Bộ sưu tập tội ác - Chương 67 + 68 ( Hết )

Chương 67

Stone dẫn những người bạn của mình đi vòng qua một góc đường rồi đi xuống con đường dọc theo những dãy nhà dẫn ra ngõ hẻm đối diện nhà của Chambers. Stone dừng lại giữa khu phố và ra hiệu cho mọi người ở yên đó trong khi ông nhìn vào thứ gì đấy phía trên tòa nhà họ đang đứng trước mặt.
“Ôi Chúa tôi”, Caleb nhìn quanh quất và nhận ra mình đang ở đâu. “Tôi không nhận ra nó vào ban ngày”.
“Caleb, bấm chuông đi”, Stone hướng dẫn.
Caleb làm theo và nghe giọng trầm cất lên, “Vâng, ai đó?”
Stone thúc giục Caleb, “Là tôi đây, ông Pearl, Caleb Shaw. Tôi, ơ, tôi muốn nói chuyện với ông về cuốn Thánh ca”.
“Tôi không mở cửa. Giờ mở cửa được viết trên biển”.
“Chuyện rất khẩn cấp. Xin ông, sẽ không mất nhiều thời gian lắm đâu”.
Một khoảng thời gian im lặng khá dài rồi họ nghe tiếng cửa bật mở. Caleb kéo cửa mở và tất cả cùng vào trong. Vincent Pearl xuất hiện ngay sau đó, ông ta không mặc áo choàng dài nữa mà vận quần tây đen, áo sơ mi trắng và mang cái tạp dề màu xanh lá cây. Ông ta có vẻ ngạc nhiên khi thấy những người khác đi cùng với Caleb và giận dữ nói, “Lúc này tôi rất bận anh Shaw à. Tôi không thể bỏ dở công việc đơn giản chỉ vì anh xuất hiện không báo trước như thế này”.
Stone tiến lên phía trước, “Alber Trent đâu, thưa ông? Ở phòng sau chăng?”
Pearl há hốc mồm nhìn ông, “Xin lỗi, ông nói ai?”
Stone đẩy Pearl qua một bên, đá vào cửa phòng sau và bước vào, “Hay ở trên tầng?”
“Các anh đang làm cái quái gì vậy?”. Pearl hét lên, “Tôi sẽ gọi cảnh sát”.
Stone lách người qua Pearl để đến bên thang xoắn và ra hiệu cho Reuben theo sau mình. “Coi chừng, Foxworth có thể đi chung với hắn ta đó”. Cặp đôi biến mất ở đầu cầu thang, một phút sau những người còn lại nghe tiếng la hét và vật lộn. Rồi tiếng động ngừng đột ngột, Stone và Reuben đi xuống cầu thang với Albert Trent đang bị trói chặt.
Họ quăng hắn vào ghế và Reuben đứng ngay bên cạnh. Tên nhân viên của Ủy ban Tình báo bị đánh tơi tả, nhưng Reuben vẫn gào lên, “Cho tôi một lý do nào đó để tôi bẻ gãy cổ thằng này đi”.
Stone quay lại đối diện với Pearl, kẻ cũng giống như Trent, đã mất đi sự điềm tĩnh vốn có.
“Tôi không biết các anh đang làm gì ở đây”, Pearl vừa nói vừa nhấc cái tạp dề lên vai. “Cậu này là bạn tôi, và tôi mời cậu ta đến đây”.
“Tên Chambers ở đâu?”. Caleb buộc miệng hỏi, “Gã ấy cũng đến vì được ông mời đúng không?”
“Ai cơ chứ?”, Pearl hỏi lại.
Caleb giận điên người, “Monty Chambers”.
“Hắn ở ngay đây Caleb à”, Stone nói. Ông với tay giật mạnh bộ râu của Pearl. Còn tay kia Stone nắm lấy đống tóc rối bù, nhưng Pearl đã ngăn ông lại.
“Xin hãy để tôi tự làm”. Ông ta từ từ tháo bộ râu giả rồi đến bộ tóc giả để lộ ra cái đầu hói bóng loáng.
Stone nói, “Để che giấu tung tích thật sự của mình, đừng để lược và dầu gội đầu trong phòng tắm. Người hói thì đâu cần những thứ đó cơ chứ”.
Pearl ngồi xuống nặng nề rồi sờ tay vào bộ tóc giả. “Tôi giặt râu và tóc mỗi ngày rồi chải ra để đỡ rối. Đau lắm chứ, nhưng các ông đã thấy rồi. Phần lớn cuộc đời là nỗi đau”.
Caleb vẫn nhìn chằm chằm vào Vincent Pearl, người hóa ra lại là Monty Chambers.
“Tôi không tin nổi, tôi chưa bao giờ thấy hai người là một”.
