Những đứa con của nửa đêm - Phần III - Chương 30 - Phần 3 (Hết)

Đoạn kết của hành trình: từ thế giới ngầm của những nữ tiếp viên mù, tôi tiến về phía Bắc Bắc Bắc, ôm con trai trên tay: và cuối cùng đến nơi ruồi bị thằn lằn nuốt rau ráu, những vại rau quả dầm sôi lục bục, và những người đàn bà cánh tay lực lưỡng kể chuyện cười thô tục; đến thế giới của những đốc công mồm mép cay độc có cặp vú hình nón, và tiếng lanh canh vang dội tứ bề của các lọ ngâm ở dây chuyền đóng chai... và ai, ở cuối con đường của tôi, đứng chắn trước mặt tôi, tay chống nạnh, lông tơ ở bắp tay lấp lánh mồ hôi? Ai, luôn thẳng thừng như thế, cật vấn, “Này, ông kia: ông muốn gì?”

“Em!” Padma reo lên, hớn hở và có chút thẹn thò khi nhớ lại “Dĩ nhiên, còn ai vào đây nữa? Em em em!”

“Xin chào, Begum,” tôi nói. (Padma xen vào: “Ôi ông - bao giờ cũng một niềm lịch thiệp này kia!) “Xin chào; tôi xin phép nói chuyện với bà giám đốc?”

Ôi nàng Padma lầm lì, phòng thủ, cứng đầu! “Không được. Begum Giám đốc đang bận. Ông phải hẹn trước, rồi quay lại sau. Giờ thì xin ông đi cho.”

Nghe này: chắc chắn tôi sẽ ở lại, thuyết phục, dọa dẫm, thậm chí dùng vũ lực để vượt qua đôi cánh tay Padma; nhưng có một tiếng kêu từ trên cầu treo - cây cầu treo này đây, Padma, bên ngoài khu văn phòng! - cây cầu treo nơi ai đó từ đầu đến giờ tôi chưa sẵn sàng nói tên đang đứng nhìn xuống, qua dãy vại ngâm khổng lồ và những mẻ chutney liu riu - ai đó đang lạch cạch lao bổ xuống những bậc thang kim loại, rú lên đến lạc giọng:

“Ôi lạy Chúa, ôi lạy Chúa, Ôi Jesus đứcJesus nhân ái, baba, con trai ta, xem ai đây này, arre baba, con không thấy ta sao, con gầy quá đi mất, mau, mau, để ta hôn con nào, để ta lấy bánh con ăn nhé!”

Đúng như tôi đoán, Begum Giám đốc của Công ty TNHH (Tư nhân) Rau quả dầm Braganza, người tự xưng là Bà Braganza, quả nhiên chính là người Ayah năm xưa của tôi, tên tội phạm của nửa đêm, Cô Mary Pereira, người mẹ duy nhất còn lại của tôi trên đời này.

Nửa đêm, hoặc là tầm đó. Một người đàn ông cầm theo chiếc ô đen cụp lại (và nguyên vẹn) đi về phía cửa sổ phòng tôi từ hướng đường ray xe lửa, dừng lại, ngồi xổm, ỉa. Rồi thấy bóng tôi dưới ánh đèn và, thay vì bất bình khi thấy tôi nhìn trộm, hét to: “Xem đây!” đoạn tiếp tục rặn ra cục phân dài nhất tôi từng thấy. “Bốn mươi phân!” anh ta hét to, “Đằng ấy được bao nhiêu?” Trước đây, khi còn sung mãn hơn, tôi chắc sẽ muốn kể câu chuyện đời anh; thời khắc nửa đêm và cái ô mà anh sở hữu là tất cả những mối liên hệ cần thiết để tôi khởi đầu tiến trình dệt anh vào cuộc đời tôi, và tôi tin chắc mình sẽ kết thúc bằng việc chứng minh anh là nhân tố không thể bỏ qua với bất kỳ ai muốn hiểu cuộc đời tôi và những thời kỳ bị bóng đêm ngự trị; nhưng giờ tôi đã bị ngắt điện, rút nguồn, chỉ còn một việc phải làm là viết điếu văn. Thế nên, vẫy tay với nhà vô địch đại tiện, tôi đáp trả: “Hôm nào giỏi thì mười lăm,” và quên anh đi.

