Én Liệng Truông Mây - Hồi 06 - Phần 2
Hảo Hớn đỏ mặt:
- Quan khám lý
nắm tin tức nhanh thật. Dạ, hạ quan quả có sơ sót trong việc quản lý nên để bọn
con buôn qua mặt làm càn. Vì thế hạ quan mới đường đột đến đây để xin ngài khám
lý tìm cách giảm nhẹ sự việc này. Hạ quan nguyện đền ơn ngài xứng đáng.
Công Đức nheo
mắt hỏi:
- Tên Trần Đại
Chí được mệnh danh là “ông vua muối và gỗ”, giàu có nhất nhì ở phủ Quy Nhơn này
là nhờ có ông đứng sau lưng phải không?
Hảo Hớn giật
mình ấp úng:
- Dạ... đâu có
ạ. Hạ quan với hắn chỉ có chút tình đồng song. Lúc nhỏ hai chúng tôi có thời gian
học chữ chung một thầy nên có tình bè bạn mà thôi. Xin ngài khám lý đừng hiểu lầm.
Công Đức cười
mỉm:
- Ông không qua
mặt tôi nổi đâu. Nhưng gác chuyện đó sang một bên. Ông có biết ngài khâm sai hiện
giờ đang ở phủ chúng ta là ai không?
- Dạ biết. Là
ngài Hình bộ thượng thư.
- Thế ông biết
tính cách của ngài thượng thư chứ?
- Dạ biết.
- Ông biết tính
của ngài thượng thư rồi còn bảo tôi giúp đỡ là giúp đỡ bằng cách nào? Ông định hại
luôn cả tôi đấy à?
- Dạ, hạ quan
đâu dám có ý đó. Chỉ mong ngài, qua phu nhân, nói giúp với quan ngoại tả một tiếng.
Chắc ngài khám lý cũng biết giữa quan ngoại tả và quan thượng thư có tình cha vợ
con rể mà. Sau đó ở công đường xin ngài giảm nhẹ tội trạng cho chúng tôi. Ngài cũng
biết Đại Chí và bọn Diệp Sanh Ký là những người giàu có, chúng hứa sẽ đền ơn ngài
xứng đáng.
- Ông biết được
nhiều chuyện đó chứ. Ông mách thế thì tôi sẽ thử giúp ông. Ông tính thế nào?
Huỳnh Hảo Hớn
biết mình đã gãi đúng chỗ ngứa của tên tham lam này rồi nên trong bụng mừng thầm.
Ông cúi xuống lấy gói đồ mang theo để lên bàn và mở ra. Trong gói có hai chiếc hộp
gỗ màu đen mun rất đẹp, một hộp lớn, một hộp nhỏ hơn. Hảo Hớn mở khóa bật nắp chiếc
hộp lớn ra trước. Trong hộp đựng toàn vàng khối, mỗi khối mười lượng vàng chín tuổi.
Có chừng năm mươi khối như vậy. Ông mở tiếp chiếc hộp nhỏ, trong đó đựng khoảng
hai mươi khối vàng. Hảo Hớn hai tay đẩy nhẹ hai hộp vàng về phía Hoàng Công Đức:
- Chiếc hộp lớn
để cho ngài khám lý gởi tặng quan ngoại tả. Hộp nhỏ là phần quà lễ của chúng tôi
với ngài. Việc êm xuôi, chúng tôi sẽ hiếu kính riêng ngài thêm một hộp lớn nữa.
Mong ngài nhận trước cho.
Hoàng Công Đức
nhìn hai hộp vàng và nghe lời hứa hẹn liền cười tít mắt:
- Ông nhanh nhảu
và thẳng thắn lắm. Được! Ta không chắc chắn lắm nhưng hứa sẽ giúp cho bọn ông. Hãy
coi phước của các ông lớn nhỏ thế nào.
Hảo Hớn cũng
cười theo:
- Đã có ngài
khám lý giúp cho thì vô phước cũng thành đại phước mà.
Công Đức uể oải
đứng lên:
- Ngài khâm sai
lệnh cho ta ra trát tống giam ba tên Đại Chí, Đồng Bách và Thừa Ân để mười hôm nữa
giải lên công đường xét xử. Ông về nhốt chúng lại rồi mang lên phủ cho ta.
- Dạ! Mai hạ
quan về sẽ cho bắt bọn chúng và giải lên phủ cho ngài. Giờ xin cáo từ để khám lý
nghỉ ngơi.
