Lằn ranh Sinh tử - Chương 06 - Phần 03

Lát sau, có tiếng chó sủa rồi Loonie khó nhọc bước vào con đường sình lầy. Khi ấy trời đang mưa. Nó gạt con chó ra và lưỡng lự trước khi băng ngang cái sân để vào nơi bậc cấp hàng hiên. Cánh tay bó bột của nó lủng lẳng trước ngực trông như một thứ vũ khí.
- Vào đây đi - Ông Sando gọi - Vào đây tránh mưa.
Loonie cứ đứng trơ ra đó.
- Đừng làm cái kiểu bướng bỉnh ấy nhé - Bà Eva vừa bước ra khỏi võng vừa nói.
Bà chống tay lên hông, nhìn nó một lát, rồi khập khiễng đi vào nhà, đến lúc ấy, Loonie mới leo lên các bậc cấp để đứng dựa vào lan can của hàng hiên. Mái tóc bạc phếch vì nắng của nó dính sát vào đầu và cái băng đeo bằng vải của nó ướt dầm.
Bà Eva trở ra với một chiếc khăn lau. Nó liền cầm lấy mà không một lời cám ơn.
- Tốt nhỉ? - Nó nói.
Bà Eva khịt mũi và đi vào trong. Bà đóng hai cánh cửa bản lề hơi mạnh. Ông Sando nhìn Loonie một lát rồi nằm trở lại trên võng đu đưa. Loonie nhìn tôi. Tôi quay đi nơi khác.
- Trong thời gian này thì lướt sóng ở chỗ của tôi - Ông Sando nói - Tôi canh chừng con sóng, chờ dịp, và giữ cái bí mật nhỏ của mình. Các cậu cũng thấy là buồn cười, nhưng chia sẻ như vậy là tử tế rồi. Ngạc nhiên thật, nhưng mà hay. Điều tốt đẹp nhất khi có một bí quyết là chia sẻ cho một người nào đó. Phải không, Pikelet?
Tôi nhún vai, không khỏi bật cười.
- Sóng lớn cỡ nào? - Loonie hỏi.
Ông Sando thở dài: - Khá lớn để thành lý thú, khá lớn để xé toạc quần của một chàng trai mơ mộng.
- Hai mươi bộ - Tôi nói.
- Có lẽ là mười lăm. Cậu cưỡi con sóng mười lăm bộ đó, Pikelet.
- Hay nhỉ, nó cưỡi sóng được rồi nhỉ - Loonie nói lầm bầm.
- Phải, nó cưỡi được hai ngọn. Nó làm tốt lắm.
Loonie đứng đó, lắng nghe.
- Tôi vãi bậy ra ấy màệ Có gì hay đâu - Tôi đáp bực
tức.
- Nhưng cậu ấy đã làm nên chuyện đấy - Ông Sando nói. Tự mình làm nên một chút lịch sử đó.
Tôi phải mất một lúc mới hiểu được những gì ông ta nói. Vì nếu ông Sando là người đầu tiên lướt sóng ở Old Smoky thì nhất định tôi là người nhỏ tuổi nhất làm được chuyện ấy. Tôi có thể thấy Loonie suy nghĩ nhiều về chuyện này ngay tại đây trước mặt tôi. Nó vẩy vẩy nhẹ cái gấu quần jean sũng nước của nó. Đây là một cử chỉ bâng quơ, nhưng tôi hiểu nó nhiều hơn là thế.
- Rồi sẽ đến thời điểm của cậu - Ông Sando nói.
Loonie nhún vai, như thể chuyện ấy không quan trọng gì đối với nó. Nhưng nó đã có kế hoạch của mình, tôi biết chắc như thếễ Nó đã biết mình phải làm gì. Nó có thể không phải là người đầu tiên hay người trẻ tuổi nhất, thế nên nó phải làm điều gì khó nhất. Nó phải làm như thế.