Ngày mai. Hoặc là ngày kia. Những vết nứt sẽ chờ đến 15 tháng Tám. Vẫn còn một ít thời gian: ngày mai tôi sẽ kết thúc.

Hôm nay tôi cho phép mình nghỉ viết và đến thăm Mary. Một cuốc xe buýt dài nóng nực bụi bặm qua những đường phố đã bắt đầu sục sôi trong niềm háo hức về Ngày Độc lập sắp tới, mặc dù tôi ngửi thấy cả những mùi khác, ô uế hơn: vỡ mộng, hám lợi, yếm thế... cái huyền thoại sắp ba mươi mốt tuổi về tự do không còn là nó ngày xưa nữa. Đất nước này cần những huyền thoại mới; nhưng đấy không phải là việc của tôi.

Mary Pereira, giờ đây lấy tên là Bà Braganza, sống cùng với em gái, Alice, nay là Bà Fernandes, tại một căn hộ trên tòa tháp sắc hồng của đám đàn bà nhà Narlikar trên ngọn đồi hai tầng nơi ngày xưa, trong tòa cung điện đã bị phá hủy, bà ngủ trên manh chiếu của người hầu. Phòng ngủ của bà chiếm một khoảng không xấp xỉ khối lập phương không khí ngày xưa, nơi ngón tay đang chỉ của một ngư phủ đã hướng một cặp mắt trẻ thơ về phía chân trời; ngồi trong chiếc ghế ru gỗ tếch, Mary ru con trai tôi, hát bài “Buồm Đỏ Dưới Hoàng Hôn”. Những cánh buồm dhow sắc đỏ căng phồng trên nền trời xa.

Một ngày thật dễ chịu. Khi ta nhớ về những ngày đã qua. Khi tôi nhận ra rằng một luống xương rồng ngày trước đã sống sót qua cuộc cách mạng của đám đàn bà nhà Narlikar, và mượn cái xẻng của người mali[9] rồi đào lên một thế giới đã bị chôn vùi từ lâu: một quả địa cầu nhôm đựng bức-hình-con-nít-cỡ-đại ố vàng bị kiến gặm, tác phẩm của Kalidas Gupta, và lá thư của Thủ tướng. Và những ngày sau đó: có dễ đến chục lần chúng tôi hàn huyên về vận may bỗng đổi chiều của Mary Pereria. Về chuyện tất cả đều nhờ vào cô em Alice - vợ của ông Fernandes tội nghiệp đã chết vì mù màu, do bị lẫn lộn, khi lái chiếc Ford Prefect cũ, trước một trong những cột đèn giao thông hồi ấy còn hiếm hoi của thành phố. Về chuyện Alice đã về Goa thăm bà, mang theo cái tin rằng các bà chủ của cô, đám đàn bà ghê gớm và tháo vát nhà Narlikar, sẵn sàng đầu tư một khoản tiền-tetrapod vào một nhà máy rau quả dầm. “Em bảo họ, không ai làm achar-chutney được như chị Mary,” Alice đã nói, với sự chính xác tuyệt đối, “bởi vì chị ấy trút cảm xúc của mình vào trong đó.” Vậy là Alice cuối cùng đã trở thành một cô gái tốt. Và, baba, con nghĩ sao hả, làm sao ta tin nổi cả thế giới đều muốn ăn món chutney quê mùa của ta, ở tận Anh họ cũng ăn. Và giờ, con nghĩ xem, ta ngồi đây, trên nền ngôi nhà cũ thân thương của con, trong khi có Chúa mới biết bao điều đã xảy đến với con, sống vạ vật bấy lâu, thế giới này thật trớ trêu, baapu-re!

[9] Thợ làm vườn.

Và những khóc than đắng cay xen lẫn ngọt ngào: Ôi, ba má tội nghiệp của con! Bà chủ nhân hậu, chết rồi! Còn ông Sinai tội nghiệp, chẳng bao giờ biết ai yêu mình lẫn cách yêu người! Lại còn con Khỉ nữa... nhưng tôi đã ngắt lời, không, chưa chết: không, không phải đâu, chưa chết. Đang bí mật, ở một tu viện, ăn bánh mì.