- Ừ, ông về đi.
Nhắc lại bọn
Đinh Hồng Liệt sau khi từ giã Tôn Thất Dục, họ đến khách sạn trong vùng Phù Ly thuê
phòng nghỉ ngơi để hôm sau lên đường đi Quảng Nam. Chiều hôm đó khi ra đến chợ Trà
Câu ở Mộ Hoa, họ vào một quán ăn nghỉ chân. Văn Hiến nói:
- Ba người cứ
đi trước lo công việc của Bạch huynh cho hoàn tất, tôi ghé vào Trần gia gặp hai
ông anh của tôi bàn chút việc. Xong tôi sẽ đến cửa Hàn tìm mấy người.
Bạch Mai vẫn
cải nam trang để tiện đi đường liền lên tiếng:
- Được. Hi vọng
Ngô huynh giúp tìm được mộ bá phụ sớm thì chúng ta gặp nhau ở cửa Hàn, sau đó đi
Hội An.
Ngô Mãnh nói:
- Tôi sẽ cố gắng.
Ăn xong họ chia tay. Ba con thiên lý mã phóng
miệt mài nhưng cũng phải mất hơn hai canh giờ mới đến được phủ lỵ Quảng Ngãi. Họ
nghỉ lại đêm, hôm sau lên đường tiếp. Đến xế chiều hôm sau nữa thì họ mới vượt qua
sông Thu Bồn vào trong khu phố chính của dinh Quảng Nam, thuộc phủ Điện Bàn. Hồng
Liệt đề nghị:
- Giờ đã trễ, đêm nay chúng ta nghỉ tại khách
sạn Thu Giang, sáng mai sẽ vào dinh tìm đến Ty Án sát hỏi thăm tin tức về mộ của
Định bá phụ. Xong việc sẽ về bến Hàn thăm mộ sư phụ, như thế tiện hơn.
Bạch Mai tán thành.
- Anh là thổ địa của đất này, mọi việc cứ
theo ý anh là tốt hơn hết.
Sáng hôm sau họ tìm đến Ty Án sát. Viên án
sát sứ là một người đàn ông tuổi ngoài năm mươi, tính tình trầm lặng nhưng tế nhị
và dễ chịu. Ngô Mãnh tự giới thiệu mình rồi trao cho án sát sứ phong thư của Tôn
Thất Dục, ông đọc xong nhìn Bạch Mai có vẻ thắc mắc. Bạch Mai hiểu ý liền nói:
- Thưa ngài án sát, vì để tiện việc đi lại
đường xa nên cháu phải cải nam trang. Xin ngài thứ cho.
Viên án sát sứ mỉm cười:
- Làm như thế mới phải. Cô là cháu của Định Sách hầu à?
- Dạ.
Viên án sát sứ
chợt buông tiếng thở dài, vẻ mặt đăm chiêu hồi tưởng lại chuyện năm xưa.
- Vụ oan án và
cái chết của Định Sách hầu đã làm cho ta bứt rứt đến tận giờ. Tiếc rằng lúc ấy bè
lũ của Nguyễn Phúc Vĩnh quá đông lại khôn khéo buông lời dèm tấu che mắt Chúa Ninh
nên khiến người bị nhầm lẫn mà lệnh cho ta tạm giam Định Sách hầu ở đây để thẩm
tra lại. Bọn gian thần còn cố tình trì hoãn việc tra xét mới khiến Định Sách hầu
vì uất ức thổ huyết mà chết.
Bạch Mai mắt
rươm rướm lệ hỏi:
- Nghe nói cùng
đi theo Định bá phụ đến dinh Quảng Nam còn có hai người cận tướng trung thành của
người nữa. Không biết giờ họ ở đâu, thưa ngài án sát?
Án sát sứ thở
dài lần nữa than:
- Họ đúng là
những cận vệ trung thành. Nghe người gác ngục kể lại, lúc Định Sách hầu thổ huyết
qua đời, họ khóc lóc thảm thiết rồi cả hai cùng nhắc lại lời hứa với Trần Thượng
Công là sẽ bảo vệ cho Định Sách hầu, nếu có điều bất trắc họ nguyện lấy cái chết
để chuộc tội. Do đó, họ cùng nhau đập đầu vào vách ngục chết theo Định Sách hầu
để giữ tròn lời hứa với Thượng Công.