Có hai lần đi ra Old Smoky nữa trong mùa thu ấy, đó là những ngày mà Loonie phải chua chát đứng nhìn từ trên vách đá, nhưng rồi đến giữa mùa đông thì nó đã có cơ hội. Nó đi cùng chúng tôi vào một buổi sáng âm u không gió, trong thời gian có một con sóng nhồi lớn di chuyển theo hướng đông nam và một đám sương mù giăng ngang trên các vách đá. Trong khi leo xuống nước, tôi nghe nhiều tiếng nói, và sau khi nhảy xuống rồi chèo ra xa, tôi nhìn thấy một nhóm nhỏ người dân Angelus đang đi theo chúng tôi. Loonie muốn có những khán giả - nó đã thông báo cho họ - và mặc dù ông Sando chẳng nói năng gì trong khi chúng tôi chèo dần ra biển, nhưng có thể thấy rõ sự tức giận của ông ta. Loonie quả thực đã tự đặt ra cho mình một nhiệm vụ.
Nhưng ngày hôm ấy nó đã lập nên một thành tích mới, điều ấy không còn gì phải bàn cãi. Nó đã làm nhiều hơn là để chứng tỏ mình. Nó lướt sóng giống như một người không nghĩ đến cái chết. Nụ cười toe toét khùng khùng của nó không còn nữa. Con sóng ngoài kia cao hai mươi bộ, có thể là hơn nữa, nó lao xuống muộn hơn và sâu hơn bất cứ ai trong chúng tôi, không một lần nào bỏ qua.
Nó lao sâu xuống dưới những con quái vật bụng đen trong thế thu mình, hai bàn chân nó giang rộng, trong khi ông Sando và tôi ngồi trong eo biển phản đối, không tin được. Ngày hôm ấy hễ chúng tôi làm bất cứ điều gì Loonie cũng làm khó hơn. Tôi không tin là nó không sợ, nhưng nó có sự quả quyết lạnh lùng của một đứa con trai hoàn toàn bị chi phối bởi một ý tưởng. Không phải là nó không thể bị tổn thương hay tài tình đặc biệt gì, bởi vì nó đã trải qua nhiều thất bại khủng khiếp trong khi cố làm điều không thể được, mà cứ mỗi khi có một con sóng nào phủ lấy nó thì nó thét lên báo động về hai con sóng khác cũng dữ dằn như thế. Nó mới mười lăm tuổi. Nó không phải chỉ cưỡi sóng ở Old Smoky mà còn là tay tổ ở đây nữa. Từ đó về sau, Loonie là người đặt ra chuẩn mốc. Ông Sando và tôi chỉ có thể nhìn theo thán phục. Và ở đó, khi chúng tôi đến nơi, đã có những người dân Angelus chen chúc trên vách đá, không dám tin vào những điều họ thấy.
Bộ ba kỳ lạ chúng tôi là như thế đấy. Một câu lạc bộ tuyển chọn và khác thường của vài người bạn, nhưng không kém phần đam mê. Ông Sando và những đứa học trò khùng khùng của ông. Rất ít người biết được những gì chúng tôi làm ngoài kia bên các vách đá; dù sao, đây quả là một hành vi vượt ngoài phạm vi lôgic. Nhưng bên trong mối tình thân hữu lướt sóng ở vùng bờ biển của những năm tháng ấy, chúng tôi đã có một danh tiếng âm thầm. Từng chút từng chút một, một vòng hào quang đặc biệt hình thành xung quanh chúng tôi, và chúng tôi cảm thấy hãnh diện về những điều mình đã làm được. Dưới sự giám hộ của ông Sando, tôi và Loonie ăn uống thận trọng và chăm lo cho sức khỏe của mình. Ông ta dạy chúng tôi tập yoga. Chúng tôi trở nên khỏe mạnh hơn và thành thạo hơn, đòi hỏi ở mình nhiều hơn và từ bỏ gần như tất cả mọi thứ khác để cùng theo đuổi một mục đích chung. Từ nhiều năm trước, khi mọi người bắt đầu nói đến những môn thể thao cực đỉnh, chúng tôi đã bác bỏ chữ cực đỉnh, cho là không xứng đáng. Những gì chúng tôi làm và những gì chúng tôi trở thành sau đó, chúng tôi tự nói với nhau là những chuyện phi thường.
