Én Liệng Truông Mây - Hồi 06 - Phần 3

Bọn trẻ đồng
loạt đứng lên theo sau anh cả và người sư tỷ mới. Mặc dù biết cha mình đã mất mười
ba năm trước nhưng khi đứng bên mộ, Bạch Mai vẫn không thể nào dằn được cơn xúc
động. Nàng òa khóc rồi quị xuống, phục lên mộ cha nức nở. Bọn trẻ cũng đồng loạt
quì theo nàng, có đứa cũng nức nở theo. Hiền Nhi và Việt Nhi lo bày hương án trước
hai ngôi mộ để sư tỷ làm lễ tế mộ.

Bạch Mai ôm mộ
cha khóc hồi lâu rồi đứng lên bước đến mộ của sư phụ, quì xuống mà nức nở thêm lần
nữa. Lần này cả đám trẻ cùng khóc theo. Lúc còn sống, Công Tôn Vũ dạy dỗ và thương
yêu bọn chúng hết mực, do đó mỗi lần đến ngày giỗ của ông, bọn chúng đều quì trước
mộ khóc than. Hôm nay, tiếng khóc của người sư tỷ đã khơi dậy mối thương tâm trong
lòng khiến chúng không kiềm được nước mắt. Hồng Liệt để cho bọn họ nguôi cơn rồi
mới lên tiếng:

- Sư tỷ hãy bớt
nỗi đau thương. Người chết là hết. Giờ sư tỷ đã tìm được mộ người, đó không phải
là điều vui mừng sao? Các em cũng nín đi.

Bọn trẻ nghe
Hồng Liệt nói, cả bọn quệt nước mắt, thôi nức nở. Hiền Nhi bước đến đỡ Bạch Mai
đứng lên:

- Sư tỷ đừng
buồn nữa. Chúng ta lễ bái rồi về trại nghỉ, trời nắng nóng quá coi chừng sẽ bệnh
đó. Chiều tối chúng ta sẽ trở lại thắp hương lần nữa.

Bạch Mai sụt
sùi lạy trước hai ngôi mộ xong cả bọn kéo nhau trở về trại. Đám trẻ chia nhau phận
sự, chỉ lát sau trong phòng lớn đã bày lên một bữa ăn thịnh soạn gồm đủ các món
rau quả trồng trong trại và nhiều loại cá chúng bắt ở sông Hàn. Bọn con gái xúm
nhau săn sóc sư tỷ khiến Bạch Mai vui lắm. Nàng bỗng thấy thương bọn trẻ mồ côi
này vô cùng, nàng ước gì mình có thể ở lại trại để sống chung với bọn chúng. Bữa
cơm nhà quê nhưng ngon miệng. Bọn trẻ cứ cố ép nàng ăn khiến nàng phải buột miệng
mắng yêu:

- Các em ép chị
ăn nhiều thế này, vài bữa là chị sẽ mập ú lên đó.

Bé Út bỗng reo lên:

- Sư tỷ sợ mập ra rồi xấu đi bị anh cả chê
phải không? Nhưng mà bọn em không chê sư tỷ đâu.

Bạch Mai đỏ mặt liếc sang Hồng Liệt. Hồng
Liệt cũng bối rối nạt ngang:

- Út có im đi không! Từ nay không được ăn
nói bậy bạ nữa.

Bé Út nghe la, nó rụt cổ lại thè lưỡi ra
làm bộ sợ hãi khiến Bạch Mai phải phì cười. Sống giữa cái gia đình khổng lồ của
lũ trẻ mồ côi nheo nhóc này làm nàng thấy thật hạnh phúc. Tảng sáng hôm sau, Bạch
Mai hỏi Hồng Liệt:

- Trại mình có ngựa không?

Hồng Liệt đáp:

- Có năm con. Bọn trẻ đứa nào cũng phải tập
cưỡi ngựa cả. Sư tỷ định làm gì?