Bạch Mai sụt
sùi:
- Thảo nào ở
Gia Định không còn biết tin tức gì của họ. Cả ba người sau khi chết rồi được an
táng ở đâu?
- Lúc họ mất,
vì còn là tội phạm đang bị giam nên lẽ ra xác phải chôn trong nghĩa địa chung của
tù nhân, nhưng ta thấy dòng họ Trần của Định Sách hầu là bậc công thần khai quốc
nên đã đưa sang an táng trong nghĩa trang của quân đội. Sau mọi việc sáng tỏ, Chúa
Ninh truy tặng chức đô đốc nên mộ của người được xây dựng lại theo qui cách của
công hầu.
Bạch Mai lộ vẻ
mừng rỡ:
- Tiện nữ xin
thay mặt Trần gia cảm ơn ngài án sát sứ. Cháu ra đây là theo lệnh của bá mẫu và
anh Đại Lực để xin bốc mộ bá phụ và mang di cốt người về Hà Tiên cải táng. Mong
ngài giúp chu toàn ý nguyện cho.
- Cô nương đúng
là một hiếu nữ, một mình vượt ngàn dặm tìm lại mồ mả người thân, việc này ta lẽ
nào lại không vui vẻ chu toàn. Hôm nay ta có chút thời gian, cô có muốn ta đưa cô
đi thăm mộ bây giờ không? Ta cũng muốn lạy vài lạy cuối cùng trước mồ của những
người trung liệt.
- Dạ muốn chứ!
Nếu được ngài đích thân đưa đi thì còn vinh hạnh nào hơn. Như thế chắc linh hồn
của bá phụ và hai nghĩa sĩ cũng được an ủi rất nhiều.
Họ cưỡi ngựa
đến nghĩa trang quân đội ở một khu rừng nằm trên bờ nam của sông Kẻ Thế (sau sông
này bị lấp, vua Minh Mạng cho đào lại thành sông Vĩnh Điền), cách dinh độ năm dặm
về phía tây bắc. Mười ba năm không người coi sóc, ba ngôi mộ của đô đốc Định Sách
hầu Trần Đại Định và hai cận tướng um tùm cỏ mọc, nhiều nơi vách mộ bị bể nát, rêu
phủ đã biến thành màu đen. Bốn người bày hương án, đứng nghiêm trang im lìm trước
mộ, lòng ai cũng dấy lên một mối thương tâm cho một nhà khai quốc công thần mà con
cháu lại phải chết oan ức trong nấm mộ hoang phế giữa rừng sâu. Cùng nhau lạy người
quá cố xong, viên án sát sứ hỏi:
- Bạch Mai cô
nương định bao giờ thì tiến hành bốc mộ?
Bạch Mai lau
nước mắt đáp:
- Dạ ngay hôm
nay ạ. Nhưng cháu phải trở lại phố chợ mua mấy hòm đựng tro cốt và tìm vài phu bốc
mộ.
Ngô Mãnh nói:
- Đâu cần đến
phu bốc mộ, tôi sẽ giúp Bạch Mai cô nương việc này.
Hồng Liệt nói
thêm vào:
- Việc mua hòm
tro cốt thì để tôi lo. Tiệm hòm Âm Phủ trong phố họ có bán sẵn. Tôi đi một lát là
có ngay thôi.
Bạch Mai nói:
- Đằng nào cũng
phải tiễn chân ngài án sát sứ về phủ, chúng ta cùng trở lại đó chuẩn bị mọi thứ
là ổn nhất.
Án sát sứ nhìn
nàng mỉm cười:
- Trần tiểu thư
chu đáo và khôn khéo lắm.
Bạch Mai bẽn
lẽn:
- Dạ có gì đâu
ạ.