Nhưng bên cạnh cái cảm giác lớn lao ấy vẫn còn một chút dè dặt. Ở trong nước với ông Sando, Loonie và tôi trở thành một cặp được huấn luyện và chỉ dẫn thấu đáo đến mức khi gặp những con sóng lớn thì đứa này có thể biết trước những hành động đứa kia sẽ làm. Chúng tôi đã nhìn thấy những cú ngã nặng nên luôn sẵn sàng để giải cứu trong một vụ sóng dập hay một sự tổn thương, và đó là điều hữu ích cần biết khi bạn thấy mình ngã sầm xuống bên dưới một nghìn tấn nước sủi bọt, tả tơi trên vỉa đá ngầm với lá phổi gần như nổ tung. Ở độ tuổi mới lớn này, chúng tôi xem vùng phía trên vỉa đá ngầm ngoài kia như một bãi chiến trường và chúng tôi đối xử với nhau như những chiến hữu. Chúng tôi thấy hãnh diện về tình trạng không gò bó của mình, dù chỉ là một nửa bí hiểm; chúng tôi thuộc loại người mà những người dân thành phố bình thường khó hình dung nổi. Ông Sando thì rất kín đáo. Ông ra sức gieo vào chúng tôi một ý thức khiêm tốnề Ở tuổi chúng tôi mà sống dưới ảnh hưởng quyền uy của ông, thì tinh thần chiến binh lập dị rất khó hiểu của ông là một biểu hiện vừa hiển nhiên vừa hấp dẫn.
Thế nhưng đang có một khoảng cách giữa Loonie và tôi. Những tuần lễ nó phải bó bột cánh tay đã gây ra điều tai hại này. Thời gian dài mà nó phải chờ đợi ông Sando và tôi lướt sóng không có nó đã khiến quan hệ giữa tôi và Loonie trở nên tồi tệ hơn, không thể sửa chữa được. Đối với tôi, thừa nhận sự can đảm của nó không bao giờ là đủ. Nó còn là một tay cừ, và tôi đã nói với nó như thế. Tôi không cạnh tranh với nó nữa vì cuộc thi đấu này không cân sức và tôi không muốn nhận phần thất bạiế Thế nhưng tôi vẫn ngầm tin là mình có được những đặc điểm mà Loonie không có. Loonie không bao giờ là người lướt sóng đẹp mắt, bởi vì ở nó, sự gan dạ nổi bật hơn nét kỹ thuật. Tôi không thách thức với nó, nhưng cuộc chiến giữa chúng tôi không bao giờ dứt, và khi ra khỏi mặt nước thì mọi chuyện càng nguội lạnh hơn.
Sự tận tuỵ của Loonie đối với ông Sando càng ngày càng thêm mãnh liệt, về tính cáu kỉnh và một mực đa nghi của mình, Loonie làm y theo ông Sando, giống như đứa con noi theo cha mình, về chuyện này nó rất ương ngạnh, nó thích làm cho mọi việc trở nên khó khăn. Nó thường một mình đạp xe đến nhà ông Sando, và thường hay quên chuyển đến tôi những lời nhắn bảo của ông.
Nhìn bề ngoài thì mọi việc có vẻ khá bình thường. Trong khi lướt sóng, chúng tôi vẫn còn gắn bó với nhau, nhưng ở nơi khác, khi ông Sando không có mặt để điều chỉnh nó, thì Loonie trở nên rất khó chịu. Tôi đã không tránh hẳn được nó, và nó thường có những việc lý thú hơn để làm. Sau những đợt cưỡi sóng, nó đi theo những đứa học trò trường Nông nghiệp lớn tuổi hơn, những đứa con trai có cái cằm béo phị và những cơn ho vì thuốc láẽ Chúng mua rượu do Loonie ăn cắp từ quán rượu mang đến và trả cho nó bằng các kíp nổ, các viên đạn và những tạp chí tầm phào. Tôi biết nó đang giữ một thùng hàng lậu chôn giấu trong rừng. Nó có những quả bom ống làm sẵn ngoài rừng ấy, và những số tiền ăn cắp trong phòng của khách hoặc của những khách nhậu say xỉn. Suốt cả mùa hè, nó cứ hậm hực và bực tức vì chuyện gì mà tôi không hiểu được. Mọi thứ dường như là do lỗi của tôi, thế nên tôi phải tìm cách tránh xa nó.