Mary, người ăn trộm cái tên của bà hoàng Catharine tội nghiệp, kẻ đã trao cho người Anh những hòn đảo này, đã dạy tôi bí quyết làm rau quả dầm. (Kết thúc một khóa học đã bắt đầu trong chính không gian này khi tôi đứng dưới bếp xem bà khuấy cảm giác tội lỗi vào xoong chutney xanh.) Giờ bà ở nhà, nghỉ hưu khi đã tuổi già tóc bạc, một lần nữa sung sướng đóng vai Ayah, với một thằng bé để nuôi nấng. “Giờ chuyện viết lách của con đã xong, baba, con nên dành nhiều thời gian hơn cho con trai.”Nhưng Mary ạ, con làm việc ấy vì nó. Và bà, chuyển chủ đề, bởi vì dạo này tâm trí bà cứ nhảy tanh tách tứ tung như bọ chét: “Ôi, baba, baba, nhìn con này, con già quá rồi!”

Bà Mary giàu có, người chưa bao giờ mơ mình giàu có, đến giờ vẫn không biết ngủ giường. Nhưng uống mười sáu lon Coca một ngày, chẳng sợ sâu răng, vì đằng nào răng cũng rụng hết rồi. Lại nhảy tách một phát: “Mà sao con lại đám cưới vội vàng đột ngột thế?” Vì Padma muốn thế. Không, cô ấy đâu có bị sao, làm sao cô ấy có thể, với tình trạng này của tôi? “Không sao, baba. Ta chỉ hỏi vậy thôi.”

Và ngày hôm đó chắc đã bình yên trôi qua, một ngày hoàng hôn gần thời khắc tận cùng của thời gian, nếu như lúc này, cuối cùng, khi ba tuổi, một tháng và hai ngày, Aadam Sinai không bật ra một âm thanh.

“Ab...” Arre, Ôi lạy chúa, nghe kia, baba, thằng bé đang nói gì ấy! Và Aadam, hết sức nắn nót: “Abba...” Cha. Nó gọi tôi là Cha. Nhưng không, thằng bé chưa nói hết, mặt nó lộ vẻ căng thẳng, và cuối cùng con trai tôi, người sẽ buộc phải trở thành phù thủy để đối mặt với thế giới mà tôi sắp bỏ nó lại, đã hoàn tất tiếng nói đầu đời, thần diệu của nó: “… cadabba.”

Abracadabra! Nhưng không có gì xảy ra, chúng tôi không hóa chành ếch, thiên thần không bay vào qua cửa sổ: thằng bé chỉ đang khởi động. Tôi sẽ không kịp thấy những phép mầu của nó... Giữa lúc Mary hoan hỉ đón chào thành tựu của Aadam, tôi quay về với Padma và nhà máy; bước tiến nhập đầu tiên, bí hiểm của con trai tôi vào lãnh địa của ngôn ngữ đã để lại trong mũi tôi một mùi hương đáng lo ngại.

Abracadabra: hoàn toàn không phải tiếng Ấn, mà là một chú ngữ thần bí, xuất phát từ tên thần linh tối cao của các tín đồ Trí huệ giáo dòng Basilidean[10], hàm chứa con số 365, số ngày trong một năm, số Thiên Đường, và số linh thần tán phát từ đức Abraxas[11]. “Thằng bé,” tôi tự hỏi, không phải lần đầu, “nghĩ nó là ai nhỉ?”

[10] Trí huệ giáo (Gnosticism) là một tôn giáo ra đời khoảng thế kỷ 2 Công nguyên, sau này bị Thiên Chúa giáo xem là tà thuyết. Basilides là một đạo sư truyền bá Trí huệ giáo ở Alexandria, Ai Cập từ năm 117 đến 138 Công nguyên.

[11] Giáo lý Trí huệ giáo dòng Basilides cho rằngAbraxas là thần linh tối cao, thủ lĩnh của 365 vị thần, đại diện cho 365 ngày và cai quản 365 tầng Thiên Đường, trong đó tầng thấp nhất là trái đất. Abraxas nếu viết bằng ký tự Hy Lạp sẽ tạo nên con số 365, vì vậy chữ này được cho là có sức mạnh thần bí, và chính là từ nguyên của câu thần chú Abracadabra.