- Hôm nay, tôi sẽ cùng Hiền Nhi đi mua sắm
một ít vật dụng cho lũ trẻ. Trước khi bốc mộ cũng nên làm một bàn cúng lớn cho cha
và sư phụ. Có chợ nào lớn quanh khu vực này không?

Hiền Nhi có mặt ở đó đáp thay:

- Có hai chợ lớn ở đây. Chợ Hải Châu hay
còn gọi là chợ Hàn ở gần đây chừng ba dặm, còn chợ Cẩm Lệ ở ngã ba sông lớn thì
xa hơn, độ mười hai dặm nhưng nhiều hàng hóa hơn.

Bạch Mai nói:

- Hai chị em mình cứ đi hết hai chợ xem có
những gì.

Hai chị em lấy ngựa đi ngược bờ sông để đến
chợ Hàn trước. Bạch Mai quan sát thấy Hiền Nhi là một cô gái có khuôn mặt vừa xinh
đẹp vừa phúc hậu, còn tính tình thì hiền ngoan, lại thương yêu, chăm sóc mấy đứa
nhỏ trong trại như em ruột của nàng vậy. Bạch Mai nhìn nàng khen:

- Em đẹp lắm Hiền Nhi, lại rất ngoan nữa.
Mai này chàng trai nào có phước lắm mới lấy được em. À, các em có lẽ chỉ quanh quẩn
trong khu trại, ít ra bên ngoài phải không?

Hiền Nhi nghe khen hổ thẹn cúi đầu:

- Chị đừng nhạo em. Chị mới thật là đẹp như
tiên nga. Bọn em ít ra ngoài lắm, chỉ khi nào phải mua những vật dụng cần thiết
thì em hay Việt Nhi mới có dịp đi ra chợ, còn thì bọn em chỉ sinh hoạt trong trại
mà thôi.

- Em là người
Đàng Ngoài à? Nghe
giọng không giống trong này.

Hai mắt Hiền Nhi bỗng đỏ hoe, nàng mở đầu
câu trả lời bằng một tiếng “dạ” cố hữu. Có lẽ cuộc sống ăn mày ngay từ lúc còn nhỏ
đã tạo cho nàng một mặc cảm tự ti, mà cũng có thể vì nàng là một cô gái rất thuần
phác:

- Dạ. Gia đình em chạy trốn từ Nghệ An vào
đây, được hai năm thì bố mẹ em bị bệnh qua đời, lúc đó em chỉ mới bảy tuổi.

- Rồi anh cả đưa em về đây?

- Dạ, lúc ấy em là đứa bé ăn mày ở chợ Cẩm
Lệ. Đa số bọn em đều là những đứa trẻ theo gia đình từ Đàng Ngoài chạy vào Nam.

- Trại chỉ trồng những loại thực phẩm đủ
để nuôi sống các em, rồi tiền bạc đâu mà các em chi dùng?

- Dạ, tất cả đều do anh cả lo liệu. Mấy năm
sau này, anh cả thường đi ăn trộm của mấy nhà giàu có hoặc của bọn tham quan rồi
đem chia cho người nghèo và những người ăn mày khắp nơi. Mỗi lần như vậy, anh cả
thường để dành lại một ít mang về giao cho em giữ để chi dùng trong trại. Dù vậy,
anh cả vẫn luôn dặn dò chúng em phải sống thật tiết kiệm vì ngoài kia còn rất nhiều
người đói khổ không có miếng ăn.

Bạch Mai thở dài:

- Lúc ở trong Nam chị cứ thắc mắc tại sao
lại có nhiều người di tản từ ngoài này vào trong đó lập nghiệp. Giờ ra ngoài này
chị mới thấy ở đây đất đai chật hẹp lại cằn cỗi nữa làm sao có đủ lương thực cung
cấp, hèn chi mới nghèo đói như vậy. Em biết không, trong miền Nam đồng ruộng mênh
mông, đất đai bạt ngàn lại rất màu mỡ nhưng không có người canh tác. Để chị xem,
có lẽ chị sẽ đề nghị với anh cả đưa bọn em vào trong Nam sinh sống. Ở trong đó,
bọn em sẽ khỏi phải lo cái ăn, cái mặc. Này, em không cần phải mỗi câu mỗi dạ với
chị như vậy đâu.

