Những đứa con của nửa đêm - Phần I - Chương 07 - Phần 2

Mặc dù Ahmed thuật lại lời tiên đoán của vợ mình cho William Methwold như một chuyện cười bên bàn cocktail, Amina vẫn không lay chuyển, kể cả khi Methwold bật cười, “Trực giác của phụ nữ - tuyệt thật, bà S.! Nhưng quả thật, bà khó có thể chờ đợi chúng tôi sẽ...” Ngay cả trước áp lực từ ánh mắt khó chịu của cô ả hàng xóm Nussie-vịt-bầu, người cũng đang có thai, và cũng đọc tờ Thời báo Ấn Độ, Amina vẫn không sờn lòng, vì lời tiên tri của Ramram đã ngấm sâu vào tim bà.

Thành thực mà nói, càng về sau trong thời kỳ mang bầu, Amina càng thấy lời thầy bói mỗi lúc một đè nặng hơn lên vai bà, đầu bà, quả bóng căng tròn của bà, nên khi mắc vào mạng nhện của nỗi lo âu sẽ sinh ra một đúa trẻ hai đầu, bà đã bằng cách nào đó thoát khỏi cái ma lực vi diệu của Điền trang Methwold, và miễn nhiễm với tiệc cocktail, vẹt đuôi dài, pianola và giọng Anh. Ban đầu, có gì đó mơ hồ trong sự quả quyết của bà rằng mình sẽ giành được giải thưởng của tờ Thời báo, bởi bà đã thuyết phục bản thân rằng nếu phần này trong lời đoán mệnh của ông thầy bói ứng nghiệm, nó sẽ chứng tỏ rằng những gì còn lại cũng chính xác như vậy, bất kể ý nghĩa của chúng là gì. Cho nên đó không hề là âm sắc của niềm tự hào và mong đợi thuần túy khi mẹ tôi đáp, “Chẳng trực giác gì hết, Ngài Methwold ạ. Đây là sự thật được bảo đảm.”

Với chính mình bà nói thêm: “Còn điều này nữa: ta sẽ có một đứa con trai. Nhưng nó sẽ cần được chăm sóc rất nhiều, nếu không thì...”

Tôi cảm thấy, sâu trong huyết quản mẹ tôi, có lẽ sâu hơn bà nghĩ, những tư tưởng siêu nhiên của Naseem Aziz bắt đầu tác động tới suy nghĩ và hành động của bà - những tư tưởng đã thuyết phục Mẹ Bề trên rằng máy bay là phát minh của quỷ dữ, rằng máy ảnh có thể đánh cắp linh hồn ta, rằng hồn ma cũng là một phần tất yếu của hiện thực như Thiên Đường, rằng đặt những vành tai rất thánh nào đấy giữa ngón cái và ngón trỏ là một tội lỗi không hơn không kém, lúc này đang thầm thì vào cái đầu đang tối lại của con gái bà. “Dù chúng ta đang ngồi giữa đống rác Anh quốc này,” mẹ tôi bắt đầu nghĩ, “đây vẫn là Ấn Độ, và những người như Ramram Seth vẫn biết cái mà họ biết.” Cứ thế, thái độ hoài nghi của người cha kính yêu của bà bị thay thế bằng tính cả tin của bà ngoại tôi; và, đồng thời, đốm lửa phiêu lưu Amina thừa kế từ Bác sĩ Aziz đã bị dập tắt bởi một sức nặng khác, có trọng lượng tương đương.

