Báu vật của đời - Chương 02 - Phần 05 - 01

5
Cho đến tiết thanh minh ấm áp, mười tám cái đầu nhà Tư Mã vẫn treo lủng lẳng trên giá gỗ ngoài cổng Phúc Sinh Đường. Chiếc giá gỗ dựng bằng năm cây sam to và thẳng đuột, trông giống một cây đu. Những cái đầu xâu bằng dây thép, treo dưới cây gỗ bắc ngang. Tuy đã bị lũ quạ, chim sẻ, chim cút mổ hết thịt, nhưng vẫn rất dễ nhận ra đầu nào là đầu của vợ Tư Mã Đình; đầu hai đứa con ngơ ngẩn của Tư Mã Đình; của vợ cả, vợ hai và vợ ba của Tư Mã Khố; chín cái đầu của lũ con trai con gái do ba người vợ của Tư Mã Khố đẻ ra, đầu của bố mẹ bà Ba đến thăm con gái và đầu của hai người em của ông bà. Sau trận cướp phá, thôn xóm sặc mùi chết chóc, những người sống sót thì như hồn ma, ban ngày rúc vào chỗ tối, ban đêm mới dám mò ra. Chị Hai đi biệt, không một mẩu tin. Thằng nhỏ chị để lại cho chúng tôi đã gây biết bao phiền não. Trong những ngày nấp trong hầm tối, vì không nỡ để nó chết đói mẹ buộc phải cho nó bú sữa. Nó ngoác miệng, mở to cặp mắt thô lố, mút chùn chụt bầu vú vốn thuộc về tôi. Nó ăn nhiều kinh khủng, ti đến nỗi hai bầu vú chi còn như hai cái túi da lép, mà vẫn ngoác miệng ra khóc. Nó khóc như tiếng quạ, như tiếng ếch, tiếng cú kêu. Ve ngoài của nó giống chó sói, chó hoang, giống con thỏ rừng. Nó là kẻ thù không đội trời chung của tôi. Khi nó độc chiếm bầu vú của mẹ, tôi chỉ khóc. Khi tôi giành lại bầu vú của mẹ, nó cũng khóc. Khi gào khóc, nó vẫn mở to mắt. Mắt nó như mắt của thằn lằn. Chị Chiêu Đệ chết tiệt đã đem về một tiểu yêu do thằn lằn đẻ ra. Bị hai tầng xâu xé, mặt mẹ bủng ra trên người đã thấy những mầm mống của bệnh tật, chẳng khác những củ cải trải qua một mùa đông dài đặc dưới hầm. Trước tiên là ở hai bầu vú của mẹ. Sữa ngày một ít đi, trong sữa tôi cảm thấy mùi vị của củ cải thối. Cái thằng khốn nạn nhà Tư Mã, lẽ nào mi không cảm thấy mùi vị đáng sợ ấy Của ai thì người ấy tiếc, nhưng tôi không thể tiếc bầu vú của mẹ được nữa. Tôi không bú thì nó bú. Hồ lô của tôi, bồ câu non của tôi, lọ sứ của tôi đã nhăn nheo, thủy phần giảm, gân xanh chằng chịt, đầu vú thâm lại, rũ rượi chúc đầu xuống.

