa đúng chỗ đặt nạng xuống. Từ chiếc ghế lăn nàng chồm người tới trước, hít vào một hơi thở sâu rồi nhấc người lên. Nàng đã luyện tập những động tác trên trong một tháng qua. Trong những ngày gần đây, thậm chí nàng đã làm như thế mà không cần đến sự giúp đỡ của Griffin. Nhưng chưa bao giờ nàng làm chúng ở ngoài nhà. Vùng đất ẩm bên dưới là một thách thức. Cộng thêm vào đó còn có khoảng cách, và nỗi lo bị ngã mà không có ai giúp. Đúng là một thách thức lớn.
Bằng tất cả ý chí, nàng chuyển sức nặng thân hình lên chân trái, dùng hông bên phải đẩy chân phải tới trước, chuyển sức nặng lên đấy, rồi kéo chân sau tới trước để cho cả hai chân cùng chịu sức nặng. Hít vào một hơi thở nữa, nàng lặp lại động tác trên, rồi cứ như thế lặp đi lặp lại mãi. Nàng nhất quyết không quay nhìn lui, không nghĩ đến khoảng cách chỗ đang đứng và chiếc ghế lăn, hay nhìn các bia mộ hai bên, mà chỉ chăm chú nhìn mặt đất phía trước mặt, chọn chỗ đất cứng và tránh những vũng bùn trong khi tập trung vào các chuyển động của phần dưới cơ thể.
Mỗi lần nàng chỉ làm một bước, và một bước như thế ăn nhịp với một hơi thở. Chậm rãi, kiên trì, cuối cùng nàng cũng băng qua nghĩa địa. Một hai lần khi nạng lỡ lún hơi sâu xuống mặt đất làm nàng loạng choạng, nhưng Poppy đã cố giữ thăng băng không để bị ngã.
Nơi mà vào tháng Hai vừa rồi chỉ là một miếng tuyết dày, giờ đây là một băng ghế đá. Và đó là mục tiêu nàng đang hướng đến. Mỗi khi thấy mệt mỏi, đôi vai run run, hai tay nhức nhối, và mông đau thắt, nàng dừng lại đứng thật yên, hít vào một hơi rồi nhìn cái băng ghế đá. Sau đó, nàng lại tiếp tục lê từng bước một. Càng tiến xa hơi thở càng nặng nề hơn, và người đã toát mồ hôi. Nhưng nàng đã tiến đến gần, rất gần. Càng đến gần quyết tâm nàng càng cao.
Ngày xưa, có lẽ nàng đã chạy đến giữa cái băng ghế, nhảy ngang qua nó rồi ngồi xuống cười thích thú. Giờ đây, nàng phải tiến đến nó từ phía trái nơi nền đất cứng hơn, một cách vô cùng chậm chạp. Với những hơi thở nhanh và lớn, Poppy tiến đến phía trước ghế để có thể ngồi giữa, đối diện với Perry. Những bước đi cuối cùng ấy khó khăn nhất, vì Poppy đã thấy mệt và người bị xúc động mạnh.
Một bước, hai bước, đến bước thứ ba là nàng đã đến ngay giữa chiếc ghế. Poppy thận trọng quay người lại, dùng đôi nạng lấy thăng bằng, đặt người xuống. Phải mất một phút sau nàng mới lấy lại được hơi thở đều đặn sau những cố gắng vượt bậc ấy.
Nhưng rồi nhìn đến tấm bia mộ, toàn thân nàng lại rúng động mạnh. “Perry Walker. Con trai thân yêu. Yên nghỉ tại đây với tuổi xuân ngắn ngủi”. Bên dưới là ngày tháng năm sinh và mất.
Nàng chăm chú nhìn những dòng chữ trên tấm mộ bia, đọc đi đọc lại chúng. Cổ họng như nghẹn lại. Khi nước mắt trào ra làm nhòa các dòng chữ, nàng tưởng tượng nhìn thấy khuôn mặt Perry hiện ra trên nền đá hoa cương.
“Em xin lỗi”, nàng nức nở thì thầm. “Em hối tiếc vô cùng”. Nước mắt trào ra và Poppy cứ để mặc cho nó chảy. Hai tay bám chặt vào mép ghế, nàng đã khóc cho Perry, và hai gia đình anh cùng những mất mát của họ. Nàng khóc cho gia đình nàng cùng tất cả những phiền não mà nàng gây ra. Và nàng khóc cho chính mình, cho sự mất mát tuổi thơ, cái tinh thần thể thao, chút ngây thơ và táo bạo của nàng sau cái đêm cách đây mười hai năm. Nàng cứ để mặc cho những cảm xúc cứ thế tuôn ra. Đã đến lúc phải tẩy sạch tất cả.
Nàng khóc mãi cho đến lúc nước mắt đã cạn, nhưng vẫn ngồi đấy với Perry, thì thầm kể lại cho anh nghe mình ở đâu và đã làm những gì kể từ khi gặp anh lần cuối, như bằng cách nào đó anh nghe được nàng.
Sau cùng Poppy nhắm mắt lại, nhẩm đọc một lời cầu nguyện. Nàng không biết mình nghe được câu kinh cầu nguyện ấy ở đâu, không biết có phải nàng nghe được hay đã tự đặt ra. Một lời cầu nguyện có liên quan đến sự tha thứ.
