Bộ sưu tập tội ác - Chương 51 + 52

 

Chương 51
Albert Trent và Roger Seagraves gặp nhau tại văn phòng của Trent tại điện Capitol. Seagraves đưa cho Trent một tập tin và tóm tắt hướng dẫn, sau đó Trent sẽ sao y tập tin và lưu vào hệ thống nhận dữ liệu của tổ chức. Kèm theo tập tin gốc là những bí mật quan trọng về việc Lầu Năm Góc miêu tả chi tiết những chiến thuật quân sự của Mỹ tại Afghanistan, I-rắc và Iran. Trent tiếp tục dùng một hệ thống giải mã theo thỏa thuận để lấy những thông tin từ những trang cần thiết. Xem như việc giao dịch đã xong, và Seagraves lên tiếng, “Anh có rảnh không?”
Họ tản bộ qua vài khoảng sân rộng ở điện Capitol, “Này anh có vẻ may mắn với vụ Behan nhỉ, gã nào đó lại thế mạng cho anh”, Trent lên tiếng.
“Albert, anh nhớ dùm tôi điều này: chẳng có gì tôi làm có liên quan đến vận may cả, tôi thấy cơ hội và chớp thời cơ thôi”.
“Được rồi, được rồi, tôi không cố ý xúc phạm anh. Thế còn bản án thì sao?”
“Cũng không chắc lắm, tôi không biết tại sao hắn ở đó, nhưng rõ ràng hắn đang theo dõi nhà Behan, hắn lại là đồng bọn của tên Caleb Shaw tại phòng đọc, hơn hết là gã Oliver Stone, tôi từng tóm được và “hỏi thăm” lại cùng chung với nhóm này”.
“Shaw là người quản lý bộ sưu tập của DeHaven, đó là lý do hắn có thể vào nhà được”.
Seagraves khinh khỉnh nhìn tay đồng nghiệp, “Tôi thừa biết điều đó, Albert. Thậm chí tôi còn chạm mặt Shaw trong trường hợp tôi cần ra tay lúc cần thiết. Bọn chúng không chỉ nghĩ đến sách vở đâu, nhất là cái gã tôi từng tra hỏi, cũng có thời gian làm ở CIA, năng lực đặc biệt đấy”.
Trent thốt lên, “Anh chẳng bảo cho tôi biết điều đó”.
“Anh không cần biết điều đó, Albert, giờ thì lại cần”.
“Sao lại là bây giờ”.
“Bởi vì tôi muốn thế”, Seagraves hướng mắt về phía tòa nhà Jefferson, nơi có phòng đọc của dòng sách hiếm. “Những gã này cũng do thám Công ty Cứu hỏa. Nhân viên của tôi ở đó bảo rằng vết sơn trên một trong số xilanh khí bị chùi đi, như vậy rất có khả năng chúng biết về khí cacbon rồi đấy”.
Trent tái mặt, “Sự việc có chiều hướng xấu đi nhỉ”.
“Đừng quá lo sợ, tôi đã có kế hoạch, tôi luôn như thế, chúng ta đã nhận được khoản thanh toán cuối. Bao lâu anh có thể chuyển thông tin mới đi?”
Hắn kiểm tra đồng hồ, “Ngày mai là sớm nhất, nhưng hơi khó khăn đây”.
“Phải làm được”.
“Roger này, liệu chúng ta có nên dừng việc này lại một ít lâu”.
“Chúng ta có nhiều khách hàng để chăm sóc lắm, làm vậy không tốt cho việc giao dịch đâu”.
“Đi tù vì tội bán nước cũng đâu hay ho gì”.
“Anh Albert ạ, tôi không vào tù đâu”.
“Anh làm sao biết chắc điều đó chứ”.
“Có chứ, đâu ai để xác chết ở tù bao giờ”.
“Rồi, vậy chúng ta sẽ quyết định không chọn cách đó, nhưng có lẽ nên nới sự việc ra một chút, đợi lắng dịu ít lâu”.