- Dạ, cảm ơn chị. Có lẽ em đã quen miệng
rồi. Nhưng bọn em đâu có thể bỏ anh cả ở lại một mình được.

- Thì chị sẽ đề nghị anh cả đi luôn.

- Chúng ta bỏ
khu trại này à?

- Giao lại cho ai đó. Vào Nam mình xây dựng
lại trang trại khác lớn hơn, sung túc hơn, em lo gì.

- Nhưng em vẫn thấy không đành xa nơi này.

- Đó là bản tính cố hữu của người dân Việt.
Ở đâu thì chỉ muốn ở yên đó dù đói khổ thế nào. Nhưng bố mẹ em cũng đã chẳng bỏ
quê tìm vào đây còn gì? Phải có tinh thần khai phá mới tiến lên được em ạ.

- Nhưng bọn em ở đây cũng đâu có đói khổ
gì.

- Đó là nhờ anh cả đi ăn trộm của người khác
đem về nuôi các em. Tuy việc ăn trộm của cải của bọn tham quan trọc phú chia nhà
nghèo là một hành động cũng không phải xấu, nhưng các em định để anh cả phải làm
ăn trộm suốt đời sao?

Hiền Nhi ngẫm nghĩ một lúc rồi đáp:

- Em không biết. Mọi việc do anh cả quyết
định.

Bạch Mai đổi đề tài câu chuyện:

- Hiền Nhi biết may vá không?

- Dạ biết. Quần áo mấy em trong trại đều
do em và Thảo Nhi may cả đấy.

- Giỏi lắm! Hôm nay chúng ta sẽ mua thật
nhiều vải để may cho các em mỗi đứa vài ba bộ.

Xế chiều hai chị em trở về với rất nhiều
vải vóc và những vật dụng cần thiết cho sinh hoạt của bọn trẻ hàng ngày. Mấy đứa
nhỏ từ lâu sống trong nghèo khó, hôm nay được sư tỷ mua cho đủ thứ đồ, đứa nào cũng
mừng rỡ cảm ơn sư tỷ rối rít. Bạch Mai nhìn những khuôn mặt rạng rỡ niềm vui đó
chợt thấy ấm lòng. Nàng bỗng cảm thấy mình cần phải có trách nhiệm lo cho những
đứa trẻ côi cút này. Nàng bàn với Hồng Liệt:

- Tôi định ngày mai làm một bữa cúng lớn
rồi bốc mộ của gia phụ và...

Hồng Liệt nói ngay:

- Sư phụ mới mất, thân xác còn nguyên, cứ
để người nằm ở đây. Đệ muốn chăm sóc phần mộ cho người.

- Như vậy cũng được. Anh có cùng vào Giản
Phố Châu với tôi không?

- Theo dự tính của bọn đệ là như vậy.

- Đúng rồi, anh nên vào trong đó xem qua
tình hình. Đất đai miền Nam bao la, bát ngát, còn bỏ hoang nhiều lắm vì không có
người khai thác. Số điền sản của Thượng Công tổ phụ nhà tôi sau khi bá mẫu và anh
Đại Lực bỏ về Hà Tiên để lại rất nhiều, anh em chúng tôi không quản lý được hết.
Tôi có ý định mang lũ trẻ này vào trong đó để cho chúng có thể kiến cơ lập nghiệp,
phát triển bản thân chúng sau này.

- Đem một lũ trẻ nít vào nơi xứ lạ để mưu
sinh không phải là chuyện đơn giản đâu. Sư tỷ cứ nhìn xem, bọn đệ phải mất gần mười
năm trời mới có được chút thành tựu cỏn con thế này đó.

- Nhưng điều kiện ở trong đó dễ dàng hơn
ngoài này nhiều lắm. Đất đai có sẵn, việc kinh doanh của anh em tôi cũng đang cần
thêm nhân sự, mang bọn trẻ vào, mất chút thời gian đầu để tổ chức chúng vào lại
nề nếp thôi. Mọi việc sau này sẽ tốt đẹp về lâu về dài hơn cho cả hai bên.