Tới khi mùa mưa đến vào cuối tháng Sáu, cái bào thai đã thành hình trọn vẹn trong tử cung bà. Đầu gối và mũi đã xuất hiện; và có bao nhiêu cái đầu thì bấy nhiêu đã vào vị trí. Thứ từng (vào buổi ban đầu) nhỏ bằng một dấu chấm đã to dần lên thành một dấu phẩy, một từ, một câu, một đoạn, một chương; lúc này nó bùng nổ với những bước phát triển phức tạp hơn, trở thành, có thể nói, một quyển sách - hẳn là một cuốn bách khoa toàn thư - thậm chí cả một ngôn ngữ... như vậy để nói rằng cái khối u trên người mẹ tôi đã phát triển quá to, và trở nên quá nặng, đến nỗi trong khi đường Warden dưới chân ngọn đồi hai tầng nhà tôi ngập đầy nước mưa vàng khè bẩn thỉu và những chiếc xe buýt bỏ không bắt đầu hoen gỉ và bọn trẻ con bơi giữa con đường chất lỏng còn những tờ báo ướt sũng chìm trong nước, Amina thấy mình trong một gian tháp canh hình tròn dưới tầng một, hầu như không thể di chuyển dưới trọng lượng của trái bóng nặng như chì.

Mưa không dứt. Nước ngấm vào dưới những ô cửa nơi từng đóa tulip thủy tinh màu nhảy múa trên các ô kính nẹp chì. Khăn tắm, được ốp vào khung cửa, hút nước cho đến khi nặng trĩu, sũng nước, vô dụng. Biển: xám xịt và trĩu nặng và vươn dài để gặp những quầng mây nơi chân trời bị co hẹp. Mưa đánh trống vào tai mẹ tôi, góp phần vào sự hỗn loạn của thầy bói và tính cả tin kế thừa từ mẹ và sự hiện diện gây xáo trộn của những vật thuộc sở hữu người lạ, khiến bà tưởng tượng ra đủ thứ kỳ quái. Nằm chết gí dưới đứa con đang lớn dần, Amina hình dung ra bà là một tên giết người bị kết án dưới thời đại đế Mughal, cái thời mà chết vì bị nghiền nát dưới một tảng đá là một hình phạt phổ biến... và những năm sau này, mỗi lần nhìn lại giai đoạn ấy, ở cuối thời kỳ trước khi bà làm mẹ, giai đoạn khi tiếng tích tắc của những tờ-lịch đếm ngược hối thúc mọi người đến ngày 15 tháng Tám, bà sẽ bảo: “Tôi chẳng biết gì về chuyện ấy cả. Với tôi, cứ như thể thời gian đã dừng lại hoàn toàn. Đứa bé trong bụng tôi đã dừng hết đồng hồ lại. Tôi tin chắc là thế. Đừng cười: chị có nhớ cái tháp đồng hồ dưới chân đồi không? Tôi nói chị nghe, sau mùa mưa năm ấy, nó không bao giờ chạy nữa.”

... Và Musa, lão bộc của cha tôi, người đã theo hai vợ chồng đến Bombay, chạy đi khoe với những người hầu khác, dưới bếp của những cung điện ngói đỏ, dưới dãy nhà của người hầu, đằng sau Điện Versailles và Escorial và Sans Souci: “Đó là một đúa bé mười-rupee hẳn hoi; phải rồi! Một con cá chim mười-đồng cỡ bự, chờ mà xem!” Đám người hầu rất vui; vì sinh nở là chuyện tốt và một đứa bé bụ bẫm là điều tốt hơn cả...

... Còn Amina, chủ nhân cái bụng đã dừng tất cả đồng hồ lại, ngồi bất động trong căn phòng ở một ngọn tháp và bảo chồng, “Mình sờ thử xem... đấy, mình thấy không?... thằng bé to khỏe chưa; mảnh trăng bé bỏng của chúng ta.”

Mãi tới khi mùa mưa kết thúc, và Amina đã trở nên nặng đến nỗi hai người hầu nam phải đan tay thành cái ghế để nâng bà lên, Wee Willie Winkie mới trở lại hát ở sân khấu tròn giữa bốn ngôi nhà; và mãi đến lúc ấy Amina mới nhận ra bà không chỉ có một, mà đến hai kình địch (hai người bà biết) cho giải thưởng của tờ Thời báo Ấn Độ, và rằng, tiên tri hay không, nó cũng sẽ là một cú về đích cực kỳ khít khao.

“Wee Willie Winkie đó là tên anh, ca hát kiếm ăn trước giờ lừng danh!”

