Những đứa con của nửa đêm - Phần II - Chương 10 - Phần 2

Pia hôn một trái táo, đầy mê đắm, với toàn bộ sự căng đầy của đôi môi tô son; rồi chuyển nó cho Nayyar; anh chàng đặt, lên mặt kia của nó, một cái miệng nồng nàn sinh lực. Đây là sự ra đời của cái sẽ được biết đến với cái tên nụ hôn gián tiếp - và đây quả là một ý tưởng tinh tế hơn nhiều so với bất kỳ điều gì trong nền điện ảnh đương đại của chúng ta; thật đầy ắp khát khao và nhục cảm! Khán giả điện ảnh (những người, ngày nay, sẽ hưởng ứng rầm rĩ cảnh một đôi tình nhân trẻ nhao vào sau một bụi cây sau đó sẽ rung lắc một cách kỳ cục - khả năng ám chỉ của chúng ta đã tụt xuống mới thấp làm sao) xem, dán mắt vào màn ảnh, trong khi tình yêu của Pia và Nayyar, trên cái nền là Hồ Dal và bầu trời xanh băng giá xứ Kashmir, tự biểu lộ qua những nụ hôn đặt lên những tách hồng trà Kashmir; bên đài phun nước Shalimar họ áp môi vào một lưỡi gươm... nhưng giờ, giữa thời khắc đỉnh cao vinh quang của Hanif, con độc xà từ chối chờ đợi; dưới tác động của nó, đèn khán phòng bật sáng. Trên hình dáng to hơn người thật của Pia và Nyayar, đang hôn những trái xoài và hát nhép theo băng, hình dáng một người đàn ông rụt rè, râu ria lơ phơ xuất hiện, hùng dũng tiến lên sân khấu bên dưới màn hình, micro trên tay. Con Độc xà có thể mang những hình hài không ai ngờ nhất; giờ đây, trong lốt viên quản lý rạp phim kém năng lực này, nó phóng ra nọc độc của mình. Pia và Nayyar nhạt dần rồi câm lặng; và giọng nói được khuếch đại của người đàn ông có râu thốt lên: “Thưa quý bà quý ông, xin thứ lỗi; nhưng có một tin dữ.” Giọng ông ta vỡ òa - một tiếng nức nở của con Độc xà, để dồn sức mạnh vào hàm răng! – rồi tiếp tục, “Chiều nay, tại Nhà Birla ở Delhi, Mahatma kính yêu của chúng ta đã bị sát hại. Một tên điên đã bắn vào bụng người, thưa quý bà quý ông - Bapu của chúng ta không còn nữa!”

Khán giả bắt đầu gào khóc trước khi ông ta ngừng lời; nọc độc từ những lời ông ta nói xâm nhập vào huyết quản họ - có những người đàn ông trưởng thành lăn lộn trên lối đi, tay ôm bụng, không cười mà khóc, Hai Ram! Hai Ram! - và đàn bà bứt tóc: những kiểu đầu đẹp đẽ nhất thành phố xổ tung quanh tai những quý bà trúng độc - những minh tinh màn bạc gào rú như những mụ đánh cá và không khí xuất hiện một mùi kinh khủng - rổi Hanif thì thầm, “Ra khỏi đây thôi, chị gái - nếu một gã người Hồi làm điều này thì cái giá phải trả sẽ là địa ngục.”

Với mỗi cái thang, lại có một con rắn... và suốt bốn mươi tám giờ sau cái kết dở dang của Đôi tình nhân xứ Kashmir, gia đình tôi ở yên sau những bức tường của Biệt thự Buckingham (“Chặn bàn ghế vào cửa, cáigìkhôngbiết!” Mẹ Bề trên ra lệnh. “Nếu nhà có người hầu Hindu, cho họ về!”); và Amina không dám đến trường đua.

Nhưng với mỗi con rắn, lại có một cái thang: và cuối cùng đài phát thanh cho chúng tôi một cái tên. Nathuram Godse. “Ơn Trời,” Amina bật ra, “Tên đấy không phải của người Hồi!”

Và Aadam, người mà tin tức về cái chết của Gandhi đã đặt lên một gánh nặng tuổi tác mới: “Gã Godse này chẳng có gì đáng biết ơn hết!”

Amina, dù vậy, đang ngập tràn cảm giác bồng bềnh của niềm nhẹ nhõm, bà đang ngất ngây chạy trên chiếc thang dài của niềm nhẹ nhõm… “Nói cho cùng, sao lại không? Bằng việc là Godse gã đã cứu mạng chúng ta!”