- Thôi được, để đệ vào trong ấy xem thử thế
nào rồi hẵng quyết định.

Sáng sớm hôm sau, Bạch Mai cùng Hiền Nhi
lại đi chợ mua sắm đồ cúng trước khi làm lễ bốc mộ cho cha. Nàng muốn nhân dịp này
đãi bọn trẻ một bữa ăn thịnh soạn nên đã mua rất nhiều hoa quả và thịt cá đủ loại.
Lúc họ vừa ra đến đường lớn để trở về thì bỗng thấy một con Ô Truy chở một chàng
trai đang từ phía xa phóng nhanh đến. Hiền Nhi nhìn thấy chàng trai liền mừng rỡ
reo lên:

- Kìa anh hai, anh đến thăm bọn em hả? Sư
tỷ, đây là anh hai của bọn em. Anh Trương Văn Hiến, anh cả thường gọi là đồ gàn
đấy. Ơ, hai người biết nhau à?

Bạch Mai mỉm cười:

- Chị và Trương huynh có gặp nhau ở Phù Ly
rồi.

Hiền Nhi nhoẻn miệng:

- Ra là thế!

Văn Hiến vui vẻ hỏi:

- Em thế nào Hiền Nhi? Đã đọc hết cuốn sách
anh đưa lần trước chưa?

Hiền Nhi gật đầu:

- Đã mấy tháng rồi mà. Em đọc có hơn trăm
lần rồi đó, muốn rách cả gáy sách luôn. Cuốn ấy em thuộc lòng cả rồi, lần này không
biết anh hai có mang cuốn gì cho em không?

- Có, lát nữa về anh đưa cho. Hai người đi
mua đồ cúng à? Đã tìm ra được mộ của Định Sách hầu chưa, Bạch tiểu thư?

Bạch Mai đáp:

- Tìm được rồi. Đã bốc xong mộ của ba người.
Hôm nay, tôi tính trước khi bốc mộ gia phụ sẽ làm một mâm cúng lớn cho người và
sư phụ.

- Xin chúc mừng Bạch tiểu thư. Trời quả là
không phụ lòng người. Ngô Mãnh cũng ở đây chứ?

- Cảm ơn Trương huynh. Xong việc, Ngô huynh
đã trở vào Quy Nhơn rồi. Tôi thật tình không biết phải cảm ơn các huynh bằng cách
nào đây?

- Bạch tiểu thư không nên bận tâm đến những
chuyện ấy. Rồi sẽ có ngày chúng tôi nhờ đến sự giúp đỡ của tiểu thư thôi mà.

Họ về đến trại, tất cả bọn trẻ đều chạy ra
mừng đón anh hai trở lại thăm. Do Văn Hiến mới quen với Hồng Liệt sau này, lại thỉnh
thoảng ghé thăm nên bọn trẻ gọi Văn Hiến là anh hai, vị thứ sau anh cả. Còn với
Hiền Nhi, chúng vẫn giữ nguyên cách gọi cũ là chị hai do đã quen từ lâu. Mỗi lần
ghé thăm, Văn Hiến thường mang theo những sách vở cũ của mình đến để cho bọn trẻ
lấy đó mà học thêm cái chữ.

Đến trưa, mọi thứ dưới sự hướng dẫn của Bạch
Mai đã được chuẩn bị xong. Bọn trẻ mang thức ăn ra mộ bày biện. Quì lạy trước mộ
cha và sư phụ, Bạch Mai một lần nữa động mối thương tâm mà khóc òa. Bọn trẻ quì
phía sau cũng sụt sịt khóc theo. Cúng xong, trong khi mấy đứa nhỏ đem đồ cúng vào
thì những đứa lớn hơn lo việc bốc mộ. Nàng đem cốt cha đựng trong chiếc hòm nhỏ
rồi khắc tên lên nắp hòm. Bữa cúng hôm đó thực là bữa ăn thịnh soạn nhất trong đời
của hai mươi đứa trẻ. Chúng vừa ăn ngấu nghiến vừa nức nở khen ngon và cảm ơn sư
tỷ không ngớt lời. Nhìn tình cảnh này, nàng chợt thấy nghèn nghẹn rồi rưng rưng
nước mắt. Bé Út ngồi kế bên nàng hỏi:

- Sao chị không ăn đi? Đồ ăn ngon quá chừng!