Cựu ảo thuật gia và chủ hộp vạn hoa và ca sĩ... ngay từ trước khi tôi ra đờỉ, cái khuôn đã định hình. Các nghệ sĩ tạp kỹ sẽ thao túng đời tôi.

“Hy vọng rằng quý vị thấy thoải máỉ... Hay quý vị thấy thoải trống? Ôi, đùa đấy, quý bà và quý nương, hãy cười lên xem nào.”[10]

[10] Nguyên văn: Ladies and ladahs. Ladies tiếng Anh là quý bà, quý cô, đọc gần giống như ladah, tiếng Hindi nghĩa là người yêu dấu, cưng.

Caođenđiểntrai, một gã hề với chiếc phong cầm, anh đứng giữa vòng tròn sân khấu. Trong vườn của Biệt thự Buckingham, ngón chân cái của cha tôi ngọ nguậy (cùng chín anh bạn đồng nghiệp) bên cạnh và bên dưới cái ngôi giữa của William Methwold... đi xăng đan, tròn xoe và không hay biết mình sắp đến hồi mạt vận. Còn Wee Willie Winkie (mà tên thật ta không bao giờ biết) pha trò và hát. Từ hiên nhà ở tầng một Amina xem và nghe; và, từ hiên nhà hàng xóm, cảm thấy sự sắc nhọn trong ánh mắt ganh đua tị nạnh của Nussie-vịt-bầu.

... Trong khi tôi, ở bàn mình, cảm thấy sự châm chích từ thái độ nôn nóng của Padma. (Tôi, đôi khi, ao ước có một thính giả sắc sảo hơn, một người hiểu được sự cần thiết của nhịp điệu, tiết tấu và màn dạo đầu vi tế của những hợp âm thứ về sau sẽ nổi lên, trỗi dậy, chiếm lĩnh cả giai điệu; một người sẽ biết, chẳng hạn, rằng cho dẫu sức nặng của em bé và mùa mưa đã làm câm lặng chiếc đồng hồ trên tháp của Điền trang, song nhịp đập trầm ổn từ tiếng tích tắc của Mountbatten vẫn ở đấy, êm dịu nhưng quyết tuyệt, và chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi nó lấp đầy tai ta bằng tiếng nhạc giữ nhịp đều đặn, thì thùng.) Padma nói: “Giờ tôi chả muốn biết gì về gã Winkie này sất; cả ngày lẫn đêm tôi chờ đợi mà anh vẫn chưa chịu ra đời!” Nhưng tôi khuyên cô kiên nhẫn; mọi thứ đều ở đúng chỗ của nó, tôi khiển trách bông sen-phân của mình, vì cả Winkie nữa, cũng có mục đích và vị thế của anh, giờ anh đang chọc ghẹo các bà mang thai đứng trên hiên nhà họ, ngừng hát để nói, “Hẳn các bà đã nghe nói về giải thưởng? Tôi cũng thế. Vanita nhà tôi cũng sắp đến kỳ sinh nở, sắp rồi; biết đâu chính cô ấy chứ không phải các vị sẽ được lên báo!”... và Amina nhún vai, còn Methwold mỉm cười (có phải là một nụ cười gượng gạo? Vì sao?) dưới cái ngôi giữa, và môi cha tôi trề ra vẻ hiểu biết trong khi ngón chân cái ngọ nguậy và ông nói, “Thằng cha này hỗn; hắn đùa quá trớn rồi.” Nhưng giờ Methwold với một thái độ rất giống với sự bối rối - thậm chí ăn năn - trách Ahmed Sinai, “Vớ vẩn, ông bạn. Chức nghiệp của thằng hề, ông biết đấy. Được phép khiêu khích và nhạo báng. Chiếc van an toàn quan trọng của xã hội.” Và cha tôi nhún vai, “Hmm.” Nhưng anh ta rất khôn ngoan, tay Winkie này, bởi anh ta đang xoa dịu tình hình, nói, “Sinh nở là chuyện tốt; hai ca là hai chuyện tốt! Quá tốt[11], các bà, đùa đấy, thấy không?” Và không khí thay đổi khi anh đưa ra một ý tưởng độc đáo, một suy nghĩ quyết định, có sức mạnh áp đảo: “Quý bà, quý ông, quý vị phải làm gì để thấy thoải mái ở nơi này, giữa quá khứ dài lâu của Methwold sahib? Tôi nói các vị nghe: nghe có thể kỳ lạ; không thực; nhưng đây giờ là một ngôi nhà mới, thưa quý bà, quý nương, và không ngôi nhà mới nào là thật chừng nào nó còn chưa chứng kiến một đứa trẻ ra đời. Đứa trẻ sẽ làm quý vị thấy đây là nhà mình.” Sau đó, là một bài hát: “Daisy, Daisy...” Và Ngài Methwold, hòa theo, nhưng vẫn có gì đó u ám nhuốm bẩn chân mày ông ta…