“Làm gì có chuyện việc sẽ lắng dịu khi mới nóng lên hả anh. Chúng ta cứ giữ nguyên những gì chúng ta đang làm, và giống như tôi nói, tôi có kế hoạch mà”.
“Có thể cho tôi biết được không?”
Seagraves phớt lờ câu hỏi, “Tối nay tôi lại nhận hàng đấy, có thể đạt đến con số mười triệu nếu tôi không lầm, nhưng nhớ cảnh giác nhé, nếu có chuyện gì xảy ra, anh biết tìm tôi ở đâu rồi đấy”.
“Thế anh có nghĩ anh sắp ra tay giết người nữa không?”
“Một phần trong tôi tin chắc điều đó”, rồi hắn bước đi.
Tối hôm đó, Seagraves lái xe đến trung tâm Kennedy để tham dự một buổi biểu diễn của dàn nhạc giao hưởng Quốc gia. Tọa lạc trên bờ sông Potomac, với khối kiến trúc không cầu kỳ, trung tâm Kennedy được xem là một trong những đài tưởng niệm có ý nghĩa nhất của vị tổng thống quá cố. Seagraves không quan tâm đến lối kiến trúc thẩm mỹ của nó, cũng chẳng quan tâm dàn nhạc. Vẻ điển trai và thân hình lý tưởng của hắn, ngược lại, đã thu hút nhiều ánh mắt của phụ nữ khi hắn đi ngang, và hướng về phía khán phòng nơi chỉ chốc lát nữa thôi dàn nhạc sẽ bắt đầu. Hắn chẳng quan tâm chuyện đó, tối nay là một tối công việc.
Lúc sau, thời gian nghỉ giải lao, Seagraves cùng một số người tham dự ra phía ngoài trung tâm để làm vài ly và tham khảo vài bảng chiến tích đang được bày bán, hắn cũng tranh thủ dùng nhà vệ sinh. Sau đó, đèn bắt đầu mờ đi, báo hiệu phần cuối của chương trình sắp bắt đầu. Hắn vội quay trở lại nhà hát trong dòng người chen chúc.
Một giờ sau, hắn lại ngồi ở quầy rượu của một quán bar mở khuya đối diện trung tâm Kennedy. Hắn kéo tờ chương trình ra khỏi túi bên sườn và bắt đầu xem xét. Đó không phải là tờ chương trình của hắn, chính xác là có kẻ đã bỏ vào túi hắn giữa lúc đám đông xô đẩy nhau quay vào nhà hát. Chẳng ai thấy điều đó cả, những tay điệp viên càng né đám đông càng dễ bị tóm. Cũng vì lý do đó, Seagraves luôn biết cách sử dụng đám đông để làm công cụ che chắn hữu hiệu nhất.
Trở về nhà, ngồi trong văn phòng, hắn lại mày mò những bí mật từ “chương trình”, định dạng lại cho đúng để gửi lại cho Trent khi hắn gặp tên này lần tới. Hắn mỉm cười hài lòng, vì những gì hắn đang nắm trong tay là những thông tin cuối cùng hắn cần để làm khóa giải mã cho những vụ ngoại giao cao cấp của liên bang gửi đến những văn phòng ở nước ngoài. Hắn cho rằng mười triệu đôla vẫn còn quá rẻ, có thể là hai mươi, và cuối cùng hắn quyết định con số hai mươi lăm sẽ là khởi đầu. Hắn bắt đầu việc thương lượng trên một số trang nói chuyện trực tuyến đã cài sẵn. Thông tin mật chỉ được chuyển đi khi số tiền đã được chuyển vào tài khoản của hắn. Hắn biết cách phòng thân trong việc không quá tin tưởng vào ai khi mình giao dịch cùng, tuy vậy, hắn cũng thành thật với bản thân khi biết cách giữ vững hiệu quả công việc ở thị trường tự do. Nếu hắn lấy tiền mà không giao hàng cũng là lúc hắn bị sa thải, mà cũng có khi là chết.