Họ tiễn chân
án sát sứ trở lại phủ rồi cùng nhau đi mua sắm vật dụng. Hồng Liệt không biết đã
tìm đâu ra ba tên ăn mày rồi cùng nhau trở lại nghĩa trang. Ngô Mãnh, Hồng Liệt
và ba tên ăn mày hì hục đào xới dưới ánh nắng gay gắt của mùa hè xứ Quảng, phải
mất hơn hai canh giờ thì cả ba ngôi mộ mới bốc xong. Mười ba năm, thân xác chỉ còn
lại nắm xương tàn. Họ thu nhặt rồi cẩn thận bỏ vào ba cái quan tài nhỏ được đóng
thật khéo giống như ba hộp đựng nữ trang. Bạch Mai đứng ngẩn ngơ nhìn ba hộp cốt,
mắt long lanh ngấn lệ, sụt sùi khôn xiết cảm thương. Nàng rút đoản kiếm viết nhanh
tên của từng người bằng chữ Hán vào mặt chiếc hộp. Nét bút linh hoạt và sắc nét
vô cùng. Họ trở về đến khách sạn thì trời đã chiều muộn. Hồng Liệt hỏi:
- Chúng ta nghỉ
lại đây một đêm nữa rồi mai ra bến Hàn hay sư tỷ muốn đi ngay bây giờ?
Bạch Mai đáp:
- Mọi người cũng
mệt rồi, chúng ta nghỉ ở đây, mai ra bến Hàn cũng được.
Hồng Liệt đưa
cho ba tên ăn mày một số bạc khá nặng, tả lại hình dáng của bọn Dương Tử Tam Kiếm
xong dặn:
- Các em xuống
Hội An, liên lạc với anh em ở đó tìm cho ra dấu vết ba tên này cho anh nhé. Nhớ
chia số tiền này cho bọn họ với, vài hôm nữa anh sẽ vào tìm các em.
Ba tên ăn mày
đồng thanh “dạ” một tiếng, cúi chào ba người rồi chạy mất dạng phía cuối phố. Mọi
người lên phòng tắm rửa, thay y phục xong, Hồng Liệt đề nghị đi dạo cảnh thủ phủ
dinh Quảng Nam ban đêm. Dinh Quảng Nam vốn là ngôi thành cổ của người Chiêm trước
kia, thuộc địa phận xã Cần Húc, huyện Duy Xuyên (nay là thị trấn Vĩnh Điền, huyện
Điện Phước, Quảng Nam). Thành có từ lâu đời lại là thủ phủ hành chánh nên phố xá
san sát, dân cư đông đúc, việc mua bán phát đạt. Dinh lại cách phố Hội An không
xa nên các cửa hàng kinh doanh ở đây bán không thiếu một mặt hàng nào. Dạo chơi
khắp phủ xong, Hồng Liệt đưa mọi người đến một quán ăn bình dân bên bờ sông Bao
Nghĩa, một nhánh nhỏ của sông Kẻ Thế. Người chủ quán lớn tuổi thấy Hồng Liệt bước
vào liền mừng rỡ la lên:
- Kìa, cậu Hồng
Liệt! Bấy lâu nay đi đâu mà không thấy ghé lại đây ăn khoai chà khô vậy? Hai người
bạn của cậu đấy à? Chà, anh bạn trẻ này đúng là mỹ nam tử à nha. Ngồi đi, đãi bạn
gì nào?
Ông ta vừa tuôn
một hơi dài vừa chạy lại dọn nhanh một chiếc bàn cạnh bờ sông cho ba người. Hồng
Liệt cười tươi đáp:
- Chào chú Tám,
hổm rày cháu có chút việc phải vào Quy Nhơn. Cháu muốn giới thiệu với hai người
bạn món khoai lang chà khô đặc biệt của chú nên đưa họ đến đây. Chú làm cho ba phần
nhỏ đi. Thêm một đĩa mít trộn và hai con cá lóc nướng. Cho cháu một chai Hồng Đào
thượng hạng luôn.
Ông Tám chủ quán
cười vui vẻ:
- Được, được.
Để tôi làm đặc biệt cho cậu đãi bạn nhé. Ở xa tới à? Bảo đảm ăn rồi sẽ nhớ xứ Quảng
này mãi mãi.
Hồng Liệt nói
với hai người:
- Tôi vốn là
kẻ nghèo khó nên thường tìm ăn những món thật rẻ tiền thôi. Hai người ăn món khoai
lang chà khô này thử xem. Đặc sản không đâu có ngoài xứ Quảng này đó.
Ngô Mãnh nói:
- Tôi cũng có
nghe danh món ăn này nhưng chưa có dịp thưởng thức.
Bạch Mai tiếp
lời:
- Thật ra đâu
phải sơn hào hải vị mới là món ngon. Đôi khi những món hết sức bình dân nhưng lại
làm cho ta khoái khẩu và nhớ mãi không quên.