Nàng vuốt tóc nó:

- Út ăn đi. Chị thích nhìn các em ăn hơn.

Nó quay sang Hồng Liệt phụng phịu:

- Anh cả nói sư tỷ ăn đi!

Hồng Liệt mỉm cười:

- Út lo ăn đi. Sư tỷ cũng ăn đi cho bọn chúng
vui.

Bạch Mai đưa tay nhéo má bé Út:

- Thôi được, chị ăn đây!

Buổi tối, trong lúc mọi người đang coi lũ
nhỏ tập bài kiếm Bạch Mai truyền dạy, Văn Hiến một mình ngồi ngắm trăng ở khu vườn
sau trại. Mỗi lần đến thăm nơi này, chàng lại nhớ đến những ngày tháng tuổi thơ
long đong cơ cực của mình ở quê nhà. Đó là một ngôi làng nhỏ tên Dũng Quyết ven
bờ sông Lam, cách không xa cửa Hội ở tận ngoài Nghệ An. Thân phụ chàng là một nhà
nho lỡ vận về quê làm một ông đồ nghèo gõ đầu trẻ. Thân mẫu chàng là một phụ nữ
chân chất miền quê, quanh năm bận bịu công việc đồng áng. Năm chàng tám tuổi, dịch
bệnh lan tràn, mẹ chàng không may mắc bệnh qua đời. Sau đó cả Đàng Ngoài lâm cảnh
nghèo đói và loạn lạc dưới sự cai trị xa xỉ và vô đạo của hai chúa Trịnh Cương,
Trịnh Doanh. Dân trong vùng nghèo không có tiền đi học, cha chàng đã quyết định
bỏ làng chạy vào Phong Điền nương nhờ người anh chú bác là cha của quan nội hữu
Trương Văn Hạnh bây giờ. Được người anh giúp cho một mảnh đất khá lớn bên bờ sông
Bồ, cha chàng dựng một ngôi nhà nhỏ làm nơi trú thân và tiếp tục mở lớp dạy học.
Chàng hàng ngày ngoài việc học thì chỉ biết lặn hụp trên dòng sông Bồ bắt cá phụ
vào bữa ăn. Hai năm sau, cha chàng lại không may lâm bệnh nặng qua đời. Chàng trở
thành đứa trẻ mồ côi.

Duyên may đưa đẩy, chàng gặp được một vị
“Phong trần nho hiệp tứ hải vân du” khi ông có dịp ghé chùa Hà Trung ở hạ bạn sông
Hương. Ông nhận chàng làm học trò và dạy võ cho. Thấy chàng có căn cơ và trí tuệ,
ông đã ở lại Phú Xuân bảy năm để dạy đủ thập bát ban võ nghệ cho chàng. Sau ông
rời Phú Xuân, tiếp tục vân du đến nay đã gần tám năm mà chàng vẫn chưa có cơ may
gặp lại. Từ khi sư phụ ra đi, chàng nối nghiệp cha mở lớp dạy học trò độ nhật. Tài
nghệ của chàng không lâu đã được mọi người ở Phong Điền biết đến. Họ tự đưa tên
tuổi của chàng vào nhóm Phong Điền Tam Hữu, cũng nhờ vậy mà chàng gặp Trần Đại Bằng
và Trần Kim Hùng rồi kết làm huynh đệ chi giao. Thỉnh thoảng chàng lại đóng cửa
lớp học để ngao du thiên hạ và tình cờ quen với Đinh Hồng Liệt. Từ đó, thỉnh thoảng
chàng mang sách vào dạy cho bọn trẻ ở đây.