“Lớp hóa trang rất hiệu quả, Caleb”, Stone nói. “Tóc và râu, hai loại kính khác nhau, thêm cân nặng, mặc quần áo khác nhau. Tất cả những cái kể trên sẽ trở thành một con người khác hoàn toàn. Vì công việc mà anh gặp riêng Pearl trong cửa hàng này cũng chỉ có hai lần. Và chỉ vào ban đêm nên mới dễ lầm, chứ ban ngày thì ông ta không lừa được hay đến thế đâu”.
Caleb gật đầu, “Và trong thư viện ông ta nói rất ít. Khi ông ta cất tiếng thì giọng cao và nghe the thé. Vậy vai nào có trước”, ông tra hỏi, “Vincent Pearl hay là Monty Chambers?”
Pearl mỉm cười lý nhí, “Monty Chamber là tên thật của tôi, còn Vincent Pearl chỉ là tên giả”.
“Sao không dùng một cái thôi?”, Stone hỏi.
Lúc đầu Chambers miễn cưỡng trả lời câu hỏi, nhưng cuối cùng ông ta nhún vai và nói, “Tôi nghĩ giờ cũng không còn gì quan trọng nữa. Tôi từng là diễn viên. Tôi thích hóa trang thời còn trẻ. Tôi thích mặc quần áo phục trang đóng vai. Nhưng tài năng của tôi không có cơ hội để tỏa sáng như các ông thấy đấy. Tôi có niềm đam mê khác là sách. Hồi xưa tôi học nghề với một người bảo quản sách tuyệt vời và đã được truyền nghề. Sau đó tôi được tuyển vào làm trong thư viện và bắt đầu một công việc tốt. Nhưng tôi cũng muốn sưu tập sách nữa mà thu nhập từ công việc ở thư viện đâu có đủ để sưu tầm. Tuy nhiên với vốn kiến thức và kinh nghiệm của mình nên tôi trở thành người môi giới sách quý. Nhưng ai sẽ đi làm ăn với một kẻ bảo quản sách khiêm tốn ở thư viện? Dĩ nhiên là bọn nhà giàu không làm rồi, mà tôi thì lại nhắm đến đối tượng đó. Tôi tạo ra một nhân vật có khí chất để theo đuổi mục tiêu đó: Vincent Pearl, rất kịch, bí ẩn và không thể sai lầm”.
“Nên cái cửa hàng sách chỉ mở vào ban đêm để vẫn làm được công việc ban ngày”, Stone nói thêm.
“Tôi mua cửa hàng sách này bởi vì nó đối diện với nhà tôi. Tôi có thể hóa trang rồi bước ra cửa, và sang cửa hàng sách, tôi trở thành một người khác. Công việc trôi chảy, theo năm tháng thì tiếng tăm môi giới của tôi ngày càng vang xa”.
“Sao ông lại từ người môi giới thành gián điệp hả?”, Caleb hỏi, giọng ông run rẩy, “Sao ông lại từ một người bảo quản sách biến thành kẻ giết người hả?”
Trent cất tiếng, “Đừng nói gì hết! Chúng nó không có chứng cứ gì đâu”.
“Chúng tôi có mã số”, Milton nói.
“Không, chúng mày không có”, Trent cười mỉa. “Nếu chúng mày có thì chúng mày đã đi báo cảnh sát rồi”.
“E, w, h, f, w, s, p, j, e, m, r, t, i, z. Có muốn tôi đọc tiếp nữa không?”, Milton lịch sự hỏi.
Tất cả lặng người nhìn Milton.
Caleb nói, “Milton, sao anh không nói với chúng tôi từ trước?”
“Tôi không nghĩ nó quan trọng bởi vì chúng ta đâu có chứng cứ trong cuốn sách. Nhưng tôi đã thuộc lòng những chữ cái được tô dạ quang trước khi màu mực bay mất. Mà một khi tôi đã thuộc lòng cái gì rồi tôi sẽ không quên được”. Ông giải thích cố ý cho tên Trent nghe. “Dù sao đi nữa, vì tình cờ tôi nhớ hết tất cả các chữ cái, nên những người có trách nhiệm điều tra có thể tìm cách giải mật mã một khi tôi báo cho họ biết”.
Chambers nhìn Trent và nhún vai, “Cha của Albert và tôi là bạn, ý tôi là bạn của Monty Chambers ấy. Khi ông ấy mất, tôi trở thành cha đỡ đầu của Albert, hay ít nhất cũng là thầy của cậu ấy. Chuyện này xảy ra nhiều năm rồi. Albert trở về Washington để học cho xong, rồi gia nhập CIA. Cậu ấy và tôi đã nói chuyện về thế giới gián điệp nhiều năm rồi. Cho tới khi cậu ta chuyển lên làm việc ở điện Capitol, chúng tôi lại càng bàn bạc nhiều hơn. Lần này tôi tiết lộ bí mật cho cậu ta hay, nhưng cậu ta không thích sách cho lắm. Một khiếm khuyết về tính cách mà không may tôi chưa bao giờ nghĩ đến”.
“Gián điệp hả?”, Stone nhắc.