Thứ duy nhất đang cản trở kế hoạch là sự xuất hiện của vài lão già, rình mò người khác. Nếu chỉ có tên thủ thư thôi, thì cũng không nhằm nhò gì. Nhưng trong đám hỗn tạp đó, có ‘666’, một tên đáng gờm. Seagraves cảm nhận được cơn bão ngầm, cũng vì lý do đó, khi hắn bắt cóc và tra tấn Stone, hắn đã lấy đi một cái áo sơ mi từ nhà ông ấy, để thêm vào bộ sưu tập lúc cần.
Chương 52
Stone và Milton cùng đến câu lạc bộ Federalist1 lúc 10 giờ sáng hôm sau. Họ nói lý do đến và được dẫn vào văn phòng người quản lý. Ông ta nhìn và nhìn có vẻ rất chuyên nghiệp vào thẻ căn cước mới cứng mà mới tối hôm trước Milton vừa in ra.
“Vậy hai anh là nhân viên do gia đình Bradley từ Kansas thuê để điều tra về vụ án mạng à? Nhưng ở đây cũng có cảnh sát đang đảm trách mà, còn FBI nữa. Mọi người tập trung về đây, rất nhiều lần”, giọng ông ta có vẻ bực bội.
“Gia đình muốn có đại diện riêng, ông cũng hiểu rồi đó”, Stone trả lời. Ông và Milton trong trang phục áo sơ mi, quần tây đen, thắt ca-vát chỉnh tề. Mái tóc dài của Milton được dấu gọn dưới một chiếc mũ mềm vì ông không chịu cắt ngắn, “Gia đình họ cảm thấy cuộc điều tra chưa đến đâu cả”.
“Rõ ràng đám cảnh sát chưa bắt ai thật, tôi không có lý do nào để biện hộ cả”.
Stone nhấn mạnh, “Ông có thể gọi cho họ để xác định thêm danh tính của chúng tôi, nhưng hiện tại bà Bradley đang ở nước ngoài, cho nên ông có thể gọi thẳng cho luật sư của bà ấy ở Maryland”. Trên tấm danh thiếp là số điện thoại của Milton, trước đó, ông đã lưu lại lời chào tương tự như ở văn phòng luật sư trong trường hợp tay quản lý gọi kiểm tra.
“Không cần đâu. Thế hai anh muốn biết điều gì?”
“Sao ngài Bradley lại có mặt ở đây vào tối hôm đó?”
“Cuộc ăn mừng cá nhân vì ông ta được bầu làm Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng đấy”.
“Tôi hiểu. Ai tổ chức?”
“Tôi nghĩ là nhân viên của ông ta”.
“Có ai đặc biệt không?”
“Tôi không nhớ rõ, chúng tôi nhận đơn đặt tiệc bằng fax cho nên có thể bữa tiệc là một sự ngạc nhiên cho ông ấy”.
“Ông ta bị giết ngay trong phòng sinh hoạt chung phía trước à?”
“Chúng tôi gọi đó là phòng James Madison, anh cũng biết về cái gọi ‘Luận cương Liên bang’ rồi đó, nếu muốn tôi có thể dẫn các anh đến xem”.
Ông ta dẫn họ đến căn phòng rộng ngay gần mặt đường chính, Stone nhìn về hướng cửa sổ của một tầng lầu phía trên tòa nhà đối diện, với con mắt nhà nghề của mình, với đường đạn đi như vậy thể hiện trình độ tình báo không chỉ cao cấp mà còn là bản lĩnh khác người của tên bắn tỉa.
Ông hỏi tiếp, “Sao ông ta lại vào đây?”
Tay quản lý đang lau vội lớp bụi khỏi mặt lò sưởi cẩm thạch, và phàn nàn, “Chỉ để chúc mừng ông ta thôi”. Rồi ông ta rùng mình, “Thật kinh khủng làm sao, thượng nghị sỹ Pierce vừa kết thúc bài nói thì tới ngài Bradley bị bắn, cảnh tượng thật khiếp đảm, máu me khắp nơi. Chúng tôi xem như mất toi một cái thảm Ba Tư đắt tiền, máu còn bắn cả vào trong gỗ, cho dù muốn làm sạch cũng tốn bộn tiền. Cảnh sát mới vừa cho chúng tôi dọn dẹp đấy. Chúng tôi cũng chẳng được che lại vì sợ làm sai lạc bằng chứng. Thế là ai đến đây cũng có cơ hội chiêm ngưỡng và thật tình là người đến đăng ký làm thành viên ngày càng giảm”.