Ahmed Sinai, sau khi trở dậy từ cái có vẻ là giường bệnh của mình, tiếp tục xử sự như một người tàn phế. Bằng một giọng nói như kính mờ, ông bảo Amina, “Vậy là mình đã bảo Ismail đưa vụ việc ra tòa; hay lắm, tốt; nhưng chúng ta sẽ thua thôi. Ở những tòa án này phải mua được quan tòa...” Và Amina, lao đến Ismail, “Không bao giờ - không bao giờ trong bất kỳ hoàn cảnh nào - anh được cho Ahmed biết vế chuyện tiền nong. Một người đàn ông phải giữ sự tự tôn của mình.” Và rồi, sau đó, “Không, Janum, em không đi đâu cả; không, đứa bé không làm em mệt gì hết; mình nghỉ đi, em phải đi chợ - chắc em sẽ tạt qua thăm Hanif - đàn bà bọn em, mình biết đấy, phải có việc làm cho hết ngày!”

Và trở về nhà với những chiếc phong bì đầy ắp giấy bạc... “Cầm đi, Ismail, giờ ông ấy dậy rồi ta phải nhanh và cẩn thận!” Và ngồi ngoan ngoãn bên mẹ bà mỗi tối, “Vâng, tất nhiên là mẹ đúng, và Ahmed sẽ sớm trở nên giàu có, rồi mẹ xem!”

Và những lần trì hoãn liên miên tại tòa; và những chiếc phong bì, dốc sạch; và đứa trẻ lớn dần, tiến đến gần thời điểm Amina sẽ không thể nhét người vào sau tay lái chiếc 1946 Rover nữa; và bà còn hên nữa không?; và Musa và Mary, hục hặc như hai con cọp già.

Điều gì khơi mào cuộc chiến?

Tàn dư gì của tội lỗi sợ hãi hổ thẹn, được thời gian ngâm trong ruột Mary, đã khiến cô chủ ý? Không chủ ý? khiêu khích ông lão giúp việc bằng cả chục cách khác nhau - bằng một cái hếch mũi để biểu thị vị thế bề trên; bằng việc hăm hở lần tràng hạt ngay trước mũi người tín đồ đạo Hồi sùng đạo; bằng việc chấp nhận danh hiệu mausi, mẹ nhỏ, do những người hầu khác tại Điền trang dành tặng, và bị Musa xem như sự đe dọa đối với vị trí của mình; bằng sự thân thiết quá đáng với Begum Sahiba - những tiếng thì thầm khúc khích nơi góc nhà, vừa đủ to để ông lão Musa nguyên tắc, cứng nhắc, chuẩn mực nghe được và cảm thấy như bị lừa gạt?

Hạt cát nhỏ bé nào, giữa biển khơi tuổi tác giờ đây đang tràn qua ông lão giúp việc, đã nằm lại giữa môi ông và tích tụ thành viên ngọc trai đen của sự thù hận - những cơn tê bại bất thường nào đã tác động lên Musa, khiến tay chân ông cứng đờ ra, khiến những cái bình bị vỡ, những gạt tàn bị đổ, và một lời ám chỉ mơ hồ về sự sa thải sắp đến - từ đôi môi vô tình hay cố ý của Mary? - lớn dần lên thành một nỗi sợ hãi ám ảnh rồi sẽ quay lại phản pháo người khơi dậy nó?

Và (không bỏ qua các nhân tố xã hội) đâu là cái hệ quả tàn nhẫn của thân phận người hầu, của căn phòng cho người hầu nằm sau một gian bếp ám đen khói lò, nơi Musa buộc phải ngủ cùng với thợ làm vườn, thằng bé sai vặt, và hamal - trong khi Mary đường hoàng ngủ trên tấm thảm cói cạnh đứa trẻ mới ra đời?

Và Mary có đáng trách hay không? Có phải việc cô không thể đi nhà thờ - vì ở nhà thờ có buồng xưng tội, mà trong buồng xưng tội người ta không thể giữ bí mật - đã lên men trong cô và khiến cô trở nên hơi gay gắt, hơi cay độc?