Trent hét vào mặt Chambers, “Đồ già ngu ngốc, câm miệng đi”.
“Rồi, đến giờ ngủ rồi, em bé ạ”. Reuben đấm vào hàm tên Trent làm hắn bất tỉnh. Ông đứng thẳng người lại và khuyến khích kẻ môi giới sách, “Ông kể tiếp đi”.
Chambers nhìn tên Trent nằm bất tỉnh, “Vâng, tôi tự hỏi mình có phải là một lão già ngu ngốc hay không. Mưa dầm thấm lâu, Albert cho tôi biết tiền kiếm được như thế nào khi bán những bí mật mà cậu ta gọi là rất nhỏ đó. Cậu ta giải thích cho tôi nghe rằng không phải làm gián điệp mà chỉ giống như tiến trình làm ăn bình thường vậy thôi. Cậu ta nói ở địa vị nhân viên của ủy ban, cậu ấy đã gặp một người đàn ông có mối quan hệ với các cơ quan tình báo và người này rất hứng thú muốn làm ăn với Trent. Giờ mới phát hiện ra người đàn ông đó quá nguy hiểm, nhưng Albert nói nhiều người cũng đã bán bí mật quốc gia rồi, cả hai phía. Người ta chỉ trông đợi như thế ”.
“Và ông đã tin à?”, Stone hỏi.
“Một phần trong tôi không muốn. Phần còn lại thì thúc giục bởi vì sưu tập sách là một đam mê rất tốn kém và phải có sẵn tiền trong tay. Giờ tôi mới rõ là mình đã sai rồi, nhưng trước kia tôi chẳng thấy nó tệ đến thế ”.
“Ông có kỹ năng bảo quản sách quý; ông chuyên về việc đó nên được phép ra vào thư viện”, Caleb nói.
“Vâng. Tôi và Albert là bạn cũ, vì thế không có ai nghi ngờ việc cậu ta đem sách đến cho tôi, thì suy cho cùng là ngành nghề của tôi mà. Phía trong quyển sách, vài chữ cái được đánh dấu chấm nhỏ xíu. Cậu ta đưa những chữ cái mã hóa để tôi cho vào quyển sách dùng hóa chất đặc biệt. Với những cuốn sách in trước năm 1500, tôi thật sự rất thích những chữ cái được đánh dấu mà người nghệ nhân đã sáng tạo suốt chiều dài của bản in. Đối với tôi, chúng như là những bức tranh nhỏ xíu hàng trăm năm tuổi và với sự bảo quản đúng cách chúng vẫn có thể rực rỡ như lúc mới được in ra. Bằng cách riêng của mình, tôi đã thử nghiệm với nhiều vật liệu như thế qua nhiều năm chỉ vì sở thích thôi. Giờ đâu còn thị trường nào chuộng loại sách đó nữa. Thật ra không khó tạo hóa chất như thế để người đọc phải dùng loại tròng kính đúng mới nhìn ra, mà loại kính này cũng do tôi chế luôn. Cùng với sách cũ, tôi rất thích hóa chất và cường độ ánh sáng. Vì thế tôi thích làm công việc ở thư viện”. Ông ta ngưng lại. “À, mà ít ra tôi đã từng làm như vậy, vì bây giờ nghề của tôi coi như xong rồi”. Ông ta thở nặng nhọc, “Phía bên kia thì Albert và người của cậu ta sắp xếp người đến phòng đọc với những chiếc kính đặc biệt. Tôi biết họ đến rất thường xuyên, không phải lúc chỉ đến khi có tin mã hóa - để tránh gây nghi ngờ”.
“Những ông già bà già đến phòng đọc sách sẽ làm ta không mảy may nghi ngờ”, Stone nói thêm, “Họ có thể đem bí mật cho vào những con chữ không hợp thời nữa để đưa ra nước ngoài mà ngay cả NSA với siêu vi tính và vệ tinh cũng không thể nào biết. Đúng là một kế hoạch hoàn hảo”.
“Tôi sẽ nói với Albert rằng quyển nào sẵn sàng để đưa vào phòng đọc, và cậu ta sẽ để lại lời nhắn ở trang web nào đó trên mạng internet cho họ - khi nào vào và hỏi mượn cuốn nào. Tôi sẽ đưa sách vào buổi sáng hôm mà họ đến. Tôi có vô vàn bản sách cần phải sửa chữa nên có thể tự do đi lại trong phòng đọc sách, không có vấn đề gì. Họ vào, chép những chữ được tô dạ quang ra, rồi đi về. Vài giờ sau, hóa chất tự biến mất chẳng có một chứng cứ nào còn sót lại”.
“Và các ông được trả tiền công hậu hĩnh, với số tiền chuyển khoản vào tài khoản ở ngân hàng nước ngoài”, Annabelle nói.
“Đại loại như thế ”, lão thừa nhận.