Milton thắc mắc, “Ai đang làm chủ tòa nhà đối diện nhỉ?”
“Tôi chẳng biết, có thể chính quyền vẫn đang điều tra. Trước đây là nhà riêng, rồi làm phòng tranh, nó tồn tại ở đó cả năm năm rồi, đúng là ngứa con mắt nhưng làm gì được bây giờ? Tôi cũng nghe tin đồn rằng nó sắp được cải tạo lại để thành khu nhà ở. Có điều họ vẫn chưa bắt đầu”.
“Vậy là mọi người mời ngài Bradley vào để nâng ly chúc mừng à?”, Stone hỏi tiếp.
Tay quản lý suy nghĩ một lúc, “Lúc đó ở đây nhiều người lắm, nên tôi cũng không chắc. Tôi đâu có tham dự phần tiệc tùng đó. Tôi đang đứng ngay cửa sổ thì viên đạn bay tới. Tôi còn nhớ cảm giác nó rít bên tai, nhớ lại còn cảm thấy sợ bao nhiêu ngày sau”.
“Hẳn rồi, có điều là còn ai có thể cho chúng tôi biết thêm chuyện không?”
“Chắc một trong số người phục vụ, và tay pha chế chứng kiến vào sự kiện đó. Họ cũng có thể ở đây nếu các anh cần”.
Tay pha chế không biết gì cả, nhưng người phục vụ tên Tom tiết lộ, “Một trong số những nhân viên của ông ta đã kêu gọi mọi người cùng nâng ly. Đó là những gì tôi nhớ lại. Tôi giúp gọi mọi người tụ tập ở đây, rồi họ đi tìm ông đại biểu Bradley”.
“Anh có nhớ người nhân viên đó là ai không?”
“Không ạ, có nhiều người ở đó, tôi cũng chẳng nhớ ra liệu ông ta có nói tên là gì không nữa”.
“Vậy đó là người đàn ông à?”, Tom gật đầu, ngay lập tức Stone chìa ra mấy tấm hình nhân viên của Bradley. “Anh có nhận ra đó là ai trong số những tấm hình này? Người này ư?”, ông chỉ tay vào hình của Dennis Warren. “Đây là trưởng ban cho nên có lý lắm vì ông ta đã tụ họp mọi người ở đây”.
“Không phải ông ta”.
“Hay người này?”, Stone vẫn kiên nhẫn, chỉ tay vào hình của Albert Trent, “Ông ta cũng là nhân viên cao cấp đấy”.
“Vẫn không phải”. Người phục vụ liếc nhìn mấy tấm hình từ trên xuống dưới và dừng lại, “Đó là người này, tôi nhớ rồi, chính xác là ông ta”.
Stone nhìn chăm chăm vào tấm hình của Micheal Avery, người phục vụ trong tổ chức tình báo của Bradley.
Khi ra khỏi câu lạc bộ Federalist, Milton thắc mắc, “Bây giờ mình phải làm gì đây?”
“Nói chuyện với vài tay phụng sự cho ngài Bradley”.
“Chứ không phải Avery sao? Để cho hắn biết”.
“Không đâu, chỉ nói chuyện với Trent hay Warren thôi”.
“Nhưng chúng ta đâu có thể nói với họ chúng ta điều tra cái chết của ông Bradley theo yêu cầu của gia đình, họ thừa biết chúng ta nói dối”.
“Chúng ta sẽ nói sự thật”.
“Sao cơ?”
“Rằng chúng ta đang điều tra cái chết của Jonathan DeHaven”.