Những công thức đặc biệt của tôi: tôi đã để dành chúng từ đầu đến giờ. Giá trị tượng trưng của quá trình ngâm: sáu trăm triệu tế bào trứng đã sinh ra toàn bộ dân số Ấn Độ có thể nhét vừa một lọ ngâm kích cỡ tiêu chuẩn, duy nhất; sáu trăm triệu tinh trùng có thể múc lên chỉ trong một thìa. Mỗi lọ ngâm (hãy tha thứ cho tôi, nếu tôi trở nên hoa mỹ trong giây lát) do đó, chứa dựng triển vọng tối thượng nhất: khả năng chutney-hóa lịch sử; niềm hy vọng vĩ đại là ngâm thời gian! Tôi, tuy vậy, đã ngâm những chương sách. Đêm nay, bằng việc vặn chặt nắp vào chiếc lọ dán nhãn Công thức Đặc biệt Số30: “Abracadabra”, tôi đã đi đến hồi kết của cuốn tự truyện dài dằng dặc của mình; bằng câu chữ và lọ ngâm, tôi đã biến ký ức của mìnhthành bất tử, mặc dù cả hai phương pháp đều không tránh khỏi có những sự méo mó. Tôi e rằng chúng ta buộc phải chung sống với cái bóng của sự bất toàn.

Những ngày này, tôi quản lý nhà máy cho Mary. Alice - “Bà Fernandes” - phụ trách mảng tài chính; trách nhiệm của tôi là khâu sáng tạo. (Tất nhiên tôi đã tha thứ cho tội lỗi của Mary; tôi cần mẹ cũng như cần cha, mà một người mẹ thì nằm ngoài diện oán giận.) Giữa lực lượng lao động toàn nữ của Rau quả dầm Braganza, trong ánh nhấp nháy sắc nghệ-và-xanh cửa nàng Mumbadevi neon, tôi tuyển lựa xoài cà chua chanh từ những phụ nữ đội thúng đến đưa hàng lúc rạng đông. Mary, với nỗi căm ghét xa xưa đối với “bọn đàn ông”, không chấp nhận nam giới nào ngoài tôi vào vũ trụ mới, đầm ấm này của bà... tôi, và dĩ nhiên cả con tôi. Alice, tôi ngờ rằng, vẫn có vụng trộm tí chút; còn Padma đã say tôi ngay từ đầu, thấy ở tôi một nơi để trút bầu quan hoài bao la bị dồn nén của em; phần còn lại thì tôi không dám nói, nhưng đối với đội ngũ nhân công nhà máy, năng lực phi phàm của phụ nữ nhà Narlikar được phản ánh qua nhiệt huyết trong đôi tay lực lưỡng của những người quấy vại.

Quá trình chế biến chutney cần những gì? Nguyên liệu thô, tất nhiên rồi - hoa quả, rau, cá, giấm, gia vị. Những cuộc viếng thăm mỗi ngày của những phụ nữ Koli sari xắn cao giữa hai chân. Dưa chuột cà tím bạc hà. Nhưng chưa hết: cặp mắt, xanh như băng, không bị lừa mị bởi sự phỉnh phờ ngoài mặt của hoa quả - và nhìn thấu chỗ ủng dưới lớp vỏ những loại quả họ cam; những ngón tay chỉ bằng một cú chạm nhẹ tựa lông hồng là đã thăm dò được trái tim thầm kín, không ngừng biến động của những quả cà chua xanh; và trên hết là một cái mũi có năng lực thấu hiểu ngôn ngữ ẩn mật của những-thứ-cần-ngâm, sự hài hước và những thông điệp và cảm xúc của chúng... ở Rau quả dầm Braganza, tôi giám sát quy trình sản xuất theo các công thức huyền thoại của Mary; ngoài ra có cả những hỗn hợp đặc biệt của tôi, trong đó, nhờ sức mạnh của khoang mũi bị hút kiệt, tôi có thể đưa vào ký ức, mơ mộng, tư tưởng, để một khi chúng đi vào sản xuất hàng loạt, tất cả những ai tiêu thụ sẽ biết lọ gia vị đã giành được gì ở Pakistan, và cảm giác khi lạc trong rừng Sundarbans ra sao... tin hay không tùy quý vị, nhưng đó là sự thật. Ba mươi chiếc lọ xếp hàng trên giá, chờ đợi được trút xuống đầu dân tộc mất trí nhớ này.

(Và bên cạnh chúng, một lọ hãy còn trống.)