“Nhưng ông đã nói rằng Vincent Pearl là một thành công lớn, sao ông không dành toàn thời gian cho nghề môi giới?” Stone hỏi.
“Tôi nói tôi yêu thích công việc ở thư viện. Tôi cũng cảm thấy vui khi lừa được mọi người. Có lẽ tôi thích làm người giỏi nhất ở cả hai thế giới”.
Caleb lên tiếng, “Gián điệp là đủ tệ lắm rồi, nhưng ông lại còn liên quan đến giết người. Bob Bradley, Cornelius Behan, Norman Janklow, có lẽ là Jewell English? Và Jonathan? Ông đã giết Jonathan”.
“Tôi không giết bất cứ ai trong số họ cả”, Chambers phản đối gay gắt. Lão chỉ vào Trent, “Hắn ta làm, hắn và những người làm ăn chung”.
“Ông Foxworth”, Stone nói chậm rãi.
“Nhưng tại sao lại là Jonathan?”, Caleb cay đắng hỏi, “Tại sao lại là ông ấy?”
Chambers chà xát hai tay với nhau lo lắng, ông ta bất ngờ đến phòng bảo quản sách sau giờ làm việc vào một đêm nọ và thấy tôi thêm dấu hiệu vào một cuốn sách. Tôi chỉ đang quét hóa chất lên các trang sách. Tôi cố gắng hướng ông ta hiểu khác đi nhưng không chắc ông ta có tin mình không. Ngay lập tức tôi báo cho Albert chuyện xảy ra, và điều kế tiếp tôi biết được là tin Jonathan đã chết. Sau đó Albert bảo với tôi rằng phòng đọc là căn cứ trao đổi của chúng tôi, họ phải làm cho cái chết có vẻ tự nhiên. Nếu chúng tôi mất phòng đọc, chúng tôi sẽ không thể làm ăn gì nữa”.
“Ông biết chuyện xảy ra mà vẫn cứ bình chân như vại à?”, Caleb buộc tội.
“Chứ tôi phải làm sao? Tôi mà nói ra thì tôi sẽ phải ở tù rục xương”.
“Giờ thì ông sẽ ở tù rục xương”, Stone gằn giọng. “Cùng với thằng này”, ông nhìn vào Trent nằm một đống.
Một giọng nói vang lên, “Hoặc là không”.
Tất cả cùng quay người lại nhìn Roger Seagreaves bước về phía họ, mỗi tay một khẩu súng.
“Ông Foxworth?”, Caleb lên tiếng.
“Câm họng!”, Seagreaves thiếu bình tĩnh. Ánh mắt hắn ghim vào thằng Trent vừa mới cựa quậy hồi tỉnh.
Khi thấy Seagreaves, hắn nói, “Ơn Chúa, gặp được anh rồi Roger”.
Seagreaves mỉm cười, “Nhầm người rồi Albert”, hắn nã súng vào ngực Trent. Gã Trent há hốc miệng té xuống sàn nhà. Seagreaves chĩa súng vào Stone và Reuben, hai người đang định áp sát hắn. “Tôi không nghĩ thế đâu”. Hắn đưa khẩu súng kia chĩa vào Chambers, “Sự phục vụ của ông đến đây là không cần thiết nữa”. Khi Chamber dang tay ra đón viên đạn, Stone nhảy vào giữa Seagreaves và Chambers.
“Tao đã gọi cảnh sát, họ đang trên đường đến đây. Nếu mày muốn trốn đi thì thời điểm này lý tưởng nhất rồi”.
“Thật cảm động; một thằng mã 666 quan tâm đến một thằng mã 666 khác ư?”
Stone cứng người.
Seagreaves lại cười, “Vậy là đúng rồi. Vậy là ông biết cái luật đầu tiên cho công việc của chúng ta: không bao giờ để lại nhân chứng. Nhưng tôi có hơi tò mò, sao ông lại thê thảm đến độ phải làm việc trong nghĩa trang? Thật là một cú trượt quá dài đối với những người đã từng phục vụ đất nước như ông?”
“Thật ra tao đang nghĩ đến việc thăng tiến đấy”.
Seagreaves lắc đầu, “Tôi đã có thể tránh được nhiều phiền phức nếu lúc trước tôi giết ông đi khi có cơ hội. Tôi đã bỏ lỡ một cơ hội lớn. Nhưng giờ tôi có đủ tiền mặt để sống khỏe rồi”.
Annabelle nói, “Nếu mày trốn đi được”.
“Ồ, tao sẽ trốn đi chứ”.
“Tao không chắc lắm”, Stone nói khi ông từ từ đưa tay phải vào túi áo khoác. “Giờ thì Cơ quan Mật vụ và cả FBI cũng tham gia luôn”.
“Oa, mày làm tao sợ quá. Ít nhất tao cũng cần vài thứ nữa cho bộ sưu tập của mình”, Seagreaves nói. “Giữ tay ngay nơi đó!”, hắn la lớn và tay Stone để yên, ngón tay đã gần chạm đến túi áo khoác rồi. “Giơ tay lên đi lão già”.