Văn Hiến đang ngồi ngắm trăng hồi tưởng chuyện
xưa thì Hiền Nhi từ trong trại bước ra, đến ngồi cạnh chàng.

- Anh hai đang nhớ lại chuyện xưa phải không?

Văn Hiến quay sang nhìn nàng mỉm cười:

- Sao Hiền Nhi biết?

- Thì lần nào ghé thăm bọn em, anh cũng đều
tâm sự chuyện lúc anh còn nhỏ ở quê nhà mà. Chuyện anh lang thang ở miền đất mới
Phú Xuân ấy.

- Ừ, nhìn các em, nghĩ lại cuộc đời của anh
lúc nhỏ, anh càng thấy thương bọn em hơn. Anh không ngờ gặp được em, là người cùng
làng với mình. Em có thấy là thế gian này thật bé nhỏ không?

- Vâng. Em thật vui mừng biết bao khi chúng
ta là người cùng quê. Người ta nói tha hương ngộ cố tri thật là đúng. Em bây giờ
như đang sống trong một gia đình chung, có anh em, có người cùng quê quán. Em thấy
mình đúng là người vô cùng hạnh phúc.

Văn Hiến chợt nhận ra Hiền Nhi sau một thời
gian ngắn không gặp nay đã trưởng thành lên rất nhiều. Dưới ánh trăng trông khuôn
mặt nàng thật xinh đẹp và phúc hậu. Nghe Hiền Nhi nói, chàng đồng cảm với niềm hạnh
phúc của nàng. Một cô bé mồ côi ăn mày ngoài chợ bây giờ được sống với gần hai mươi
đứa em ngoan ngoãn cùng người anh cả tốt bụng, hỏi sao nàng không vui sướng, dù
đó chỉ là niềm hạnh phúc thật đơn sơ và khiêm tốn. Chàng hỏi:

- Đọc tập thơ anh đưa lần trước, em thích
bài nào nhất?

- Em thích nhất bài “Thu Dạ Hoài Cảm” của
Chu Thục Chân. Hoàn cảnh của người thiếu nữ ấy thật đáng thương. Một người tài hoa
như thế lại bị cha ép gả cho một gã lái buôn đến uất ức mà chết. Thế gian sao có
lắm chuyện thương tâm nghịch ý người!

- Lần này anh mang cuốn Đại Học đến, em học
rồi dạy cho bọn nhỏ nhé.

- Tứ thư là sách khó, không biết em có tự
học nổi một mình không đây?

- Em thông minh như vậy chắc không vấn đề
gì. Nhưng anh sẽ ghé thăm bọn em thường xuyên hơn, chỗ nào không hiểu anh sẽ hướng
dẫn cho.

Lúc ấy Hồng Liệt và Bạch Mai từ trong trại
bước ra. Hồng Liệt hỏi:

- Tên đồ gàn lần này mang sách gì đến mà
khó như vậy?

Hiền Nhi mỉm cười:

- Anh hai bắt em phải học sách Đại Học rồi
dạy lại cho mấy em. Anh cả coi, chắc cái đầu của em sẽ vỡ ra mất.

Bạch Mai nói:

- Chị tin là em sẽ làm được. Đừng lo.

- Cảm ơn chị. Thôi thì em phải ráng nặn óc
mình ra vậy.

Hồng Liệt nhìn Văn Hiến hỏi:

- Sư tỷ định đem bọn trẻ vào Gia Định để
bọn chúng có tương lai hơn, đồ gàn ngươi nghĩ sao?

Văn Hiến đáp:

- Được như vậy thì tốt quá còn gì. Gia Định
là miền đất trù phú nhưng lại thiếu người khai thác. Trần gia hẳn là ruộng đất có
thừa, phải không Bạch tiểu thư?

- Vâng. Những tài sản của Trần Thượng Công
để lại nhiều lắm mà anh em muội lại ít người, còn phải lo việc buôn bán của Thần
Quyền Môn nữa nên không trông coi được hết. Các em vào đó sẽ giúp được bọn muội
nhiều điều lắm.