Một buổi sáng mùa xuân trời âm u mưa mù, trên con đường ở Angelus, chiếc xe buýt nhà trường rung lên vì một cú thắng gấp. Tỉnh dậy từ cơn mơ màng, tôi nhìn ra và trông thấy một đám hỗn loạn ghê gớm nơi khúc quanh phía trước. Chiếc xe buýt xinh xịch nổ máy đậu bên lề đường. Người tài xế lưỡng lự không biết nên cho xe lùi lại hay nhảy xuống giúp đỡ. Trên mặt đường phía trước chúng tôi, một chiếc xe chở gia súc bị lật nghiêng, và dưới bụng nó là một chiếc xe nhỏ nằm bẹp dúm. Mấy con bò nằm quằn quại trên đường nhựa, kêu rống, giẫy đạp, và đập đầu xuống mặt đường. Một con rơi xuống dưới mương, kéo lê cái chân sau đã liệt. Máu chảy lênh láng và loang rộng dưới trời mưa. Cảnh tượng dường như làm cho màu cỏ lề đường xanh hơn và vũng máu chảy xuôi triền dốc về phía chúng tôi, trong khi trên chiếc xe buýt huyên náo những tiếng thở than và kêu khóc.
Một chiếc xe lớn của nông trại dừng lại phía sau đám hỗn loạn và một người đàn ông bước xuống. Chiếc xe lại tiếp tục chạy về hướng Angelus trong khi người đàn ông mới đến né tránh những con thú đang giẫy giụa để bò vào bên dưới thùng xe. Cuối cùng, người tài xế xe buýt nhà trường mở cửa xe ra và bước xuống phụ giúp. Tôi nhìn ông ta rời đi, lom khom dưới trời mưa, cổ áo kéo cao. Có một cái gì đó uể oải trong bước đi của ông ta khiến tôi thấy phát bực. Tôi đứng dậy, leo xuống bậc cấp và chạy vượt qua ông ta để đến chỗ đám hỗn loạn. Mặt đường là một đám chướng ngại vật với những xác thú ngổn ngang, những cái lưỡi le dài và những con mắt lồi ra. Không khí nồng nặc mùi phân và mùi dầu xe.
Khi tôi đến chỗ người nông dân thì ông ta đang ra sức kéo giật cánh cửa chiếc xe nhỏ và luôn mồm cầu khẩn. Tôi thấy người đàn bà lái xe đã chết, cổ bà ta bị bẻ ra đằng sau trên cái thân mình bị xô tới trước trông thật là thê thảm. Bà ta bị va đập mạnh trên cần tay lái khiến cho tôi thấy lạnh cả người. Bên cạnh bà ta, người đàn ông trên chiếc ghế hành khách liếm liếm môi mình một cách chậm chạp. Hai mắt ông ta bị bít kín vì máu rỉ ra từ một vết thủng trên trán.
Người tài xế xe buýt đến đằng sau chúng tôi, nói:
- Tài xế xe tải, tài xế xe tải bị mắc kẹt.
Tôi leo qua khung sườn xe moóc, mò theo những thành sắt ướt dầm và trơn tuột của ngăn chứa súc vật để đi tới phía buồng lái xe tải. Không thể vịn vào chiếc bánh xe trước thòng xuống để đu người lên, tôi chồm qua trên cánh cửa để nhìn vào ô kính bên dưới, giống như một thợ lặn nhìn vào cái hang trong vỉa đá ngầm. Cách đấy độ vài tấc, run run trong chiếc áo choàng nhà binh phế thải và rũ người trên sợi đai buộc, là một người đàn ông to lớn với một chòm râu và những chiếc răng vàng. Cánh cửa ngăn cách giữa ông ta và tôi bị phủ sương mù. Tôi gọi ông ta mở cánh cửa ra, nhưng ông ta không có vẻ như nghe tôi nói. Ông ta chỉ ngồi nguyên ở đấy, chìm khuất dần dần bên dưới tấm cửa kính mù sương, tạt mưa, trong lúc tôi cứ gào to cho đến khản tiếng. Rồi cảnh sát đến nơi với những súng ống, và một chiếc xe cứu hoả chạy đến. Một người cao to đỡ tôi xuống và đưa cho tôi một cốc Milo còn nóng mà dù có cố gắng đến mấy tôi cũng không thể nào uống được.