“Cái gì?”, Stone hỏi, có vẻ như chẳng biết gì.
“Giơ hai tay cao lên, ‘666’, giơ cao lên để tao thấy hết cả hai bàn tay nào! Nhanh lên!”
Stone giơ phắt hai bàn tay lên trời.
Seagreaves thở hắt ra và loạng choạng ngã tới trước. Buông súng, hắn cố gắng rút con dao ra khỏi cổ họng. Nhưng loại lưỡi dao Stone vừa mới phóng ra khi giơ hai tay lên trời đã cắt đứt động mạch của hắn. Máu chảy ra lênh láng. Seagreaves đã thụp xuống bằng đầu gối, rồi từ từ lăn ngửa ra sàn nhà. Trong khi những người khác hoảng sợ, Stone vẫn bình tĩnh bước đến bên cạnh Seagreaves và kéo con dao ra.
Người cuối cùng ông đã giết bằng cú phi dao bất ngờ cũng giống như kẻ này. Tên này đáng bị giết như thế này.
Milton nhìn đi chỗ khác trong khi Caleb mặt mày xanh như tàu lá và có vẻ như chân ông ta run lập cập. Annabelle và Reuben nhìn vào xác chết.
Stone nhìn xuống cái xác không chút xót thương, “Nếu mày muốn giết ai thì giết ngay, đừng có nói chuyện với hắn”.
Khi Roger Seagreaves nằm im lìm trong vũng máu, họ mới nghe tiếng còi hụ từ xa. “Tôi đã gọi cho Alex Ford khi tôi nhận ra nhà của Chambers đối diện với hiệu sách quý”, Stone giải thích.
“Đó là lý do tôi làm thế này, anh biết đó”, Chambers cuối cùng cũng đưa mắt ra khỏi xác người chết tên là Seagreaves. “Tất cả dành cho sách, giữ chúng cho đời sau, với số tiền tôi đã tìm được tôi đã mua được nhiều thứ hay ho ra phết, thật sự như vậy”. Lão nhìn lên và thấy mọi người đang nhìn lão khinh bỉ.
Chambers từ từ đứng dậy, “Tôi có cái này để đưa cho anh, Caleb”.
Stone nghi ngờ theo lão ta đến bên quầy, khi lão ta chuẩn bị kéo ngăn tủ, Stone nắm chặt tay lão ta, ghì lại, “Để tôi làm cho”.
Chambers phản đối, “Đó đâu phải là vũ khí”.
“Chúng ta sẽ cùng xem?” Stone lôi ra một hộp nhỏ, mở ra và hé mắt nhìn vào trong, ông đưa cho Caleb xem, đó là nguyên tác của quyển Thánh ca.
“Cám ơn Chúa!”, Caleb thở phào nhẹ nhõm, rồi ngạc nhiên nhìn Chambers, “Làm sao ông lấy được nó, ông đâu có chìa khóa hay mật mã của phòng sách”.
“Anh nhớ lần trước khi chúng ta tính rời phòng sách, tôi giả vờ bệnh rồi anh mang cho tôi một cốc nước từ phòng tắm bên dưới? Ngay khi anh rời khỏi phòng, tôi mở tủ sắt ra. Trước đó, tôi đã nhìn thấy anh mở khóa và cả mật mã, đó là con số của phòng đọc, tôi lập tức lấy quyển sách ra, và cất vào túi. Khi anh quay lại với cốc nước, anh đóng cửa phòng và chúng ta cùng rời đi”.
Reuben rên rỉ, “Anh xấu quá, sao lại để hắn một mình trong phòng”.
Caleb bốp chát, “Ai mà biết hắn sẽ ăn cắp cái thứ đó chứ”.
Chambers nhìn chăm chăm vào tay hắn, “Đó là một sự thôi thúc mãnh liệt, khi tôi đã có nó, tôi cảm thấy sợ và cả phấn khích vì tôi vốn dĩ rất thành thật với khách hàng của mình. Nhưng quyển sách đó, chỉ cần tôi được chạm tay vào nó thôi!”. Mắt hắn sáng lên một chút rồi sau đó lại tối sầm, “Ít nhất tôi có thể có nó trong tay, dù chỉ là một lát thôi. Tôi thúc giục chuyện anh phải đánh giá quyển sách vì tôi muốn tránh sự nghi ngờ về phía mình khi mà anh khám phá ra sự mất mát”.
Annabelle nhìn vào trong hộp, “Là quyển này ư? Ông ấy đã giữ nó!”
Caleb nghi ngờ, “Sao thế, cô biết quyển sách à?”, ông hỏi lại.
“Vâng, đó là một câu chuyện dài”, cô ta nhanh chóng giải đáp.