Một lúc sau đã
thấy ông chủ quán đem ra ba đĩa khoai lang chà còn nóng hổi, mùi thơm bốc lên nực
mũi. Bạch Mai dùng muỗng múc một miếng, ăn xong nàng gật gù khen:
- Ngon thật!
Vừa thơm vừa bùi lại vừa ngọt. Hương vị thật lạ, đúng là sẽ rất khó quên đấy.
Ngô Mãnh cũng
lên tiếng:
- Đúng là đặc
sản của xứ Quảng.
Lát sau, ông
Tám lại mang ra món mít trộn, cá lóc nướng cùng chai rượu Hồng Đào. Ông hỏi:
- Thế nào? Cậu
công tử đẹp trai này chắc là con nhà giàu có nên chưa bao giờ ăn những món dân dã
thế này phải không? Có ngon miệng không?
Bạch Mai cười
tươi đáp:
- Dạ, thật đúng
là ngon ngoài sự tưởng tượng của cháu. Lần sau có trở lại Quảng Nam thế nào cháu
cũng phải ghé quán của chú Tám để thưởng thức món này.
Ông Tám cười
hề hề:
- Tôi đã nói
mà. Không đâu trên đất nước mình có được món thế này đâu. Nhưng chưa hết, cứ thưởng
thức hai món kia nữa đi. Ăn cá lóc nướng mà uống rượu Hồng Đào xứ Quảng mới thật
là khoái lạc trên đời.
Rồi ông cất giọng
ngâm nga:
Đất Quảng Nam
chưa mưa đã thấm
Rượu Hồng Đào
chưa nhấm đà say.
Bạch Mai bỏ đũa
xuống vỗ tay tán thưởng.
- Chú Tám thật
là lãng mạn! Đâu, để cháu thưởng thức thứ rượu Hồng Đào của chú xem nào.
Hồng Liệt mở
chai rượu rót vào ly cho ba người. Rượu màu hồng trong vắt, tỏa mùi thơm thoang
thoảng dễ chịu. Hồng Liệt nói:
- Sư huynh uống
thử xem nào, có giống Nữ Nhi Hồng của Thiệu Hưng, Trung Quốc hay không?
Bạch Mai hai
má ửng đỏ mỉm cười nói nhỏ:
- Tôi chưa xuất
giá làm sao biết Nữ Nhi Hồng mùi vị thế nào?
Hồng Liệt vội
nói:
- Ô! Đệ đâu có
ý đó. Bộ sư huynh hồi giờ chưa uống thật hay sao? Thật ra Nữ Nhi Hồng cũng dùng
để uống mừng ngày đến tuổi trưởng thành làm lễ cài trâm, chứ đâu phải chỉ mừng riêng
ngày các cô xuất giá không thôi.
- Họ Trần chúng
tôi sang Đại Việt khá lâu, Thượng Công nội bá tổ muốn hòa nhập vào văn hóa Việt
nên đã bỏ đi nhiều tục lệ, thói quen ở quê nhà. Vả lại lúc tôi trưởng thành, cả
họ đang trong cơn nguy biến nên các lễ tiết đó tôi chưa từng trải qua.
Vừa nói, nàng
uống một hớp rượu Hồng Đào rồi khen:
- Ngon, vừa đưa
lên miệng thì mùi thơm của rượu đã làm ta muốn uống liền. Vị rượu ngọt mà nồng,
hương rượu thơm lâu. Nhưng tôi e rằng sẽ rất dễ say đấy. Ngô huynh có đồng ý với
tôi không?
Ngô Mãnh cười:
- Nhận xét rất
đúng, chẳng khác những đấng mày râu sành rượu.
Bạch Mai tủm
tỉm cười:
- Anh định cười
tôi sành uống rượu giống các ông đấy à?
Ngô Mãnh đỏ mặt
vội phân bua:
- Không phải
thế. Tôi vụng nói. Tôi chỉ muốn khen cảm nhận nhạy bén của Bạch huynh mà thôi.
- Tôi chỉ đùa
thôi. Loại rượu này hơi nhẹ, chắc không hợp với khẩu vị của Ngô huynh phải không?
- Ơ, không. Tôi
thấy rất ngon.
Hồng Liệt chen
vào:
- Đừng tưởng
thế mà lầm. Rượu Hồng Đào khi đã thấm thì có là bậc Tửu Thần cũng phải lật đấy.