Hay chúng ta phải nhìn vượt ra khỏi phạm trù tâm lý học đi tìm câu trả lời trong những tuyên bố kiểu như, có một con rắn đang nằm chờ Mary, và kiếp số của Musa là phải biết đến sự mơ hồ của những cái thang? Hay xa hơn nữa, vượt ra khỏi chuyện rắn-và-thang, chúng ta có nên nhìn thấy Bàn tay của Vận mệnh trong sự cãi cọ này - và bảo rằng, để Musa có thể trở lại như một hồn ma bùng nổ, để ông lão có thể đảm nhiệm vai trò Bom-ở-Bombay, việc bài bố một cuộc ra đi là cần thiết... hay, trượt từ những điều cao siêu như thế xuống chỗ kỳ cục, có thể nào tại Ahmed Sinai - người bị whisky kích thích, người bị tửu tinh khích động đến chỗ thô lỗ thái quá - đã làm ông lão giúp việc nổi giận đến nỗi tội ác của ông, điều giúp ông san bằng kỷ lục của Mary, đã được thực hiện xuất phát từ lòng kiêu hãnh bị tổn thương của một người lão bộc bị lăng nhục - và hoàn toàn không liên quan gì đến Mary hết?

Ngừng đặt câu hỏi, tôi tự giới hạn mình trong khuôn khổ những thực tế: Musa và Mary thường trực trong tình trạng gầm ghè nhau. Và đúng: Ahmed đã lăng mạ ông, và những nỗ lực vỗ về của Amina có thể đã không thành công; và đúng: bóng ma lú lẫn của tuổi tác đã khiến ông tin rằng mình sẽ bị đuổi việc, không báo trước, bất cứ lúc nào; và thế rồi Amina tình cờ phát hiện ra, vào một sáng tháng Tám, rằng ngôi nhà đã bị trộm đột nhập.

Cảnh sát tới. Amina kê khai những đồ bị mất: một cái ống nhổ bằng bạc khảm lam ngọc; tiền vàng; ấm trà khảm đá quý và bộ đồ trà bằng bạc; những đồ vật trong một cái thùng tôn xanh. Đám người ở bị xếp hàng trong sảnh và hứng chịu sự đe dọa của thanh tra Johnny Vakeel. “Xem nào, thú nhận đi” - ngọn dùi cui gõ nhẹ lên chân ông ta - “bằng không các ngươi sẽ thấy có gì bọn ta không thể làm với các ngươi. Các ngươi muốn đứng một chân cả ngày lẫn đêm chứ? Các ngươi muốn bị giội nước vào người, lúc thì nóng sôi, lúc lại lạnh cóng chứ? Bọn ta có rất nhiều phương pháp ở Sở Cảnh sát...” Và giờ một tràng nhốn nháo từ đám người hầu, Không phải cháu, Thanh tra Sahib, cháu là đứa thật thà; vì lòng khoan dung, xin ngài cứ khám, Sahib! Và Amina: “Thế này thì quá lắm, thưa ngài, ngài đi quá xa rồi. Mary của tôi tôi biết, gì thì gì, là người trong sạch. Tôi sẽ không để cô ấy bị xét hỏi đâu.” Sự khó chịu bị kiềm chế của viên sĩ quan. Một cuộc khám xét tư trang được tiến hành - “Để đề phòng, thưa Bà. Bọn này trí thông minh có giới hạn - biết đâu bà lại phát hiện ra tên trộm sớm khiến thủ phạm không kịp tẩu thoát cùng tang vật!”

Cuộc khám xét thành công. Trong bó chăn của Musa ông lão giúp việc: một cái ống nhổ bạc. Cuộn trong dúm quần áo của ông: những đồng tiền vàng, một cái ấm trà bằng bạc. Giấu dưới cái giường charpoy: một bộ đồ trà bị mất. Và giờ Musa sụp xuống chân Ahmed Sinai; Musa đang van vỉ, “Tha thứ cho con, Sahib! Con quẫn trí; con nghĩ ông sắp quẳng con ra đường!” nhưng Ahmed Sinai không lắng nghe; cảm giác băng giá đang hành hạ ông; “Ta thấy yếu quá,” ông nói, và rời khỏi phòng; còn Amina, choáng váng, hỏi: “Nhưng, Musa, sao ông lại thề độc như vậy?”

... Bởi vì, trong quãng thời gian giữa lúc xếp hàng ở hành lang và những phát hiện tại nơi ở của những người hầu, Musa đã bảo ông chủ: “Không phải con, sahib. Con mà ăn cắp của ông, con sẽ phát bệnh hủi! Bộ da già của con sẽ lở loét!”