Quá trình hiệu chỉnh phải diễn ra liên tục và không ngừng nghỉ; chớ nghĩ rằng tôi thỏa mãn với những gì đã có! Trong số những thứ làm tôi kém vui: một mùi hơi gắt từ những lọ chứa ký ức về cha tôi, một sự mơ hồ nào đấy trong mùi vị tình yêu ở “Jamila Ca sĩ” (Công thức Đặc biệt Số 22), có thể làm những ai thiếu nhạy bén kết luận rằng tôi đã hư cấu ra toàn bộ câu chuyện tráo-hài-nhi để biện hộ cho một tình yêu loạn luân; sự mù mờ thiếu hợp lý trong lọ mang nhãn “Tai nạn trong Tủ giặt” - những câu hỏi được rau quả dầm trong lọ đặt ra chưa có sự trả lời thấu đáo, chẳng hạn: Tại sao Saleem phải gặp tai nạn mới có được siêu năng lực? Hầu hết những đứa trẻ khác không cần... Hoặc là, trong “Đài phát thanh Toàn Ấn Độ” và các lọ khác, một nghịch âm xuất hiện trong bản hòa tấu của mùi vị: lẽ nào sự thú nhận của Mary lại gây sửng sốt cho một người có năng lực ngoại cảm thực thụ? Có những lúc, ở phiên bản lịch sử của những lọ ngâm, Saleem dường như biết quá ít; và có những lúc, quá nhiều... phải, tôi phải chỉnh sửa và chỉnh sửa, hoàn thiện và hoàn thiện; nhưng tôi không còn cả thời gian lẫn sức lực. Tôi đành phải đưa ra trơ khấc một lời giải thích bướng bỉnh này: Chuyện xảy ra như thế vì nó xảy ra như thế.

Rồi còn cả vấn đề của các gia vị chủ đạo. Sự phức tạp của nghệ và thì là, sự vi diệu của cỏ cà ri, khi nào dùng bạch đậu khấu hạt to (và khi nào hạt nhỏ); rồi muôn vàn tác động khác nhau của tỏi, garam masala, quế thanh, rau mùi, gừng... chưa kể thỉnh thoảng còn có sự đóng góp nồng nàn hương vị của vài hạt bụi. (Saleem đã hết bị ám ảnh về sự thuần khiết.) Qua việc pha chế gia vị, tôi học được cách chấp nhận những méo mó tất yếu của quá trình ngâm ủ. Ngâm ủ, nói cho cùng, là mang lại sự bất tử: cá, rau, hoa quả được ướp trong gia-vị-và-giấm; một điều chỉnh nào đó, một sự gia tăng chút ít về mùi vị, chỉ là một vấn đề nhỏ, hẳn rồi? Bí quyết là thay đổi về nồng độ, chứ không phải chủng loại gia vị; và trên hết (trong ba mươi và một cái lọ của tôi) là cho chúng hình dạng và hình thái - như thế tức là, ý nghĩa, (tôi từng đề cập đến nỗi sợ sự vô nghĩa của mình.)

Có lẽ một ngày kia thế giới sẽ được nếm món rau quả dầm của lịch sử. Đối với một số người, vị của chúng có lẽ sẽ quá nồng nàn, mùi của chúng có lẽ sẽ quá mãnh liệt, nước mắt có thể sẽ ứa ra; tuy nhiên, tôi vẫn hy vọng mình có thểnói về chúng rằng chúng chứa đựng thứ mùi vị nguyên chất của sự thật... rằng chúng là, bất chấp tất cả, những hành động của tình yêu.

Còn một lọ trống... kết thúc thế nào đây? Có hậu, với Mary trong chiếc ghế đu và đứa con bắt đầu bập bẹ? Giữa những công thức, và ba mươi cái lọ có nhãn là tên các chương sách? Giữa nỗi bi ai, đắm chìm trong hồi ức về Jamila và Parvati, thậm chí cả Evie Burns? Hay là với những đứa trẻ thần kỳ... nhưng nếu vậy thì tôi có nên vui vì một số đã chạy thoát, hay nên kết thúc trong bi kịch của quá trình tan rã, hệ quả của việc bị hút kiệt? (Vì căn nguyên của sự rạn nứt nằm trong chính việc bị hút kiệt: cơ thể bất hạnh, bị nghiền nát, bị hút kiệt ở trên và ở dưới của tôi bắt đầu rạn nứt bởi vì nó đã héo quắt đi. Khô kiệt, nó cuối cùng đã đầu hàng trước những di chứng của một đời bị vùi dập cả tơi. Và giờ vang lên tiếng nhay xé gặm, và một mùi hôi bốc ra qua các kẽ nứt, hẳn là mùi của cái chết. Làm chủ: tôi phải làm chủ được tình hình càng lâu càng tốt.)