Cũng trong đêm ấy, cha tôi đưa tôi vào Angelus để dự cuộc họp mặt nhà trường. Mặc dù tôi đã nói với Queenie Cookson là tôi thực sự không muốn đi đâu nữa, nhưng mẹ tôi nhất định buộc tôi phải đến đó vì cô ta, để cho cô ta khỏi thấy xấu hổ vì bị thất hẹn. Thế nên tôi đi, khoác trên người một chiếc áo cộc vàng và một chiếc quần nhung sọc ống loe, còn cha tôi thì giết thời giờ mấy tiếng đồng hồ bằng cách câu cá skippy ở ngoài khơi cầu tàu thành phố.
Trên đường xe chạy, dù là ở khúc quanh với mưa tạt mạnh trên kính chắn gió và với cỏ cây tơi tả, chúng tôi cũng chẳng ai nói một lời nào. Khi đến sân vận động nhà trường ở Angelus, tôi lí nhí cám ơn chuyến đi rồi lủi vào trong.
Bên trong nhà, một nhóm người của thành phố đang hát những bài của The Sweet và Status Quo. Ánh sáng lờ mờ, âm nhạc và cái cảnh tất cả bạn học của tôi đều khoác những bộ trang phục đẹp nhất khiến cho mọi thứ có vẻ như là không thật. Tôi thấy như mình không thích hợp với nơi này. Hội trường thăm thẳm sực nức đủ loại dầu thơm. Quá nhiều lấp lánh và phấn son cho nên người nào trông cũng như người lạ, và tôi phải mất mười phút mới nhận ra Queenie đằng kia, bên cạnh các bậc cầu thang tầng dưới.
- Sao anh không kể cho em nghe về chuyện hồi sáng? Nó kê miệng vào lỗ tai tôi nói lớn.
Tôi nhún vai.
- Polly Morgan kể em mới biết đấy.
Tôi lại nhún vai.
- Cả hai người bị chết cả, thật không?
- Thì rađiô đã nói như thế đấy.
- Hôm nay anh kỳ lạ lắm nhe - Nó nói - Sao anh chẳng nói gì hết vậy? Lẽ ra anh phải nói cho em biết chứ. Em không hiểu anh nổi.
Tôi nghĩ mình không thể nói một điều gì đáp lại cho nên tôi lại nhún vai một lần nữa. Nó phát cáu. Tôi quàng tay quanh người nó và điều này có vẻ làm cho nó bớt giận phần nào. Sau đó chúng tôi khiêu vũ mấy bài và những câu chuyện của chúng tôi với người khác phần lớn chỉ là xã giao. Chúng tôi kết thúc trong bóng tối của khoảng cầu thang tầng dưới, ôm nhau và hôn nhau một cách hờ hững cho đến khi các ngọn đèn bật sáng và buổi họp mặt đã kết thúc.
Khi tôi lên xe, cha tôi có vẻ bơ phờ.
- Cha, mùi cá tanh quá - Tôi nói.
- Còn mày thì nồng sặc mùi con gái.
Chúng tôi chạy xe về nhà trong sự lặng thinh đến nỗi tôi thấy mình cứ xoay vặn om sòm và không mục đích trên các núm rađiô. Tôi làm cha tôi bực mình, nhưng sự náo động này giúp cho ông khỏi ngủ gục trên vô lăng.
Về đến nhà mẹ tôi hãy còn thức với chiếc áo choàng vải bông xù khoác trên người.
- Con trông điển trai đó cưng - Bà nói.