[11] Hai chuyện tốt (two fine) đồng âm với quá tốt (too fine).

… Và đây là lý do: phải, đó là tội lỗi, bởi Winkie nhà ta có thể khôn ngoan và hài hước đấy, nhưng vẫn chưa đủ khôn ngoan, và giờ đã đến lúc tiết lộ bí mật đầu tiên của cái ngôi giữa trên đầu William Methwold, bởi nó đã nhỏ giọt xuống và nhuốm bẩn mặt ông ta: một ngày nọ, từ lâu trước tiếng tích tắc và vụ rao bán thượng vàng hạ cám, Ngài Methwold đã mời Winkie và Vanita của anh đến, hát riêng, trong căn phòng giờ là phòng khách chính của nhà tôi; và sau một lúc ông ta bảo, “Này, Wee Willie, giúp ta một việc nhé, anh bạn: ta cần mua thuốc theo đơn này, đau đầu kinh khủng, cầm nó ra Kemp’s Corner rồi bảo tay dược sĩ bán cho, người hầu nhà này lăn ra cảm hết rồi.” Winkie, một anh nhà nghèo, bảo Dạ sahib ngay đây sahib rồi chạy đi; và thế là Vanita còn lại một mình, với cái ngôi giữa, cảm thấy nó phát ra một sức hút không thể cưỡng lại lên những ngón tay mình, và khi Methwold ngồi bất động trên chiếc ghế mây, mặc bộ vét mỏng màu kem với một nhánh hồng trên ve áo, cô thấy mình lại gần ông ta, ngón tay xòe ra, cảm thấy ngón tay mình chạm vào mái tóc; tìm thấy cái ngôi giữa, và bắt đầu vò rối nó.

Thế nên giờ đây, chín tháng sau, Wee Willie Winkie đùa cợt vì đứa trẻ sắp ra đời của vợ mình và vết nhơ hiện lên trên vầng trán một người Anh.

“Thì sao?” Padma nói. “Thì việc gì đến tôi, cái tay Winkie và cô vợ mà anh còn chưa kể tôi nghe bao giờ này?”

Có những người chẳng bao giờ thỏa mãn; nhưng riêng Padma thì sẽ, sớm thôi.

Và giờ cô sắp thấy bực bội hơn; vì rằng, rứt ra khỏi những sự kiện ở Điền trang Methwold theo một vòng xoắn ốc bay vút lên cao - khỏi cá vàng và chó và thi trẻ sơ sinh và ngôi giữa, khỏi ngón cái và mái ngói - tôi đang bay ngang thành phố tươi tắn và sạch sẽ sau những cơn mưa; bỏ Ahmed và Amina lại với những bài hát của Wee Willie Winkie, tôi bay về Thành Cổ, qua Đài phun nước Flora, đến một tòa nhà lớn chìm trong ánh sáng mờ đục của đèn vải thô và mùi thơm của những lư hương đung đưa... bởi vì ở đây, tại Nhà thờ Thánh Thomas, Cô Mary Pereira đang tìm hiểu về màu sắc của Chúa.