Họ uống rượu
ngắm trăng lên trên sông và tận hưởng ngọn gió mang hơi nước từ dưới sông thổi vào
mát lạnh, xua tan cái nóng nực khó chịu của một đêm cuối hạ vùng nhiệt đới. Mãi
đến khi mảnh trăng non khuất bóng núi, họ mới về lại khách sạn. Hôm sau, Ngô Mãnh
chia tay hai người lên đường vào lại Quy Nhơn, Hồng Liệt và Bạch Mai về cửa Hàn.
Bạch Mai nóng lòng nhìn mộ cha và sư phụ nên sau khi nói lời cảm ơn và từ biệt với
Ngô Mãnh, nàng ra roi giục con bạch mã phóng nhanh chẳng khác nào cơn gió lốc. Hồng
Liệt vội vẫy tay chào Ngô Mãnh lần cuối rồi cũng phóng ngựa đuổi theo. Ngô Mãnh
ngồi trên lưng con Thanh Tông, ngó theo bóng họ hút trong làn gió bụi mà lòng bỗng
dâng lên một cảm xúc luyến lưu kỳ lạ. Tự dưng chàng buông một tiếng thở dài rồi
quay ngựa, ra roi phóng nhanh về hướng bến sông Thu Bồn.
Từ dinh Quảng
Nam về đến cửa Hàn ước chừng hơn bốn mươi dặm, hai con thiên lý mã chỉ tốn chưa
tới hai canh giờ đã đến nơi. Ngôi mộ nằm cạnh mé rừng, mười mấy năm nay Hồng Liệt
đã tụ tập một số ăn mày cải tạo khu đất ven bìa rừng thành một vùng nương rẫy rộng
lớn trồng đủ mọi thứ, đặc biệt là giống khoai lang xứ Quảng. Hai người dừng ngựa
trước trại rồi nhảy xuống. Bọn trẻ thấy anh cả trở về đều mừng rỡ chạy ra tiếp đón.
Chúng chào Bạch Mai rồi đưa mắt nhìn chăm chú vào chàng trai nhỏ nhắn xinh đẹp này.
Bạch Mai thấy họ cứ nhìn mình chằm chằm thì hai má đỏ ửng lên. Hồng Liệt vội giới
thiệu:
- Giới thiệu
với các em, đây là sư tỷ của chúng ta. Người vừa từ Gia Định ra đây để tìm mộ của
cha và sư phụ. Các em chào sư tỷ đi.
Bọn ăn mày hơi
ngạc nhiên nhưng cũng đồng thanh nói lớn:
- Chúng em xin
chào sư tỷ!
Bạch Mai nở nụ
cười chào lại rồi đưa tay gỡ chiếc khăn cột trên đầu ra. Mái tóc đen tuyền lại được
dịp buông xuống trên khuôn mặt kiều diễm. Bọn trẻ không hẹn mà cùng nhau trầm trồ:
- Sư tỷ đẹp quá!
Bọn mình đã có một vị sư tỷ xinh đẹp nhất trên thế gian này.
Bạch Mai nhìn
bọn chúng cười đáp lễ:
- Sư tỷ chào
các em. Tất cả khỏe không? Từ nay chúng ta là chị em nhé?
Bọn nhỏ mừng
rỡ đồng thanh reo lên:
- Từ nay chúng
ta là chị em!
Bọn chúng là
những đứa trẻ ăn mày mồ côi, có cả trai lẫn gái, được Hồng Liệt đem về đây sống
cùng, chúng coi nhau như anh em một nhà, đứa lớn nhất chừng mười bảy tuổi, đứa nhỏ
nhất mới lên mười. Cả trại có hai mươi đứa, mười lăm trai và năm gái, căn cứ vào
tuổi mà xếp thứ tự anh chị em. Hồng Liệt nói:
- Chúng ta vào
trong trại nói chuyện để sư tỷ ngồi nghỉ chân một lát chứ?
Trại có ba gian, mái tranh vách lá. Gian
ở giữa làm nơi tụ họp chung, cũng là nơi ăn uống, luyện võ. Phía sau có căn phòng
nhỏ dành cho anh cả Hồng Liệt. Gian bên phải lớn hơn chia ra nhiều phòng dành cho
bọn con trai, gian bên trái nhỏ hơn dành cho con gái. Bọn con gái ngồi vây quanh
Bạch Mai. Hiền Nhi, cô bé lớn nhất bọn năm nay gần mười bảy tuổi, cầm tay Bạch Mai
thân mật hỏi:
- Sư tỷ từ trong Gia Định ra à? Chị đi một mình à? Chị không sợ sao? Chị gan thật!