Hồng Liệt nhìn Hiền Nhi hỏi:

- Em nghĩ thế nào Hiền Nhi?

- Dạ, em thật sự quyến luyến không nỡ rời
xa nơi này nhưng mọi việc tùy nơi anh cả quyết định.

Nàng nói xong kín đáo liếc nhìn sang Văn
Hiến. Ánh mắt đó như nói lên rằng nàng còn quyến luyến cả chàng nữa. Hồng Liệt nói:

- Thôi cứ để bọn anh vào xem tình hình trong
đó thế nào đã rồi hẵng quyết định sau.

Hiền Nhi lặng lẽ thở ra nhẹ nhõm:

- Dạ. Khi nào anh cả và sư tỷ khởi hành?

- Mai bọn anh vào Hội An rồi từ đó đi Gia
Định luôn. Em và Việt Nhi ở nhà chăm sóc các em nhé.

Hiền Nhi ngạc nhiên hỏi:

- Ủa! Anh hai cũng đi Gia Định à?

Văn Hiến đáp:

- Bọn anh có tí việc cần phải làm ở trong
đó.

Hiền Nhi cố nén tiếng thở dài:

- Các anh phải chóng về nhé. Đường xa lắm
phải không chị? Mọi người phải cẩn thận.

Bạch Mai mỉm cười:

- Em an tâm. Người ta đi ra đi vào Gia Định
như đi chợ vậy. Không có gì đâu.

Trưa hôm sau ba người từ giã bọn trẻ để đi
Hội An. Bọn trẻ đứa nào cũng nước mắt ngắn dài luyến lưu người sư tỷ xinh đẹp như
tiên này. Bé Út mếu máo:

- Sư tỷ đi rồi chừng nào trở ra đây thăm
bọn em?

Bạch Mai lau nước mắt cho con bé rồi hôn
má nó:

- Chị hứa sẽ ra thăm Út thường xuyên. Đừng
khóc nữa. Út khóc, chị sẽ khóc theo đó.

Con bé quẹt nước mắt, sụt sịt:

- Chị nhớ lời hứa đó.

- Nhớ, chị nhất định sẽ nhớ.

Rồi nàng kéo tay Hiền Nhi trao cho một số
vàng dặn:

- Em chăm sóc mấy đứa cho chị. Đừng bắt bọn
trẻ tiết kiệm quá. Thỉnh thoảng chị sẽ mang tiền ra cho các em.

Hiền Nhi lau nước mắt:

- Em biết rồi. Em thay mặt các em cảm ơn
chị.

- Không cần cảm ơn. Chăm sóc cho bọn trẻ
nên người là được rồi. Chị thế nào cũng sẽ tìm cách đưa các em vào Nam.

Hồng Liệt dặn bọn trẻ:

- Anh có việc phải vào Nam một thời gian
khá lâu. Hiền Nhi, Thảo Nhi và Việt Nhi ở nhà phải chăm sóc các em chu đáo. Còn
các em phải nghe lời chị hai và anh ba biết chưa?

Bọn trẻ dạ ran. Việt Nhi hỏi:

- Anh cả định đi bao lâu?

- Chưa biết được. Có thể hai, ba tháng gì
đó. Ở nhà nhớ nhắc các em luyện tập, đừng lơ là.

- Dạ, em nhớ.

Bé Út kéo tay Hồng Liệt:

- Anh cả lúc trở về nhớ dắt sư tỷ về theo
nhé. Không Út sẽ giận anh cả đó.

- Ừ... Thôi bọn anh đi.

- Tạm biệt!

Hai con Bạch mã và con Ô Truy chầm chậm rời
trang trại. Hiền Nhi dõi mắt nhìn theo lẩm bẩm một mình:

- Anh cả và sư tỷ thật xứng đôi. Cầu cho
trời tác hợp hai người.

Rồi không biết nghĩ gì, nàng bỗng buông tiếng thở
dài.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3