“Xanh,” vị linh mục trẻ thành kính nói. “Mọi bằng chứng hiện có, con ta, đều cho thấy Đức Christ Jecsus là sắc pha lê mỹ lệ nhất của màu trời xanh nhạt.”

Người phụ nữ nhỏ bé phía sau ô cửa sổ gỗ mắt cáo của phòng xưng tội lặng đi trong giây lát. Sự im lặng của băn khoăn, ngẫm nghĩ. Rồi: “Nhưng sao lại thế, thưa Cha? Con người đâu có xanh. Cả thế gian rộng lớn này đâu có ai màu xanh!”

Sự ngỡ ngàng của người phụ nữ nhỏ bé, gặp phải sự bối rối nơi vị linh mục... bởi cô không được chờ đợi sẽ phản ứng như thế. Đức Giám mục đã dặn, “Thắc mắc của người vừa cải đạo... khi hỏi về màu sắc hầu như lúc nào họ cũng... quan trọng là phải tạo ra cầu nối, con ạ. Hãy nhớ,” Đức Giám mục tiếp tục, “Chúa tức là tình yêu; mà Krishna, thần ái tình của đạo Hindu, luôn được vẽ với làn da xanh. Bảo họ là xanh; nó sẽ như một cây cầu nối hai đức tin; một cách khéo léo, con hiểu chứ; mà hơn nữa xanh là một màu trung tính, tránh được những rắc rối thường gặp về màu sắc, tránh cho con khỏi chuyện da đen da trắng: phải, nói chung ta chắc chắn đó là câu trả lời đúng.” Cả Đức Giám mục cũng có thể sai, đức cha trẻ tuổi tự nhủ, nhưng lúc này cha đang lâm vào thế bí, bởi người phụ nữ nhỏ bé rõ ràng đã mất bình tĩnh, và bắt đầu thốt ra một lời quở trách nghiêm khắc qua khung cửa gỗ: “Câu trả lời gì mà lại là xanh, thưa Cha, sao lại tin vào một thứ như thế? Cha nên viết cho Đức Thánh Cha Giáo hoàng ở Rome, người nhất định sẽ chấn chỉnh cha; nhưng chẳng cần phải là Giáo hoàng mới biết con người không đời nào có màu xanh!” Vị linh mục trẻ tuổi nhắm mắt lại; thở sâu; phản kích. “Họ nhuộm da xanh,” ông ngập ngừng. “Người Pict; dân du mục Ả Rập da xanh: nếu được học hành thì con sẽ thấy, con ạ...” Nhưng giờ một cái khịt mũi quyết liệt vang lên trong phòng xưng tội. “Sao, thưa Cha? Cha đem Chúa ra so sánh với những kẻ man di mọi rợ? Lạy Chúa, con đến phải bịt tai lại vì hổ thẹn!”… Và còn nhiều, nhiều nữa, trong khi vị linh mục trẻ đang bị cái dạ dày hành hạ khốn khổ đột nhiên nảy ra phán đoán rằng còn gì đó nghiêm trọng hơn ẩn sau câu chuyện da xanh này, và lên tiếng hỏi; vậy là bài phê bình nhường chỗ cho nước mắt, còn vị linh mục trẻ hốt hoảng nói, “Nào, nào, chắc chắn Hào quang Thần thánh của Đức Chúa không chỉ thuần túy xuất phát từ màu da”... Và một giọng nói giữa dòng lũ nước mặn: “Vâng, thưa Cha, nói cho cùng cha cũng không quá tệ; con cũng bảo anh ấy thế, chính xác chỉ có vậy thôi, nhưng anh ấy văng tục loạn lên và không thèm nghe...” Thế đấy, anh ấy đã bước vào câu chuyện, và giờ tất cả tung tóe ra, và Cô Mary Pereira, nhỏ bé đồng trinh bấn loạn, thực hiện lời thú tội sẽ mang đến cho chúng ta manh mối quan trọng về động cơ của cô khi, vào cái đêm tôi chào đời, cô thực hiện đóng góp sau cùng và quan trọng nhất đối với toàn thể lịch sử Ấn Độ thế kỷ 20 kể từ thời ông tôi vập mũi cho đến thời tôi trưởng thành.