Vì tính mạng của tôi và của thằng khốn nạn, mẹ mạnh dạn đưa các chị tôi ra khỏi hầm, về với trần gian đầy ánh nắng. Lúa mạch ở chái đông không còn một hạt, lừa và la cũng không còn, nồi niêu bát đĩa vỡ nát, tượng Quan âm trên bàn thờ chỉ còn là cái xác không đầu. Mẹ quên không dám áo lông chồn xuống hầm, áo chẽn lông mèo rừng của tôi và chị Tám cũng mất. áo khoác của các chị, vì bất li thân, nên vẫn còn, nhưng lông rụng từng mảng, các chị giống như những con thú bị thương khắp người. Bà nội nằm dưới cái cối xay ở chái tây, ngốn hết hai mươi cân củ cải mẹ để lại, ị ra một đống phân lổn nhổn như đá cuội. Khi mẹ vào cho bà ăn, bà ném những cục phân khô vào người mẹ. Mặt bà nội như củ cải thối, tóc bạc bết lại như sợi thừng, có lọn dựng ngược, lọn thì rũ xuống lưng. Mắt bà nội có màu xanh lục. Mẹ chẳng còn cách nào, chỉ lắc đầu, đặt mấy củ cải trước mặt bà nội. Người Nhật, có lẽ là người Trung Quốc, chỉ để lại cho chúng tôi một phần nhỏ củ cải đã mọc mầm. Mẹ tuyệt vọng quá, bê ra một cái vại chưa bị đập vỡ, trong vại có gói bột thạch tín mà bà nội giấu kỹ. Mẹ đổ thạch tín vào nồi củ cải. Thạch tín tan ra, mặt nồi có váng như đầu, một mùi tanh bay lên. Mẹ dùng môi khuấy đều, múc lên một môi rồi rót xuống nồi: một thứ nước đục lờ chảy qua chỗ môi mẻ, rớt tong tỏng. Hai bên mép mẹ giật giật một cách kỳ quái. Mẹ múc củ cải ra cái bát mẻ, bảo chị Lãnh Đệ:

- Lãnh Đệ, đem bát củ cải vào cho bà nội.

Chị Ba nói:

- Mẹ cho thuốc độc vào củ cải à?.

Mẹ gật.

- Để bà nội trúng độc mà chết hả mẹ? Chị Ba hỏi.

Mẹ nói:

- Cả nhà cùng chết!

Các chị khóc ầm lên, chị Tám mù cũng khóc theo, tiếng khóc mảnh như sợi tơ, như tiếng vo ve của con ong mật. Chị Tám là thê thảm nhất của nỗi thê thảm, đáng thương nhất của sự đáng thương.

- Mẹ ơi, chúng con không muốn chết!

Các chị van xin mẹ. Tôi cũng hùa theo khóc tấm tức:

- Mẹ.. mẹ...

Mẹ nói:

- Khổ thân các con!...

Mẹ khóc òa lên, khóc rất lâu chúng tôi khóc theo. Mẹ hỉ mũi rõ kêu, quẳng cái bát cùng với thạch tín ra sân, nói:

- Không chết nữa! Chết đã không sợ, thì sống không có gì phải sợ cả!

Nói xong, mẹ đứng dậy dẫn chúng tôi ra phố tìm cái ăn. Chúng tôi là những người đầu tiên xuất hiện ngoài đường.

Lúc đầu, khi trông thấy những cái đầu của nhà Tư Mã, các chị còn có vẻ sợ; vài hôm sau, các chị coi như không có gì xảy ra. Thằng khốn nhà Tư Mã mẹ bế đằng trước, đối xứng với tôi ở phía sau lưng. Mẹ có lần chỉ vào những cái đầu treo lủng lẳng đó, khẽ bảo nó:

- Con ơi, hãy nhớ lấy!

Mẹ và các chị ra khỏi thôn, ra đồng đào rễ cỏ rửa sạch, đem về giã nhỏ nấu cháo. Chị Ba rất thông minh, chị tìm ra hang chuột đồng, không những thịt rất thơm, mà còn lấy được lương thực giấu trong hang. Các chị còn đan lưới bằng chỉ gai, bắt những con cá, con tôm gầy đét và thâm sì sau một mùa đông nhịn đói. Một hôm, mẹ thử đút cho tôi một thìa cháo cá, tôi lập tức nhổ ra và cất tiếng khóc. Mẹ đút thìa cháo vào miệng thằng khốn nhà Tư Mã, nó nuốt luôn. Mẹ lại đút cho nó thìa nữa, nó lại nuốt. Mẹ phấn khởi, nói:

- Tốt rồi, thằng oan nghiệt này ăn lấy được rồi!

- Còn con thì sao?