Tôi đứng cách xa bồn nước trong khi cha tôi uể oải rửa mấy con cá. Cái nhìn của những con mắt đã chết ấy khiến cho lòng dạ tôi nôn nao một cách kỳ lạ. Khi ông mổ những cái bụng trắng bạc của chúng ra thì tôi bỏ đi lên phòng và không sao ngủ được.
Năm ấy đã có nhiều con sóng lớn trong khi các vùng áp thấp quan trọng tung hoành ở ngoài vùng biển Roaring Forties, nhưng chúng tôi đã mất nhiều thời gian để chờ đợi chúng, bàn luận và tưởng tượng về chúng hơn là cưỡi chúng. Mùa đông có những đợt ngắt quãng, khi ấy suốt nhiều tuần liền gió thổi vào bờ, tạo ra một cơn sóng nhồi cao ngất, và có những ngày âm u, gió mạnh nhìn xuống mặt biển trông thật thê thảm.
Tôi theo dõi bản đồ thời tiết và chờ ông Sando, thường xuyên ở trong trạng thái dự đoán đau khổ. Tôi đã ít nhiều quen với một nỗi sợ ngấm ngầm nào đó. Khi không có thì tôi thấy nhớ. Sau một ngày thoả thích ở Barney hay một cơ hội hiếm có được đến Old Smoky, tôi trở về nhà trong mãn nguyện - niềm phấn khởi kéo dài suốt nhiều ngày. Nhưng khi niềm vui tan đi thì tôi lại trở nên bồn chồn, thậm chí lo âu. Tại trường học, tôi không thể tập trung đầu óc. Khi cùng đi câu cá với cha tôi nơi cửa sông, ông cứ la rầy tôi quậy phá lục đục như thằng say rượu, làm hỏng mất buổi sáng của ông.
Tôi thường lội vào trong rừngể Tôi đạp xe ra nơi cửa sông và trở về rời rã. Tôi làm mọi thứ mình có thể làm cho đến mệt đừ, nhưng ban đêm thì cứ nằm thao thức, trăn trở, thở dài và chờ đợi.
Ở trường học, Queenie Cookson nhờ mấy đứa bạn chuyển cho tôi một mảnh giấy ghi rõ nhiều tật xấu của tôi (tính khí thất thường, ích kỷ và hờ hững), và cho tôi biết rằng từ nay tôi bị tước bỏ nhiệm vụ của một người bạn trai. Tôi đã phản ứng mạnh mẽ nhưng thực ra, tôi thấy mình được giải toả.
Trong khoảng thời gian nhàn rỗi sau những ngày bận rộn, Loonie có vô số việc để làm so với tôi. Đã ghiền các chuyện hiểm nguy, nó luôn có thể tìm ra một trò thử thách nhiều hồi hộp. Một lần, nó khoan một lỗ nhòm qua tấm vách bằng tôn của phòng chứa hàng và đã tự gây ra cho mình một rắc rối mới.
Một phụ nữ có tên là Margaret Myers đến trọ vào những dịp cuối tuần trong quán. Là người nổi tiếng ở Sydney, bà ta vào khoảng bôrL mươi và khá cao ráo. Bà có mái tóc đen, người tròn trĩnh, mặc áo dài rộng, đeo chuỗi hạt và hút thuốc lá đinh hương. Bà hoàn toàn xa lạ ở Sawyer, nhưng đã nhanh chóng trở thành khách hàng thường xuyên tại đây. Loonie thấy bà là người dễ giao thiệp nhất mà nó từng gặp, dù nó nói điều này trước khi được biết bà đang sông ở tầng trên, trong phòng số 6 của quánẽ Trong những giờ bận rộn của ngày chủ nhật, lúc quán bar bên dưới đang lộn xộn ầm ĩ thì nó cứ mải mê nhìn qua cái lỗ kia trong khi bà tiếp khách. Loonie nói nó đã chứng kiến nhiều chuyện đến phải xốn mắt, những chuyện khó tin nổi. Tôi say sưa nghe những chi tiết giật gân, nhưng tôi không thực sự tin ở nó. Trong trường hợp này thì các sự thật không phải là điều quan trọng đối với tôi. Bà Margaret Myers vốn là một nhân vật quá kỳ lạ, còn Loonie lại là đứa có biệt tài tán dóc cho nên chỉ cần nghe nó kể chuyện cũng đủ thấy hấp dẫn.