Lời thú tội của Mary Pereira: như mọi nàng Mary, cô có Joseph của mình. Joseph D’Costa, một hộ lý ở phòng khám trên đường Pedder tên là Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar (“À há!” Padma cuối cùng đã thấy sự liên hệ), nơi cô làm bà đỡ. Ban đầu mọi chuyện rất tốt đẹp; gã đưa cô đi uống trà hay lassi hay falooda và nói ngon nói ngọt với cô. Gã có cặp mắt như hai mũi khoan đường, cứng và kêu lọc cọc, song gã ăn nói dịu dàng dễ nghe. Mary, nhỏ nhắn, tròn trịa, đồng trinh, ngất ngây trước sự quan tâm của gã; nhưng giờ mọi chuyện đã thay đổi.

“Thình lình thình lình anh ấy cứ khịt mũi ngửi không khí liên tục. Một cách buồn cười lắm, mũi hếch lên. Con hỏi, 'Anh bị cảm hay sao, Joe?’ Nhưng anh ấy bảo không; không, anh ấy đáp, anh đang ngửi gió Bắc. Nhưng con bảo, Joe, ở Bombay gió thổi từ biển vào, từ hướng Tây cơ mà, Joe...” Bằng giọng chực vỡ òa, Mary Pereira thuật lại cơn thịnh nộ sau đó của Jospeh D’Costa, gã bảo, “Cô chả hiểu gì hết, Mary, bây giở gió thổi từ phương Bắc, và nó sặc mùi chết chóc. Nền độc lập này chỉ dành cho bọn nhà giàu; người nghèo đang buộc phải giết lẫn nhau như ruồi. Ở Punjab, vở Bengal. Bạo loạn bạo loạn, dân nghèo giết dân nghèo. Nó ở trong gió ấy.”

Và Mary: “Anh nói gì điên khùng thế, Joe, sao anh lại nghĩ đến những chuyện tồi tệ ấy? Ta vẫn có thể sống yên bình kia mà?”

“Thôi bỏ đi, cô chả hiểu gì hết.”

“Nhưng Joseph, cho dù chuyện giết chóc ấy có thật, họ là người Hindu và đạo Hồi thôi mà; sao lại kéo ngựời Thiên Chúa tử tế vào cuộc chiến ấy? Đám người kia họ chém giết nhau từ đời nảo đời nào.”

“Cô với lão Christ của cô. Chẳng lẽ cô không nhồi nổi vào đầu cái sự thật đó là tôn giáo của dân da trắng à? Thần da trắng để cho dân da trắng. Ngay lúc này dân mình đang chết. Chứng ta phải đánh trả; phải chỉ cho họ thấy đâu là kẻ thù thực sự, cô hiểu chưa?”

Và Mary, “Thế nên con mới hỏi về màu sắc, thưa Cha... và con khuyên Joseph, con khuyên, khuyên mãi, đánh nhau là xấu, bỏ những ý nghĩ điên rồ ấy đi; nhưng rồi anh ấy không nói chuyện với con nữa, và bắt đầu giao du với những kẻ dữ dằn, và họ bắt đầu đồn đại về anh ấy, thưa Cha, rằng họ chính mắt thấy anh ấy ném gạch vào xe tải, rồi đốt chai xăng nữa, anh ấy phát điên rồi, thưa Cha, họ bảo anh ấy giúp đốt xe buýt và đánh bom tàu điện, và gì nữa con không biết. Không biết làm sao, thưa Cha, con kể hết cho em gái. Em gái con Alice, một cô gái tốt lắm, thưa Cha. Con nói: ‘Anh Joe, anh ấy ở gần lò mổ, biết đâu cái mùi ấy đã xông lên mũi và làm anh ấy lú lẫn.’ Thế là Alice đến tìm anh ấy, ‘Em sẽ nói giúp chị,’ con bé nói; nhưng rồi, Chúa ơi điều gì đang xảy ra với thế giới này... con thú thật với Cha... Ôi baba...” Và cơn lũ đang nhấn chìm lời cô, những bí mật đang rỉ ra mặn chát từ mắt cô, bởi Alice trở về bảo rằng theo ý mình Mary mới là người đáng trách, vì đã giảng đạo với Joseph đến khi gã chán ngấy cô, trong khi đáng ra phải ủng hộ cái sự nghiệp ái quốc thức tỉnh người dân của gã. Alice trẻ hơn Mary; và xinh xắn hơn; và sau đó còn có thêm những tin đổn, chuyện Alice-và-Joseph, và Mary đâm ra quẫn trí.