Hay là với những câu hỏi: giờ đây, khi có thể(tôi thề) nhìn thấy những vết nứt trên mu bàn tay, nứt dọc theo đường chân tóc và giữa những ngón chân, tại sao tôi không chảy máu? Lẽ nào tôi đã trống trơn khô kiệt bị ngâm ủ sẵn rồi? Lẽ nào tôi đã thành xác ướp của chính tôi?

Hay là những giấc mơ: bởi vì đêm qua hồn ma của Mẹ Bề trên xuất hiện, chằm chằm nhìn xuống tôi qua cái lỗ khoét giữa một đám mây, chờ đợi cái chết của tôi để bà có dịp khóc ra một mùa mưa trong bốn mươi ngày... và tôi, bồng bềnh ngoài cơ thể mình, nhìn xuống hình ảnh bị rút ngắn của chính tôi, và thấy một thằng lùn tóc muối tiêu, kẻ từng, trong một tấm gương, tỏ ra nhẹ nhõm.

[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

Không, như thế không ổn, tôi sẽ phải viết về tương lai như đã viết về quá khứ, ghi chép nó với sự chắc chắn tuyệt đối của một nhà tiên tri. Nhưng tương lai không thể được bảo quản trong một cái lọ; một cái lọ phải đế trống... Điều không thể đem ngâm, vì nó chưa xảy ra, là tôi sẽ sống đến ngày sinh nhật, lần thứ ba mươi mốt, và chắc chắn lễ cưới sẽ được cử hành, Padma sẽ có hoa văn henna trên bàn tay lẫn bàn chân, và cả một cái tên mới, có lẽ là Naseem, để tỏ lòng tôn kính hồn ma Mẹ Bề trên đang dõi theo chúng tôi, và ngoài cửa sổ sẽ có pháo hoa và đám đông, vì hôm đó là Quốc khánh và những con quái vật nhiều đầu sẽ đổ ra đường, còn Kashmir sẽ đang chờ đợi. Tôi sẽ cầm vé tàu trong túi, sẽ có một chiếc taxi với tài xế là một cậu bé nhà quê từng mơ ước, tại quán Café Pioneer, trở thành minh tinh màn bạc, chúng tôi sẽ chạy về phía Nam Nam Nam, vào trung tâm đám đông huyên náo này, những người sẽ ném bóng sơn vào nhau, vào cửa sổ đã được kéo lên của chiếc taxi, như thể hôm nay là Holi, lễ hội Sắc màu; rồi dọc theo Hornby Vellard, nơi một con chó bị bỏ mặc đến chết; và đám đông, đám đông lúc nhúc, đám đông không biên giới này, cứ lớn mãi đến khi lấp chật thế gian, khiến việc tiến lên trở thành bất khả; chúng tôi sẽ bỏ lại chiếc xe cùng những giấc mơ của anh chàng tài xế, đi bộ vào đám đông chật như nêm này, và phải, tôi và Padma sẽ thất lạc nhau, bông sen-phân của tôi vươn tay về phía tôi qua đại dương dậy sóng, cho tới khi em chìm nghỉm vào đám đông và tôi chỉ còn lại một mình giữa mênh mông biển số, những con số diễu hành rầm rập một hai ba, tôi bị nhồi lên dập xuống trong khi cơn nhay xé gặm lên đến đỉnh điểm, và cơ thể tôi hét lên, nó không thể chịu đựng kiểu đối xử này thêm nữa, nhưng giờ tôi nhìn thấy những khuôn mặt quen thuộc trong đám đông, tất cả đều có mặt, ông ngoại tôi Aadam và vợ ông Naseem, và Alia và Mustapha và Hanif và Emerald, và Amina người từng là Mumtaz, và Nadir kẻ trở thành Qasim, và Pia và Zafar thằng nhóc đái dầm và cả Đại tướng Zulfikar, họ chen chúc quanh tôi xô đẩy giẫm đạp và những vết nứt toác ra, từng mẩu cơ thể tôi rơi xuống, còn kia là Jamila người đã rời tu viện để có mặt trong ngày cuối cùng này, màn đêm đang buông xuống đã buông rồi, vang lên tiếng tích tắc đếm ngược về nửa đêm, pháo hoa và trời sao, những mô hình đô vật bằng bìa các tông, và tôi nhận ra rằng, mình sẽ không bao giờ đến được Kashmir, như Jehangir Đại đế Mughal tôi sẽ chết với Kashmir trên môi, không kịp nhìn thấy thung lũng hoan lạc, nơi con người tìm đến để hưởng thụ cuộc sống hoặc để kết thúc nó, hoặc cả hai; bởi vì giờ tôi đã thấy những bóng dáng khác trong đám đông, bóng dáng khủng bố của một người hùng chiến tranh với đôi đầu gối sát thủ, người đã khám phá ra tôi ăn cắp quyền vị lúc chào đời của hắn ra sao, hắn đang xô đẩy xông đến chỗ tôi qua đám đông lúc này chỉ toàn những khuôn mặt quen thuộc, kia là anh chàng kéo Rashid xe tay-trong-tay với Quận chúa xứ Cooch Naheen, đây là Ayooba Shaheed Farooq với Mutasim Anh tuấn, còn từ một hướng khác, hướng mộ đảo của Haji Ali[12], tôi nhìn thấy một bóng ma thần thoại đang tiến lại: Hắc thần, có điều khi đến gần mặt nó màu xanh mắt nó màu đen, tóc nó rẽ ngôi giữa, bên trái xanh và bên phải đen, mắt nó là cặp mắt Góa phụ; Shiva và Hắc thần đang đến gần rất gần, bên tai tôi vang lên những lời nói dối trong đêm: bất cứ gì con muốn thành, con sẽ được - sự dối trá trắng trợn nhất, nứt vỡ rồi: sự phân rã của Saleem, tôi là Quả bom ở Bombay, hãy xem tôi nổ tung, từng đốt xương nứt gãy rạn vỡ dưới sức ép khủng khiếp của đám đông, cái túi da đựng xương rơi rơi rơi; như năm xưa ở Jallianwala, nhưng hôm nay xem ra không có mặt Dyer, và không có Mercurochrome, chỉ có một sinh vật vỡ vụn tung tóe từng mảnh cơ thể ra đường, bởi vì tôi đã từng là rất-nhiều quá-nhiều nhân vật: cuộc đời, không như ngữ pháp, cho phép ta là nhiều hơn ba ngôi[13], và cuối cùng đâu đó dội lên tiếng chuông đồng hồ, điểm đúng mười hai tiếng.