Một âm thanh chợt vang lên. Poppy ngẩng đầu lên cố lắng tai nghe. Một phút sau âm thanh ấy lại vang lên nữa. Nàng thẳng người lại, hít vào một hơi dài khí ẩm mùa xuân, và cảm thấy người mình như được rũ sạch tất cả, càng lúc với cảm giác trầm lặng, yên bình.
Đưa mắt nhìn nấm mộ Perry một lần cuối, nàng cầm lấy cặp nạng lên kẹp vào hai tay. Khi quay người tìm lối trở về, nàng liếc nhanh về phía chiếc xe hơi.
Griffin đang đứng cạnh nó.
Poppy không ngạc nhiên. Griffin biết rõ những nhu cầu của nàng. Chắc anh đã biết tại sao nàng lại muốn đi bộ như thế, và tại sao gần đây nàng đã chú tâm luyên tập, và chắc cũng đã biết hôm nay nàng đi đâu.
Nhìn anh đứng đấy, Poppy chợt nhận ra là Griffin đã đi theo cùng nàng trong suốt thời kỳ trưởng thành này. Hơn thế nữa, anh còn là một chất xúc tác, một nguồn động lực cho nàng về nhiều mặt. Nhìn thấy anh đứng đấy với chiếc quần Jean, chiếc áo thun dài tay, chiếc áo khoác lông màu xanh sáng, cùng màu với đôi mắt, mà anh đã từng mặc lần đầu khi hai người gặp nhau, một ý nghĩ chợt đến. Đây là thời điểm định mệnh.
Nhìn thấy anh đứng đấy, lòng nàng lại tràn ngập những cảm xúc tương tư như lúc nhìn ngôi mộ Perry. Với Perry là một nỗi buồn tiếc. Với Griffin là tình yêu.
Anh đứng bất động, không vội chạy nhanh đến nắm tay nàng, nhấc nàng lên hay bày tỏ sự quan tâm lo lắng, mặc dù nàng nhìn thấy nó trên vẻ mặt anh. Nhưng rõ ràng anh đang nói với nàng là anh tin ở nàng, anh biết nàng có thể làm được việc này, anh biết nàng có thể làm bất cứ điều gì mà nàng quyết tâm làm. Và có lẽ anh nghĩ đúng.
Poppy mỉm cười, bắt đầu bước tới. Những bước đi của nàng vẫn còn loạng choạng như lúc mới đến, nhưng không mang cái vẻ lúng túng ngượng ngập nữa, vì nàng không còn nhìn tấm bia mộ. Nàng không còn nhìn về ký ức cũ, không còn nhìn vào quá khứ. Lần này nàng đang nhìn vào hiện tại và tương lai. Đó là Griffin.
Chờ cho Poppy bắt đầu cất bước bắt đầu đi, Griffin mới đi về phía nàng. Anh đi chậm, cố để cho bước chân mình cùng nhịp với những bước chân của nàng trong một phong thái ung dung, điềm tĩnh.
Đến khi gặp nàng phân nửa đoạn đường, anh dừng lại, đứng đấy không làm một cử động nào, chỉ nói: - Anh yêu em đến độ không sao chịu nổi!
Poppy cười lớn. Có lẽ anh không biết diễn tả cách nào cho hay hơn.
Anh tươi cười, nhưng trong ánh mắt vẫn có chút gì lo lắng. Chắc chắc đây không phải là nỗi lo, liệu nàng có thể đi bộ một mình qua khoảng đất bùn lầy này không.
- Anh có cái này trong túi áo, - anh nói. Poppy biết thứ đó không phải là kẹo.
- Em nhìn được không? - Nàng hỏi, vẻ bồn chồn náo nức.
Anh bước lại gần nàng hơn. - Em thò tay vào lấy đi.
Chỉnh xong đôi nạng, nàng thò tay vào túi anh. Món đồ tay nàng vừa chạm phải khiến nàng muốn ngạt thở.
- Lấy ra đi. - Anh nói nhỏ.
Ở đầu ngón tay nàng vừa rút ra là một chiếc nhẫn kim cương cắt rất tinh xảo với đường viền ngoài bằng bạch kim.
- Viên ngọc ở giữa là của mẹ anh, - Griffin nhẹ nhàng nói, - Anh vinh hạnh được thấy em đeo nó.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com/ - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Poppy gần như hụt hơi, ngắm nhìn chiếc nhẫn. - Ôi, Chúa! - Nàng thì thầm - Đẹp tuyệt vời! Cặp nạng Poppy chợt rơi xuống đất khi nàng choàng tay ôm lấy cổ Griffin. Anh đưa tay ôm nàng vào lòng.
- Đẹp tuyệt vời, không phải là câu trả lời có hay không. - Anh áp mặt lên tóc nàng.
- Có, có! - Nàng la lên. Nhưng ngay lúc ấy một âm thanh khác lại vang lên. Đó là cái âm thanh nàng vừa nghe trước đó, từ vùng hồ vọng lại, âm thanh của sự hồi sinh.
Những con chim bói cá đã quay lại vùng hồ Lake Henry.
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác sách:
Xù Risan – Kem Dâu – H.y
(Tìm – Chỉnh sửa – Đăng)