Bạch Mai vuốt
tóc mấy đứa trẻ rồi đáp:
- Chị theo thuyền
buôn ra đây để tìm mộ cha và sư phụ. Xong việc chị phải trở về Đại Phố Châu, đáng
tiếc chị không thể ở lại với mấy em được.
Một đứa trong bọn nói:
- Thật là tiếc! Bọn em ước gì chị ở lại luôn
thì sướng biết mấy.
Bạch Mai nhìn nó cười:
- Chị phải về nhà. Nhưng thỉnh thoảng chị
sẽ ra thăm các em.
Cả bọn đồng thanh nói:
- Chị hứa đó nhé! Chị phải ra thăm tụi em
đấy!
Bạch Mai gật đầu:
- Chị hứa!
Con bé nhỏ nhất khoảng mười tuổi, da trắng
trẻo dễ thương, đưa ngón út của nó ra nói:
- Chị móc ngoéo với Bạch Nhi đi!
Bạch Mai kéo nó vào lòng rồi cũng đưa ngón
út ra ngoéo tay.
- Móc ngoéo. Chị nhất định sẽ ra thăm Bạch
Nhi và các em!
Hồng Liệt khi đem bọn trẻ mồ côi về, đứa
nào có họ tên thì giữ nguyên, những đứa không biết họ của mình thì lấy họ của sư
phụ là Công Tôn rồi con trai, con gái gì cũng thêm chữ Nhi vào cuối. Vì vậy năm
đứa con gái có tên là Hiền Nhi, Thảo Nhi, Hồng Nhi, Loan Nhi và Bạch Nhi. Bọn con
trai thì là Việt Nhi, Hùng Nhi... chỉ khác nhau chữ lót. Nhưng bọn nhỏ lại thích
gọi nhau bằng ngôi thứ. Hiền Nhi lớn nhất trong bọn nên chúng gọi là chị hai, đứa
nhỏ nhất là Bạch Nhi thì được gọi là Út. Việt Nhi, đứa con trai lớn nhất bằng tuổi
Hiền Nhi nhưng nhỏ tháng hơn gọi là anh ba. Chúng sống hòa thuận và thương yêu nhau
như anh em ruột một nhà.
Lúc đầu, khi Hồng Liệt mới gặp Công Tôn Vũ,
vì ông sợ bị quan quân truy bắt về tội giết người nên không cho Hồng Liệt tiết lộ
hành tung của mình. Do đó Hồng Liệt đành một thân một mình tìm cách nuôi sư phụ.
Năm năm sau, thấy mọi việc đã êm xuôi, Hồng Liệt võ công đã thạo, có thể đi cướp
của nhà giàu chia cho bọn ăn mày, Công Tôn Vũ mới an lòng để Hồng Liệt dẫn bọn trẻ
mồ côi về nuôi. Hiền Nhi và Việt Nhi là hai đứa trẻ được đưa về ở đây sớm nhất,
lúc đó bọn chúng mới có chín, mười tuổi. Bốn năm sau đó thì trại đã có đến hai mươi
đứa trẻ mồ côi như bây giờ. Bọn trẻ ban ngày lo việc canh tác khu rẫy, đêm về thì
học chữ và luyện võ. Công Tôn Vũ vốn là người văn võ song toàn, nay lâm cảnh mù
lòa may có đám trẻ nhỏ quây quần nên cũng vơi bớt phần nào sự phiền muộn. Ông đem
hết sở học của mình truyền lại cho Hồng Liệt và đám trẻ. Bốn năm trước, ông bắt
đầu lâm trọng bệnh, Hồng Liệt đã cố gắng tìm mọi phương thuốc chạy chữa nhưng không
hiệu quả gì. Cuối cùng ông mất trong tiếng khóc than thảm thiết của đám đệ tử bé
con. Mộ của ông được Hồng Liệt chôn cạnh bên ngôi mộ của Trần Đại Thành. Bạch Mai
sau một lúc hàn huyên với bọn trẻ liền đứng lên nói:
- Chị phải ra thăm mộ của cha và sư phụ.
Chúng ta cùng đi nhé?