[12] Haji Ali là một thánh đường đạo Hồi đồng thờilà một Kiến trúc lăng mộ tọa lạc trên một hòn đảo tí honở phía Nam Bombay.

[13] Trong tiếng Anh, chữ person vừa có nghĩa là con người/nhân vật, vừa có nghĩa là ngôi nhân xưng.

Phải, chúng sẽ nghiền nát tôi dưới chân, những con số rầm rập diễu hành một hai ba, bốn trăm triệu năm trăm sáu... biến tôi thành vô vàn hạt bụi vô thanh, cũng như, đến một ngày kia, chúng sẽ nghiền nát đứa con trai không phải con trai tôi, và đứa con trai không phải con trai nó, và đứa con trai không phải con trai nó, cho đến tận thế hệ thứ một ngàn lẻ một, cho đến khi một ngàn lẻ một nửa đêm đã ban phát những món quà khủng khiếp của chúng, và một ngàn lẻ một đứa trẻ đã chết, bởi vì những đứa trẻ của nửa đêm đều mang trong mình đặc ân và lời nguyền rằng chúng vừa là chủ nhân vừa là nạn nhân của thời đại chúng, phải từ bỏ sự riêng tư và bị cuốn vào vòng xoáy hủy diệt của đại chúng, và không được sống và chết một cách bình yên.

Hết.

Thực hiện bởi

nhóm Biên tập viên Gác sách:

Ariko Yuta – Kaitoukiddo1412 – trangchic

(Tìm – Chỉnh sửa – Đăng)