Chương 68

Alex Ford và một nhóm lính đặc vụ đến ngay sau đó ít phút. Kinh ngạc thay, Albert Trent vẫn còn sống, dù bị thương nặng. Tập tài liệu dầy cộp nhét vào túi phần nào đã giúp hắn tránh được lực của viên đạn. Hắn được khiêng vào xe cứu thương còn Chameber kể lại chi tiết cho cảnh sát những gì đã làm. Khi cảnh sát dẫn hắn đi, hắn còn quay với lại và nói với Caleb, “Nhớ giữ quyển Thánh ca cẩn thận nhé!”
Câu trả lời của Caleb làm mọi người ngạc nhiên, nhất là chính bản thân ông, “Đó chỉ là một quyển sách quỷ quái, Monty hay Vincent hay anh là kiểu người gì tôi cũng không quan tâm, nhưng tôi muốn Jonathan sống lại hơn là ngồi lật mấy trang sách cũ xì này”. Ông cầm quyển sách Thánh ca rồi ném thẳng vào hộp.
Điều tra mở rộng dần chứng minh suy luận của Stone và mọi người là đúng. Bradley bị giết hại vì đã ép buộc Trent phải rời khỏi Ủy ban Tình báo, và điều đó đồng nghĩa với việc làm gián đoạn mối quan hệ làm ăn giữa hắn và Seagraves. Behan bị giết vì gã phát giác ra Jonathan bị sát hại do sử dụng khí cacbonnic đánh cắp trong công ty của gã. Từ những chuyện Chambers thuật lại, thì một số những tay thuộc hạ của Trent, làm việc tại Công ty Cứu hỏa, đã lẻn vào phòng đọc, gắn máy camera vào khoang thông gió, trong lúc giả vờ như đang chỉnh lại miệng ống gas ở đó. Annabelle và Caleb không tìm ra được chuyện này vì bọn chúng hành động vào ngày thứ bảy, khi phòng đọc đóng cửa và máy camera không được bật lên. Tuy vậy, họ đã tìm ra được một vài manh mối quan trọng: đó là cách bà lão Jewell khéo léo sử dụng tay tráo mắt kính và đó cũng là phần nào dẫn đến việc điều tra ra sự thật.
Có một người đàn ông tình cờ chứng kiến sự việc khi đứng gần tầng hầm nơi cất giữ những xilanh khí Halon, cũng là nơi DeHaven bị ám sát, nhưng sau đó, gã kém may mắn này đã bị kết liễu trước khi gã kịp nói với người khác về những chuyện đã xảy ra. Chambers cũng tự nhận đã đột nhập vào phòng sách sau đó và tháo máy camera đi.
Milton trao những chữ mật mã cho đại diện NSA, và họ giải mã chúng, đoạn mã được tiến hành dựa trên một cách viết mật mã từ hàng thế kỷ trước và dễ dàng bị tháo gỡ bởi kỹ thuật giải mã tinh vi trên máy tính hiện đại, nhưng rõ ràng Seagraves đã khéo léo cài những tay gián điệp mà không ai ngờ tới như Monty Chambers, Norman Janklow và cả bà lão Jewell English. Văn bản viết thành mật mã hiện đại đều được điện tử hóa, đòi hỏi từ khóa gồm nhiều dãy số để bảo vệ thông tin khỏi sự tấn công ồ ạt và mạnh mẽ của máy vi tính, và rõ ràng không thể sao chép lại trong một quyển sách cũ.
Trent đã dần hồi phục vết thương và đang bận rộn phân bua, nhất là khi hắn biết chính phủ có thể áp dụng hình phạt cao nhất đối với hắn là tử hình, trong đó thông tin có liên quan là Seagraves cầm đầu tổ chức gián điệp. Và khi biết chuyện có liên quan đến Seagraves, FBI đã mở rộng điều tra đến tất cả những người có mối quan hệ cho dù là không thân thiết với hắn, việc bắt bớ sẽ không tránh khỏi.
FBI cũng lục soát nhà của Seagraves và tìm thấy “bộ sưu tập” của hắn. Tuy ban đầu họ không biết những thứ đồ để trong phòng có ý nghĩa gì, nhưng cuối cùng họ phát giác ra rằng việc đó không đơn giản tí nào, vì nhiều thứ có liên quan đến các nạn nhân đã bị Seagraves sát hại khi hắn từng làm cho CIA.
Cuối cùng Stone cũng có cuộc gặp gỡ với Ford, thành viên FBI và cả hai tay thám tử của D.C. đã chạm trán với Caleb ở thư viện. Một tay FBI nói, “Chúng tôi biết đến sự tồn tại của một tổ chức gián điệp ngay trong thành phố này, nhưng chúng tôi không tìm được cách truy ra ngọn nguồn của chúng, và càng không thể ngờ Thư viện Quốc hội lại có dính líu”.
Stone tự hào, “Chúng tôi có một con át chủ bài mà các anh không có”.
Tay đặc vụ ngạc nhiên, “Đó là gì?”
Alex Ford đỡ lời, “Một người thủ thư đầy kinh nghiệm tên là Caleb Shaw”.