“Con bé ấy,” Mary nói, “Nó thì biết gì ba thứ chính trị chính em này? Nhưng để quắp được Joseph của con nó sẽ nhại lại bất cứ điều nhăng nhít gì anh ấy nói, y như một con chim mynah ngu ngốc. Con thề, thưa Cha...”

“Cẩn thận, con ta. Con đang rất gần sự báng bổ đấy...”

“Không, thưa Cha, con thề có Chúa, con không biết có gì là mình sẽ không làm để giành lại anh ấy. Phải: bất chấp... mặc cho những gì anh ta... trời-ơi-trời-ơiiii!”

Nước mắt ướt đẫm sàn phòng xưng tội... và giờ, phải chăng đã xuất hiện một mâu thuẫn mới nơi vị linh mục trẻ? Có phải cha, bất chấp những cơn quằn quại của cái dạ dày bất ổn, đang cân nhắc trên chiếc cân vô hình sự thiêng liêng của nghi lễ xưng tội và mối đe dọa đối với xã hội văn minh của một kẻ như Joseph D’Costa? Có phải cha sẽ, trên thực tế, hỏi Mary địa chỉ Joseph của cô, để rồi tiết lộ... Tóm lại, liệu đức cha trẻ tuổi dạ dày đảo lộn, bị giám mục ám ảnh này đã hành xử giống, hay không giống, Montgomery Clift trong Tôi thú tội?(Xem nó mấy năm trước tại rạp Đế chế Mới, tôi không chắc lắm.) - Nhưng không; một lần nữa, tôi phải bóp nghẹt những nghi ngờ vô căn cứ của mình. Điều đã xảy ra với Joseph có lẽ kiểu gì cũng sẽ xảy ra. Và trong mọi tình huống, mối liên quan duy nhất của vị linh mục trẻ với lịch sử của tôi là việc ông là người ngoài cuộc đầu tiên nghe nói về lòng căm thù người giàu dễ lây của Joseph D’Costa, và nỗi khổ đau vật vã của Mary Pereira.

Ngày mai tôi sẽ tắm gội cạo râu; tôi sẽ mặc một chiếc kurta mới, bóng loáng và hồ cứng, thêm quần pajama cho đủ bộ. Tôi sẽ đi đôi dép sáng như gương, mũi cong vút, tóc chải gọn gàng (mặc dù không rẽ ngôi giữa), răng trắng bóc... tóm lại, tôi sẽ bảnh bao hết cỡ. (“Ơn Chúa” từ Padma đang bĩu môi.)

Ngày mai, cuối cùng, đã đến lúc kết thúc những câu chuyện mà tôi (không có mặt khi chúng ra đời) phải lôi ra từ chốn sâu kín quay cuồng trong đầu óc mình; vì tiếng nhạc cầm nhịp từ cuốn lịch đếm ngược của Mountbatten không thể bị phớt lờ lâu hơn nữa. Tại Điền trang Methwold, lão Musa vẫn tích tắc như một trái bom hẹn giờ; nhưng chẳng ai nghe thấy, vì lúc này một tiếng động khác đang trỗi dậy, vang rền, giục giã; tiếng từng giây trôi qua, tiếng cái nửa đêm định mệnh đang tới gần.