Nhưng Loonie, theo cái kiểu phi thường của nó, dường như đã nhận thấy sự không tin của tôi. Nói có trời, tôi chẳng bao giờ gọi nó là đứa nói dối cả - tôi không quá khờ khạo để bị bịp đâu. Tôi thậm chí chẳng bắt nó phải nói rõ về những chi tiết tầm thường, như chuyện về cái lỗ nhòm, về cái góc nhìn, về các sắp đặt của bà ta để mỗi lần đều sử dụng một căn phòng ấy, thế nhưng nó cứ đưa tôi vào những chuyện kia. Vì vốn có biệt tài trong việc bịa đặt ra một chuyện gay cấn trong khi chẳng có gì cả, Loonie có thể tìm ra lời buộc tội cho bất cứ một thoả thuận nào, và khi người nghe chưa kịp có ý kiến thì nó đã nổi cơn phẫn nộ và bạn bỗng thấy bạn như đang thách thức nó chứng tỏ mình. Trong trường hợp câu chuyện căn phòng số 6 thì chỉ có một cách để cho Loonie cảm thấy hả giận.
Vì thế một ngày kia, tôi đã vào trong kho chứa hàng, gỡ tấm đậy Juicy Fruit màu xám trên tấm vách tôn với hơi thở nóng hổi và hôi rình của Loonie trong lỗ tai. Thực ra tôi cũng chẳng muốn đến đây. Phải đi từ kho củi đến xưởng giặt rồi sau đó chui lên cầu thang một cách nhọc nhằn có vẻ là chuyện phiêu lưu. Căn phòng sặc mùi giẻ lau và các-tông ẩm, tim tôi đập nhanh đến nỗi khiến tôi buồn nôn. Tôi thở hổn hển và đổ mồ hôi, nên khi lần đầu tiên áp đầu vào tấm vách tôn, cái trán tôi trượt lướt trên lớp sơn nâu.
Hoá ra là chẳng cần đến cái lỗ nhòm kia mới chứng minh được cho sự khẳng định của Loonie. Tiếng kin kít của chiếc giường kê bên cạnh cửa, tiếng vỗ trên da, và những tiếng thì thầm khe khẽ xuyên qua tấm vách cũng đủ làm bằng chứng. Nhưng chút keo dán kia là một sự khiêu gợi.
Tôi lột nó ra, áp mắt vào lỗ trống và ở lên một tiếng ngạc nhiên mà có lẽ bên kia vách cũng nghe. Bởi vì những gì tôi thấy trước tiên, cách đó không tới nửa thước, là một bộ mặt đàn bà lòe loẹt son phấn đang quay về phía tôi. Cặp mắt màu xanh của bà đang mở ra nhưng không nhìn tập trung. Những lỗ chân lông trên mặt khá lớn, và da của bà bóng lên vì mướt mồ hôi bên dưới mớ tóc quăn đong đưa. Tôi lùi lại thật nhanh đến nỗi đập đầu vào hàm răng trước của Loonie. Chúng tôi loạng choạng trên mấy tấm ván trần, suýt soa nhăn nhó, và có sự lặng im ở phòng bên cạnh. Chúng tôi điếng người, chờ đợi cánh cửa kia mở tung ra. Tôi cảm thấy một vết thủng ở sau đầu mình.
Sau một lúc lâu, tiếng giường kin kít lại tiếp tục, tiếng một người đàn ông lầm bầm, và những hạt chuỗi khua rổn rảng. Tôi nhìn qua khoảng trống của cái lỗ nhòm và quay lại phía sau thì thấy Loonie đang cười không thành tiếng. Tôi chỉ ngón tay cái về hướng cái cửa, nhưng nó lắc đầu. Ít nhất là một nửa trong tôi thấy mừng mừng. Tôi thu hết can đảm, nhón chân đi trở lại nơi bức vách.