Dennis Warren đang ở nhà riêng khi Stone gọi, sau khi đã kiểm tra danh tính của ông trên danh bạ, ông ta đồng ý gặp họ. Cũng qua điện thoại ông ta bảo rằng ông ta có biết về cái chết của DeHaven, có điều ông ta chẳng biết người này, thậm chí ông ta còn thổ lộ rằng, “Tôi còn không có thẻ thư viện nữa là, đáng xấu hổ làm sao”.
Milton và Stone bắt xe điện ngầm để đến thành phố Falls Church, bang Virginia, nơi gia đình Warren đang ở. Đó là một căn nhà khá giản dị trong một vùng dân cư không sôi động gì mấy. Rõ ràng rằng Warren không thuộc tuýp người tháo vát hay là thích ngoài trời vì mảnh sân nhà ông ta đầy cỏ dại, còn căn nhà cần phải sơn sửa lại gấp.
Tuy vậy, trái với vẻ ngoài xập xệ, không khí bên trong căn nhà lại ấm cúng và tiện nghi, và cho dù Warren đã khẳng định rằng mình không có thẻ thư viện nào, sách lại chất đầy kệ. Ngoài ra, trong nhà là hàng tá đôi giày thể thao, áo đồng phục của trường học và đồ đạc của một cậu thanh thiếu niên nào đấy tiết lộ vai trò làm cha của Warren.
Warren là một người cao lớn, bệ vệ với mái tóc nâu sẫm và khuôn mặt rỗ, to bè. Nước da tái nhàn nhạt của ông ta càng nhấn mạnh thêm cho những năm tận tụy làm việc cho quốc gia dưới ánh đèn huỳnh quang. Ông ta dẫn họ đi theo hành lang đến phòng khách.
“Đừng để ý đến sự bừa bãi ở đây nhé”, Warren phân bua, “Làm cha của ba đứa con trai tuổi từ mười bốn đến mười tám đồng nghĩa với việc gia đình và cuộc sống không còn là của riêng mình nữa. Tôi có thể dễ dàng đứng giữa một cuộc họp, hào hứng thuyết trình về những chiến lược tình báo thuộc lĩnh vực chính trị phức tạp nhất cho tổng tham mưu trưởng hay bộ trưởng bộ quốc phòng, nhưng tôi thật không thể buộc lũ con tôi đi tắm đúng giờ hay ăn gì khác hơn ngoài món bánh mì pho-mát”.
“Tôi biết ông từng tham gia vào làm nhân viên tình báo”, Stone đi thẳng vào đề.
“Đúng vậy, tôi đã theo chân ngài Bradley khi ông ta làm Chủ tịch Hạ viện Nhà Trắng. Hiện tại, tôi thất nghiệp”.
“Bởi vì ông ấy qua đời à?”, Milton thắc mắc.
Warren gật đầu, “Tôi thích làm việc với ông ấy, và thích phục vụ cho ông ấy. Ông ấy là một người vĩ đại, một người thật cần thiết cho thời đại này với tính cách bộc trực, thẳng thắn và chân thật”.
“Ông không thể ở lại vị trí tình báo?”
“Không có sự lựa chọn. Vì ngài Bradley muốn tôi đi theo, nên tôi phải đi, mà tôi cũng muốn đi nữa. Chỉ có một Chủ tịch Hạ viện và cũng chỉ có một trưởng ban mà thôi. Công việc liên tục và người ta phải trả lời điện thoại của anh, thêm vào đó, tay Chủ tịch của Ủy ban Tình báo cũng có nhân viên riêng của hắn, và hắn cũng muốn tiến lên nữa. Đó là cách người ta đấu đá nhau ở điện Capitol. Anh gắn liền với phe cánh của anh, và khi phe cánh đó tan rã anh phải ở nhà. Cũng may vợ tôi là luật sư nếu không chúng tôi cũng gặp rắc rối về tài chính trong thời gian này mất. Thật ra tôi cũng đang dần hồi phục sau cú sốc về những chuyện xảy ra và cũng chưa tìm việc mới”. Ông ta ngưng lại rồi nhìn họ, “Nhưng các anh bảo các anh đang điều tra cái chết của DeHaven mà? Liệu có liên quan gì đến ngài Bradley chứ?”