Mẹ nhìn tôi:

- Con cũng đã đến lúc cai sữa rồi!

Tôi kinh hoảng túm chặt bầu vú của mẹ.

Noi gương chúng tôi, những người trong thôn mò ra khỏi nhà. Tai họa khủng khiếp giáng lên đầu lũ chuột đồng, rồi tiếp theo là thỏ, cá tôm, ốc, hến, rắn, nhái. Trên những cánh đồng mênh mông, mọi sinh vật chỉ còn sót lại cóc tía có nhựa độc và loài chim có cánh. Nếu như rau dại không mọc kịp thời, thì quá nửa người dân trong thôn đã chết đói. Sau tết thanh minh, hoa đào rụng cánh, hơi nước lang thang trên mặt ruộng, đất đai đã cựa mình đợi gieo trồng, nhưng chúng tôi không có gia súc, không có hạt giống. Khi nước trong đầm đã đầy, những con nòng nọc béo mẫm bơi dày đặc ven hồ và ao chuôm, dân chúng bắt đầu bỏ quê, tha phương cầu thực. Đến tháng Tư gần như cả thôn bỏ đi hết, nhưng sang tháng Năm, phần lớn lại trở về. Ông Ba Phàn nói, dù sao thì nơi đây còn có rau dại, cỏ dại ăn đỡ đói, những nơi khác, ngay cả rau dại cỏ dại cũng không còn. Đến tháng Sáu có rất nhiều người nơi khác đến đây. Lúc đầu, họ ngủ trong nhà thờ, trong cái sân sâu hun hút của nhà Tư Mã, trong khu vục cối xay bột bỏ hoang. Họ điên khùng như những con chó đói, cướp giật hết thức ăn của chúng tôi. Về sau, ông Ba Phàn tập hợp những người đàn ông trong thôn mở đợt truy đuổi những kẻ ngụ cư. Ông Ba Phàn là lãnh tụ của chúng tôi. Đám ngụ cư cũng cử ra lãnh tụ của chúng. Đó là một thanh niên có cặp lông mày rậm. Anh ta là một tay săn chim cừ khôi, lúc nào cũng có hai cây cung giắt ở thắt lưng, vai đeo chéo một túi vải, trong đó chứa đầy những viên dạn nặn bằng đất sét. Chị Ba khi đào rau dại đã chúng kiến tuyệt kỹ của anh ta: Hai con gà gô đang giao phối trên lưng chừng trời, anh ta rút cây cung, cũng không thèm ngắm, gần như bắn chơi một viên, con gà gô rơi thẳng đứng ngay dưới chân chị Ba. Anh ta cầm con gà gô bước tới chỗ chị Ba. Chị căm thù nhìn anh ta. Ông Ba Phàn đã tuyên truyền rất nhiều về những kẻ ngụ cư, nhen lên mối hận thù của chúng tôi với họ. Anh ta không những không nhặt con gà gô dưới chân chị, mà còn đưa nốt con gà gô trên tay rồi đi luôn, không nói câu nào.

Chị Ba cầm hai con gà gô về nhà, để mẹ ăn phần thịt, các chị và thằng khốn húp xương ninh nhừ, còn xương không thì dành cho bà nội. Bà nhai rôm rốp. Chị Ba giữ bí mật cho riêng mình về chuyện anh chàng ngụ cư cho chị gà gô. Rất nhanh, gà gô biến thành mùi vị thơm ngon của sữa, chảy vào dạ dày tôi. Một bận, nhân lúc tôi ngủ, mẹ thử nhét vú vào miệng thằng khốn Tư Mã, nhưng nó từ chối. Nó lớn lên nhờ rễ cỏ vỏ cây, ăn khỏe kinh khủng, thứ gì đưa vào là hắn ăn tuốt. Đúng là một con lừa, mẹ nói vậy, số mi là số ăn cỏ. Phân của nó thải ra cũng giống như phân lừa, phân ngựa. Hơn thế, mẹ còn cho rằng nó có những hai dạ dày, biết nhai lại. Thường trông thấy cỏ dại ợ ra trong miệng nó. Nó lim dim mắt nhai rào rạo có vẻ rất ngon lành, mép sùi bọt trắng. Nhai kỹ rồi, nó dưới cổ nuốt ục một cái vào bụng.