Amina, nét mặt đầy kinh hãi, chờ đợi câu trả lời của Musa. Khuôn mặt ông lão giúp việc méo lại thành một lớp mặt nạ giận dữ; từng chữ phun ra. “Begum Sahiba, tôi chỉ lấy những đồ quý của bà, còn bà, và Sahib của bà, và bố ông ta, đã cướp đi cả đời tôi; rồi khi tôi già bà lại sỉ nhục tôi bằng những ả Ayah Thiên Chúa giáo.”

Im lặng tràn ngập Biệt thự Buckingham - Amina từ chối buộc tội nhưng Musa đang bỏ đi. Bó chăn trên lưng, ông lão bước xuống cây cầu thang sắt xoắn ốc, khám phá ra rằng thang có thể đi xuống cũng như lên; ông xuống đồi bỏ đi, để lại một lời nguyền lên ngôi nhà.

Và (có phải chính bởi lời nguyền đó?) Mary Pereira sắp khám phá ra rằng kể cả khi thắng trận, kể cả khi những cây cầu thang vận hành có lợi cho ta, ta cũng không thể tránh khỏi con rắn.

Amina nói, “Tôi không thể kiếm thêm tiền cho anh, Ismail; như vậy chưa đủ sao?” Và Ismail, “Tôi hy vọng thế - nhưng ai biết được - chị có thể nào...?” Nhưng Amina: “Vấn đề là, bây giờ tôi to quá rồi, không chui vào xe được nữa. Chỗ ấy buộc phải đủ thôi.”

Thời gian một lần nữa chậm lại đối với Amina; một lần nữa đôi mắt bà nhìn qua lớp kính thủy tinh chì, nơi những bông tulip đỏ, thân xanh, nhảy múa thật đều; lần thứ hai, ánh mắt bà lưu lại trên ngọn tháp đồng hồ đã không hoạt động từ mùa mưa năm 1947; một lần nữa, trời lại mưa. Mùa đua đã kết thúc.

Ngọn tháp đồng hồ màu xanh lợt: to bè, bong tróc, không hoạt động. Nó đứng trên lớp bê tông phủ nhựa đường ở cuối vòng xuyến - mái bằng của tầng trên cùng những ngôi nhà dọc đường Warden, dựa lưng vào ngọn đồi hai tầng của chúng tôi, thế nên nếu ta leo lên bức tường bao của Biệt thự Buckingham, lớp nhựa đường đen phẳng sẽ nằm dưới chân ta. Và dưới lớp nhựa đường đen, là trường mẫu giáo Breach Candy, mà từ đó, mỗi chiều trong học kỳ, đều vang lên tiếng nhạc réo rắt từ cây đàn dương cầm của Cô Harrison, chơi những điệu nhạc chẳng đổi thay của tuổi thơ; và bên dưới nữa, là những cửa hàng, Thiên Đường của Độc giả, hiệu kim hoàn Fatbhoy, hiệu đồ chơi Chimalker và cửa hàng bánh Bombelli, cửa sổ đầy những thanh Sô Cô La Dài Cả Mét. Cửa tháp đồng hồ vốn là phải khóa, nhưng đấy là một cái khóa rẻ tiền thuộc loại Nadir Khan hẳn sẽ nhận ra: sản xuất tại Ấn Độ. Và ba tối liền ngay trước sinh nhật đầu tiên của tôi, Mary Pereira, đứng bên cửa sổ phòng tôi lúc về khuya, để ý thấy một bóng người lướt qua trên mái nhà, tay bưng những vật không ra hình thù gì; một cái bóng khiến trong cô tràn ngập một nỗi kính sợ không định hình được. Sau đêm thứ ba, cô nói với mẹ tôi; cảnh sát được gọi đến; và Thanh tra Vakeel trở lại Điền trang Methwold, cùng với một biệt đội những cảnh sát sừng sỏ - “toàn thiện xạ cả, Beguin Sahiba; bà cứ mặc bọn tôi giải quyết!” - những người, cải trang làm phu quét dọn, súng giấu trong lần áo rách, giám sát chặt chẽ tòa tháp đồng hồ trong lúc quét rác trong vòng xuyến.

Đêm xuống. Đằng sau những tắm rèm và mành sáo, các cư dân của Điền trang Methwold sợ sệt ngóng về phía tháp đồng hồ. Đám phu quét dọn, một cách kỳ cục, tiếp tục công việc trong bóng tối. Johnny Vakeel chiếm lĩnh một vị trí trên hiên nhà tôi, súng trường không để lộ... và, tới nửa đêm, một cái bóng leo lên bức tường bên của trường Breach Candy và tiến về ngọn tháp, vai lủng lẳng một cái túi... “Phải để hắn vào,” Vakeel đã bảo Amina; “Phải đảm bảo rằng ta bắt đúng đối tượng.” Đối tượng, nhẹ bước trên mái nhà rải nhựa đường, đến bên ngọn tháp; tiến vào.