“Có thể có mà cũng có thể không”, Stone mơ hồ, “Ông có biết về vụ án mạng của Cornelius Behan không?”
“Ai mà lại không biết, chắc bà vợ bối rối lắm nhỉ?”
“Vâng, nhà DeHaven sát bên nhà Behan, và tên sát thủ lợi dụng nó để thực hiện mưu sát”.
“Chết tiệt, tôi không biết chuyện này và vẫn chưa hiểu chuyện liên quan ở đây lắm”. Stone thừa nhận, “Tôi đang cố gắng kết nối sự kiện, vậy ông có mặt tại câu lạc bộ Federalist tối đó không?”
Warren chậm rãi gật đầu, “Bữa tiệc là nhằm để chúc tụng, và cuối cùng biến thành thảm họa”.
“Ông có nhìn thấy những gì xảy ra?”, Milton hỏi thêm.
“Tôi xem đó là vận đen, vì tôi đang đứng gần Mike, Mike Avery, thượng nghị sỹ Pierce vừa nâng ly chúc mừng thì bùm..., tiếng nổ vang lên từ đâu đó. Chuyện xảy ra thình lình đến nỗi, tôi vừa chỉ mới kề ly lên môi thì giật mình làm đổ hết ra ngoài. Thật kinh khủng, tôi cảm thấy chóng mặt và ai ở đó cũng thế cả”.
“Ông biết rõ Avery chứ?”
“Hẳn rồi, chúng tôi làm việc như hình và bóng cùng nhau trong mười năm mà”.
“Bây giờ ông ta ở đâu?”
“Cùng tôi chuyển đi khi ngài Bradley làm Chủ tịch Hạ viện. Giờ anh ta cũng thất nghiệp”. “Chúng tôi nghe kể rằng ông ta là người đã lên kế hoạch cho bữa tiệc tại Câu lạc bộ cũng như nâng cốc chúc mừng”.
“Không phải, cả Mike và tôi cùng lái xe đến đó, chúng tôi chỉ là khách mời trong danh sách mà thôi”.
“Chúng tôi được nghe kể lại rằng ông ta tụ họp mọi người vào chung phòng để nâng ly chúc mừng”.
“Tôi cũng thế, chúng tôi chỉ giúp việc thôi”.
“Ông giúp ai?”
“Albert, Albert Trent. Anh ta là người đã nghĩ ra việc nâng cốc chúc mừng này. Albert luôn bày trò như thế, tôi làm gì có đủ tài lẻ như anh ta”.
“Albert Trent à? Nhưng có phải anh ta là người tổ chức không?”
“Không rõ. Nhưng bữa đó thấy anh ta cũng tháo vát lắm”.
“Thế giờ anh ta có thất nghiệp không?”
“Không đâu, Albert ở lại Ủy ban Tình báo”.
“Nhưng tôi nhớ ông bảo các ông đi theo ngài đại biểu Quốc hội mà?”
“Thường là vậy, nhưng Albert không muốn đi, ngài Bradley chẳng hài lòng về điều này tí nào. Albert đã mò ra vài cách thỏa thuận với tay Chủ tịch mới, anh ta luôn biết cách giữ cho mình là người quan trọng. Công việc tại văn phòng của Chủ tịch Hạ viện cực kỳ nhiều, và không có Albert, chúng tôi cũng lúng túng. Tôi chẳng phải phóng đại sự việc lên làm gì, vì ai mà chẳng biết điều đó”.
“Thế còn ngài Bradley không có ý kiến gì sao?”
Warren mỉm cười, “Anh không hiểu rõ về ngài Bradley đâu, ông ta là người trang nhã, lịch thiệp, chân thật, chăm chỉ, nhưng rõ ràng để đạt vị trí của mình, ông ta đã phải trải qua nhiều năm rèn luyện và thử thách. Thật ra ngài không muốn có một tay cấp dưới như vậy. Mà chẳng sớm thì muộn, Albert cũng tự động quay về với chúng tôi thôi”.