Tay thám tử D.C nheo mắt vui vẻ, “Đúng rồi, anh Shaw? Anh ta có vẻ hơi căng thẳng”.
Stone tiếp, “Nói thẳng ra là việc thiếu tự tin cá nhân của anh ta vẫn luôn được xem nhẹ so với...”
Tay thám tử chen ngang, “Sự may mắn ngẫu nhiên sao?”
“Không, đó là cách để ý sự việc đến từng chi tiết”.
Họ cám ơn Stone đã cung cấp thông tin và rồi mời người khác vào thẩm vấn.
Một trong số tay FBI kết luận, “Nếu có cần gì giúp đỡ cứ gọi cho chúng tôi”, rồi đưa cho Stone danh thiếp với số điện thoại trên đó.
Stone bỏ danh thiếp vào túi và nghĩ bụng, mình mong rằng không bao giờ cần đến mức kinh khủng như vậy.
Sau khi mọi thứ có vẻ lắng dịu xuống, họ lại tụ họp ở nhà của Stone và Caleb đưa cho Annabelle xem quyển sách Thánh ca và muốn cô ta nói lên sự thật.
Annabelle hít một hơi dài và bắt đầu giải thích, “Tôi biết Jonathan rất thích đọc sách, và một ngày kia khi tôi vui miệng hỏi nếu ông ấy muốn có một quyển sách quý nhất trên thế giới này thì đó sẽ là quyển nào, ông ấy bảo sẽ là quyển Thánh ca đó. Thế rồi tôi suy nghĩ, tìm kiếm chúng trong tất cả những thư viện và tìm ra một nơi thích hợp nhất để đánh cắp”.
Caleb chen ngang, “Cho tôi đoán nhé, nhà thờ cổ miền nam ở Boston phải không?”
“Sao anh biết?”
“Dễ đột nhập hơn là Thư viện Quốc Hội hay trường đại học Yale, tôi nghĩ thế”.
“Tôi tìm đến đó cùng với một người bạn và giới thiệu tôi là nghiên cứu sinh đại học đang tham gia đề tài về những quyển sách nổi tiếng”.
“Và họ cho cô xem qua nó à”, Caleb hỏi.
“Đúng vậy, cả chụp hình nữa, rồi tôi có người bạn khác rất giỏi làm giả... ý tôi là tạo ra đồ vật”.
“Vậy là anh ta làm giả quyển sách Thánh ca ư?”, Caleb thốt lên kinh ngạc.
“Giống nhau như thật, không thể phân biệt được”, Annabelle vụt tắt sự phấn khích khi thấy Caleb bắt đầu nổi giận. “Cuối cùng là chúng tôi cùng quay trở lại đó, rồi làm cú đánh tráo nhỏ”.
“Cô chỉ đánh tráo nhỏ thôi ư?”, Caleb đỏ mặt tía tai, “Với một trong những quyển sách quý hiếm nhất trên thế giới mà cô bảo là chỉ đánh tráo thôi à?”
Stone xen vào, “Sao cô không đưa quyển sách giả giống thật cho DeHaven?”
“Đưa quyển giả cho người tôi yêu ư? Không bao giờ?”
Caleb ngồi sụp xuống ghế, “Tôi không thể tin vào tai được”.
Trước khi ông ta trở nên bực bội hơn, cô ta tiếp tục, “Khi tôi đưa cho ông ấy quyển sách này, Jonathan rất kinh ngạc, nhưng tôi chỉ bảo đây là quyển giả mạo mà thôi, tôi nghĩ có lẽ ông ấy cũng gọi đến nhiều nơi để hỏi thăm, dù sao ông ấy cũng biết tôi đâu phải là kẻ sống hoàn toàn trung thực đâu”.
“Thật vậy ư? Chuyện có vẻ hay nhỉ”, Caleb bốp chát.
Cô ta giả lơ, “Nhưng vì nhà thờ không biết quyển sách đó là sách giả và cũng không ai báo mất quyển Thánh ca nào cho nên cuối cùng Jonathan kết luận rằng tôi nói thật, ông ấy rất vui vì điều đó, dù sao quyển sách đó cũng cũ rồi”.
“Sách cũ à!”. Caleb sắp sửa nổ tung vì giận dữ thì Stone đặt tay lên vai ông ta, “Này, thôi đừng nhắc lại chuyện cũ nữa, Caleb ạ”.
“Chuyện cũ gì?”, Caleb lầm bầm.
“Tôi sẽ trả nó lại”, Annabelle tỏ thành ý.
“Ý cô là sao?”, Caleb hỏi.
“Tôi sẽ mang quyển sách về chỗ cũ, đánh tráo quyển sách lần nữa”.
“Cô không nói đùa chứ”.
“Tôi hoàn toàn nghiêm túc, tôi có thể đánh tráo một lần, và lần nữa không vấn đề gì”.
“Lỡ họ bắt cô thì sao?”