“Thanh tra Sahib, ông còn chờ gì nữa?”

“Suỵt, Begum, đây là điệp vụ của cảnh sát; xin bà lui vào trong nhà. Chúng tôi sẽ tóm hắn khi hắn trở ra; bà cứ nhớ lời tôi. Bắt sống,” Vakeel nói với vẻ thỏa mãn, “như một con chuột sập bẫy.”

“Nhưng hắn là ai?”

“Ai biết được,” Vakeel nhún vai. “Một gã badmaash là cái chắc. Thời nay quân bất lương nhan nhản khắp nơi.”

... Và rồi sự im lặng của màn đêm bị xé toạc bởi một tiếng thét duy nhất, tắc nghẹn; ai đó lảo đảo dựa vào mặt trong cánh cửa của tháp đồng hồ; nó bị giật tung ra; một tiếng đổ sầm; và thứ gì đó chảy thành vệt trên nền nhựa đường đen. Thanh tra Vakeel chồm lên và ra tay, lia khẩu súng trường lên, bắn từ ngang hông hệt như John Wayne; đám phu quét dọn móc vũ khí của xạ thủ trong chổi ra và khai hỏa... tiếng rú phấn khích của phụ nữ, tiếng hét của người hầu... im lặng.

Thứ gì nằm đó, nửa nâu nửa đen, vằn vện và xoắn xuýt trên nền nhựa đường đen? Thứ gì, rỉ máu đen, kích động Bác sĩ Schaapsteker rít lên từ vọng lâu trên gác thượng: “Đồ đần độn! Anh em với gián! Con của lũ lại cái!”... thứ gì, lưỡi thò thụt, đã chết khi Vakeel lao lên mái nhà phủ nhựa đường?

Và trong cánh cửa tháp đồng hồ? Sức nặng nào, khi sụp xuống, đã gây ra tiếng đổ sầm vang dội nhường ấy? Tay ai đã giật tung cửa; gót chân ai hiện rõ hai lỗ đỏ, chảy máu, đầy ứ thứ nọc độc không có thuốc giải, thứ nọc đã giết chết từng tàu đầy lũ ngựa già nua? Thi thể ai được khiêng ra khỏi tháp bởi những người đàn ông mặc thường phục, không quan tài, với những phu quét dọn giả trang trong vai người hộ quan? Tại sao, khi ánh trăng rọi vào khuôn mặt xác chết, Mary Pereira lại ngã phịch như một tải khoai tây xuống sàn, mắt trợn trừng, trong một cơn ngất xỉu bất ngờ và đầy kịch tích?

Và xếp sát tường ở bên trong ngọn tháp đồng hồ: những máy móc kỳ lạ có gắn đồng hồ rẻ tiền này là gì - tại sao có nhiều chai lọ miệng nút đầy giẻ như thế?

“May mà bà gọi quân của tôi tới, Begum Sahiba,” Thanh tra Vakeel bảo. “Đó là Joseph D’Costa - trong danh sách Truy nã Đặc biệt của tụi tôi. Săn hắn đâu cả năm nay rồi. Một gã badmaash cực kỳ tàn độc. Bà phải nhìn mấy bức tường trong tháp! Từng giá, chất đầy tận nóc toàn bom tự chế. Sức công phá đủ để thổi bay cả quả đồi này xuống biển!”

Mê lô chồng chất mê lô; cuộc đời bỗng có màu sắc của một phim chớp bóng Bombay; rắn tiếp bước thang, thang theo gót rắn; trong hoàn cảnh của quá nhiều tai biến như vậy, Bé Saleem ngã bệnh. Như thể không đủ sức tiêu hóa nhiều biến động đến thế, cậu nhắm mắt lại, đỏ và nóng rực lên. Trong khi Amina ngóng đợi kết quả vụ Ismail kiện Chính quyền Bang; trong khi con Khỉ Đồng lớn dần trong bụng bà; trong khi Mary lâm vào một trạng thái sốc mà cô sẽ chỉ hoàn toàn hồi phục khi hồn ma của Joseph tìm về ám cô; trong khi sợi dây rốn lơ lửng trong lọ ngâm và những món chutney của Mary làm giấc mơ của chúng tôi tràn ngập những ngón tay đang chỉ; trong khi Mẹ Bề trên điều hành gian bếp, ông ngoại khám bệnh cho tôi và nói, “Ta sợ rằng không có gì nghi ngờ nữa; thằng bé tội nghiệp bị thương hàn.”