“Nhưng cái chết của ông Bradley đã thay đổi điều đó nhỉ?”
“Dĩ nhiên là thế, tôi và Mike cố gắng hành động đúng, và chúng tôi thất nghiệp, trong khi Albert bất tuân mệnh lệnh và giờ thì ghế của anh ta vẫn vững vàng. Tôi còn đỡ, Mike phải nuôi bốn đứa con và bà vợ ở nhà. Trent thì vẫn độc thân. Điều đó thật trớ trêu”.
Sau khi họ ra về, Milton nhận xét, “Tôi có thể hiểu được rằng những gì chúng ta cần là từ tay Albert Trent này”.
Stone tán thành, “Mọi thứ”.
“Rõ ràng động cơ giết người khá rõ, tôi tự hỏi sao đám cảnh sát không mò ra nhỉ. Warren cũng không nghi ngờ gì”.
“Động cơ gì?”
“Oliver à, rõ ràng quá rồi. Nếu Bradley còn sống, Trent phải rời Ủy ban Tình báo, nếu ông ta chết, Trent ở yên đó”.
“Vậy là anh nghĩ hắn giết Chủ tịch Hạ viện để tránh việc đổi chỗ làm à? Mà cũng đâu phải là người cướp cò, vì lúc đó hắn có mặt ở đó. Vậy là hắn phải thuê một tay sát thủ. Hành động này có vẻ hơi quá tay, và mạo hiểm đối với một vị trí trung cấp của hắn hiện tại. Rõ ràng mà nói, chức vụ tại văn phòng Chủ tịch Hạ viện cao quý hơn biết bao nhiêu”.
“Vậy là còn gì thêm sau đó”.
“Đúng thế. Có điều chúng ta không biết đó là gì lúc này”.
Trong nhà của Dennis Warren, ông ta nhấc máy và quay số cho người bạn, người đồng nghiệp cũ Mike Avery. Rồi sau đó là số điện thoại thứ hai.
“Albert à? Dennis đây. Xin lỗi vì làm phiền giờ làm việc của anh, nhưng có vài gã xuất hiện và hỏi vài câu kỳ lạ lắm. Tôi cũng vừa gọi cho Mike rồi, chủ yếu báo cho anh ta biết và chuẩn bị thôi. Chắc cũng chẳng có gì, nhưng tôi nghĩ tôi nên gọi cho anh”.
Trent trả lời, “Tôi cảm ơn vì điều đó. Họ muốn biết chính xác điều gì?”
Warren thuật lại cuộc gặp mặt rồi nói thêm, “Tôi có kể cho họ biết rằng anh đứng ra tổ chức vụ nâng ly chúc mừng cho Bob, và cả việc anh ở lại Ủy ban Tình báo”.
“Họ nhìn ra sao?”
Warren miêu tả Stone và Milton, “Anh có biết họ không?”
“Không, cũng lạ nhỉ”.
“Thì đó, đó cũng là lý do tôi báo anh biết, hy vọng tôi chẳng nói gì sai”.
“Tôi đâu có gì mà phải giấu”, Trent phản ứng.
“À, Albert, nếu có vị trí nào thiếu trong ủy ban, báo tôi biết nhé. Ở nhà lâu cũng ngán quá rồi”.
“Chắc rồi, cám ơn vì đã báo nhé”.
Albert lập tức rời văn phòng và gọi một cuộc điện thoại công cộng, hẹn gặp Seagraves ngoài điện Capitol sau đó.
Gặp Seagraves, hắn ta nói ngay, “Chúng ta có rắc rối”.
Seagraves nghe chuyện và nhận xét, “Hành động kế tiếp của chúng thế nào thì cũng rõ rồi”.
“Anh lo liệu nhé?”
“Lúc nào chẳng vậy”.
Chú thích
1.Federalist: Người theo chủ nghĩa liên bang.