Cô ta nhìn Caleb với ánh mắt thương hại, “Bây giờ tôi điêu luyện hơn lúc trước nhiều rồi”. Cô ta nhìn sang Milton và nói thêm, “Có muốn giúp tôi làm điều này không?”
“Chắc chắn rồi!”, Milton thốt lên đầy phấn khích.
Caleb cáu gắt, “Tôi nghiêm cấm anh trở thành tòng phạm nhé”.
Milton ngập ngừng, “Anh đừng dễ nổi cáu thế chứ? Đó đâu phải là tòng phạm nếu chúng tôi gửi trả lại quyển sách thật nhỉ?”
Caleb tính nói gì đó rồi lại thôi, “Vâng, tôi nghĩ cũng đúng”.
“Tôi sẽ tự tính toán”, Annabelle nói, “Giờ thì tôi chỉ cần quyển sách của anh, Caleb”. Cô ta vươn tay ra lấy.
Caleb lập tức ghì sát quyển sách vào ngực, “Tôi có thể giữ nó cho đến lúc cô cần không?”. Ông mân mê bìa sách.
Reuben nhắc nhở Caleb, “Anh bảo Monty rằng nó chỉ là một quyển sách vô giá trị mà”.
Caleb nhìn khổ sở, “Tôi biết mà, tôi chẳng nháy mắt khi nói ra những điều đó còn gì, có lẽ bà tiên sách đã nguyền rủa tôi”.
Annabelle gật đầu, “Được rồi, anh cứ giữ lấy”.
Reuben nhìn cô ta tràn đầy hy vọng, “Bây giờ mọi thứ đã qua đi, thế cô có muốn đi đâu đó với tôi tối nay không?”
Cô ta mỉm cười, “Để tôi xem lại thời tiết, Reuben ạ. Nhưng cám ơn anh đã có nhã ý”.
“Sẽ còn nhiều lần như vậy nữa, thưa quý cô”, ông hôn tay cô.
Sau khi mọi người rời khỏi căn nhà, Annabelle tìm đến Stone lúc này đang làm việc ngoài nghĩa trang.
Ông dọn dẹp một nấm mồ, còn cô nàng nhổ cỏ dại bỏ vào túi ni-lông. Ông chau mày, “Cô không cần phải ở lại và giúp tôi đâu, làm việc ở nghĩa trang là một chuyện chẳng thích hợp với một người như cô tí nào”.
Cô ta chống tay lên hông, “Vậy ông nghĩ sống thế nào mới thích hợp với tôi?”
“Chồng, con, nhà đẹp ở vùng ngoại ô, tham gia hội phụ huynh học sinh, và có thể nuôi chó cưng”.
“Ông đang đùa à?”
“Vâng, tôi đùa đấy. Bây giờ thì sao?”
“Tôi phải trả sách nếu không Caleb sẽ nổi điên mất”.
“Rồi sau đó?”
Cô ta nhún vai, “Tôi chẳng nghĩ ngợi xa hơn nữa đâu”. Cô ta cầm lấy miếng xốp, cúi thấp xuống và giúp Stone chà sạch tấm bia. Sau đó, cô ta đi nấu bữa tối, cùng ăn và trò chuyện với Stone ngay dưới mái hiên.
Annabelle liếc nhìn Stone, “May là tôi đã quay lại”.
Stone phụ họa, “Tôi cũng thế, Annabelle”.
Cô ta mỉm cười khi nghe ông gọi tên thật của mình. “Tên Seagraves đó gọi ông là một thằng 666. Điều đó có ý nghĩa gì?”
Stone trả lời, “Chuyện cũng đã cách đây ba mươi năm rồi”.
“Cũng công bằng thôi, tất cả chúng ta đều có bí mật, thế ông có tính đi chỗ khác không?”, cô ta hỏi.
Ông lắc đầu, “Ở đây có vẻ thích hợp với tôi”, ông đáp gọn lỏn.
Có thể vậy, Annabelle suy nghĩ, rồi họ cùng im lặng, thưởng thức trăng tròn trên bầu trời.
Cách đó bốn giờ lái xe về hướng bắc, Jerry cũng đang nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm trăng. Hắn đã gọi tất cả những mối quen biết, đe dọa và đánh đập nhiều hơn số mà hắn nhớ, thích thú từng phút giây hành hạ người khác. Kết quả là hắn đang tiến gần đến đích hơn vì lần lượt những hàng rào phòng thủ của Annabelle đã lộ diện. Và sắp tới, những gì hắn đã làm với Tony Wallace sẽ nhanh chóng được thực hiện với Annabelle. Hình ảnh cô ả gục ngã bất giác làm hắn nở một nụ cười mãn nguyện, hắn đã trở lại thế thượng phong, hắn rít một hơi xì-gà và nhấp một ngụm uýt-ki.
Mày chuẩn bị nhé Annabelle Conroy, tay Jerry to lớn, xấu tính sắp đến rồi đấy.
Hết