“Lạy Chúa trên trời,” Mẹ Bề trên nấc lên, “Ma quỷ nào đã đến, cáigìkhôngbiết, gieo tai ương xuống cái nhà này?”

Đây là những gì tôi được nghe về trận ốm suýt nữa đã chặn tôi lại trước khi tôi kịp bắt đầu: cả ngày lẫn đêm, vào cuối tháng Tám năm 1948, mẹ và ông ngoại trông nom tôi; Mary lê mình ra khỏi nỗi dằn vặt và đắp khăn lạnh lên trán tôi; Mẹ Bề trên hát ru và bón thức ăn cho tôi; ngay cả cha tôi, tạm thời quên mất tình trạng rối loạn của mình, cũng đứng cuống quýt bất lực trên ngưỡng cửa. Nhưng khi đêm xuống, Bác sĩ Aziz, kiệt quệ như một con ngựa già, nói, “Ta đã làm hết khả năng rồi. Nó sẽ chết trước khi trời sáng.” Và trong bối cảnh đám đàn bà khóc lóc và cơn đau đẻ vừa phát của mẹ tôi do bị kích thích trước sự đau khổ và cảnh bứt tóc của Mary Pereira, có tiếng gõ cửa; người hầu báo tên Bác sĩ Schaapsteker; người đưa cho ông tôi một cái chai nhỏ và nói, “Tôi không giấu giếm gì cả: thứ này hoặc chữa hoặc chết. Đúng hai giọt; rồi chờ xem.”

Ông tôi, ngồi ôm đầu giữa đống kiến thức y khoa đổ nát của mình, hỏi, “Cái gì đây?” Và Bác sĩ Schaapsteker, gần tám mươi hai tuổi, lưỡi thò thụt nơi khóe miệng: “Nọc độc hổ mang chúa pha loãng. Nó đã từng hiệu nghiệm.”

Rắn có thể dẫn đến vinh quang, cũng như thang có thể xuống dốc: ông tôi, biết đằng nào tôi cũng chết, cho tôi uống nọc rắn hổ. Cả gia đình đứng nhìn nọc độc lan khắp người đứa bé... và sáu tiếng sau, thân nhiệt của tôi trở lại bình thường. Từ đó, tốc độ lớn của tôi mất đi những đặc tính phi thường; nhưng cái mất đi được bù đắp bằng thứ khác: sinh mệnh, và một ý thức sớm về sự mơ hồ của loài rắn.

Trong khi thân nhiệt tôi hạ xuống, em gái tôi ra đời tại Nhà Hộ sinh của Bác sĩ Narlikar. Hôm đó là mồng 1 tháng Chín; và ca sinh nở bình yên, trôi chảy đến mức nó đi qua hầu như không ai chú ý tại Điền trang Methwold; bởi vì đúng ngày hôm đó Ismail Ibrahim tới thăm cha mẹ tôi ở bệnh viện và thông báo họ đã thắng kiện... Trong khi Ismail ăn mừng, tôi bíu tay vào song cũi; trong khi ông ta kêu lên, “Đóng băng thế đủ rồi! Tài sản của anh lại là của anh! Theo lệnh của Tòa án Tối cao!”, tôi đỏ mặt tía tai rướn lên khỏi trọng lực; và trong khi Ismail thông báo, vẻ thản nhiên, “Sinai bhai, nền pháp trị đã giành một chiến thắng vang dội,” và né tránh ánh mắt hân hoan đắc thắng của mẹ tôi, tôi, Bé Saleem, vừa tròn một tuổi, hai tuần và một ngày, nâng mình đứng thẳng trong cũi.

Những sự kiện của ngày hôm ấy có tác động kép: tôi lớn lên với đôi chân vòng kiềng không chữa được, bởi vì tôi đứng dậy quá sớm; còn con Khỉ Đồng (gọi vậy vì vạt tóc dày màu vàng đỏ của con bé, sẽ không sẫm lại tới khi nó lên chín) thì hiểu rằng, nếu muốn nhận được sự chú ý trong đời, nó sẽ phải gây rất nhiều náo động.