Dân làng trong thôn mở cuộc chiến với dân ngụ cư. Trước tiên, ông Ba Phàn nói lý với bọn chúng, mời chúng đi khỏi địa phận chúng tôi. Đại biểu dân ngụ cư lại chính là chuyên gia về săn bắt chim, có biệt hiệu là Hàn Chim, người đã tặng chị Ba hai con gà gô. Tay giữ chặt cây cung bắn liên châu, anh ta cũng dùng lý lẽ để bác bỏ, không chút nhân nhượng. Anh ta nói rằng, vùng Cao Mật vốn là đất vô chủ, đất hoang, mọi người đều là dân từ nơi khác đến, các ông ở được, tại sao chúng tôi không được ở? Lời đi tiếng lại, thành ra cãi nhau, cãi hăng quá biến thành xỉa xói, giằng kéo. Trong thôn có một anh chàng hung hăng biệt hiệu là Sáu-bạo-phổi, từ phía sau ông Ba Phàn nhảy vọt ra, nhằm đầu bà mẹ Hàn Chim vụt một gậy sắt. Bà lão vỡ óc, chết tại chỗ. Hàn Chim rú lên một tiếng như con sói bị thương, rút cây cung bắn một phát đạn đôi, vỡ tung hai mắt của Sáu-bạo-phổi. Tiếp theo là một cuộc hỗn chiến. Những người ngụ cư yếu thế. Hàn Chim cõng xác mẹ, vừa đánh vừa rút lui về dưới chân Bãi-Cát-Dài. Hàn Chim đặt xác mẹ xuống, đặt đạn vào đây cung nhằm ông Ba Phàn, nói:

- Lão đầu sỏ kia, không nên cạn tàu ráo máng. Con giun xéo lắm cũng quằn đấy!

Lời chưa dứt, một tiếng phụt, viên đạn xé rách tai trái ông Ba Phàn. Hàn Chim nói:

- Ta nể lão cũng là người Trung Quốc, tha chết cho lão!

Ba Phàn ôm cái tai rách đôi, lẳng lặng rút lui.

Những người ngụ cư dựng lên mấy chục túp lều từ chân Bãi-Cát-Dài, giành lấy chỗ đứng cho mình. Mười mấy năm sau, nơi dây trở thành thôn trang. Lại qua đi mười mấy năm, trở thành một thị trấn phồn hoa, nhà cửa nối liền với trấn Đại Lan, chỉ một khoảng trống là cái đầm lớn và một con đường nhỏ. Những năm 90, Đại Lan trở thành thành phố, thị trấn Bãi-Cát-Dài trở thành khu Loan Tây của thành phố. Khi ấy, nơi đây xây dụng một Trung tâm nuôi chim phương Đông; những giống chim quý đã tuyệt chủng ở nhiều nước, có thể mua được ở đây. Đương nhiên, việc mua bán chim thú quí phải tiến hành bí mật. Người sáng lập Trung tâm Chim là con trai Hàn Chim, có biệt hiệu Hàn Vẹt. Hàn Vẹt giàu lên nhờ nuôi dưỡng, nhân giống và lai tạo giống mới, giống chim vẹt, và được sự trợ giúp của vợ là Cảnh Liên Liên, anh ta vang bóng một thời, sau đó bị ngồi tù.

Hàn Chim chôn mẹ trên Bãi-Cát-Dài. Tay xách cung, nói giọng vùng khác, anh ta đi hai vòng trên phố, miệng thì chửi bới, ý tứ như sau:

- Tao bây giờ là thằng độc thân, giết một người hòa vốn, giết hai người lãi một. Mong các người coi như không có chuyện gì xảy ra.

Tấm gương Sáu-bạo-phổi mù cả hai mắt và lão Ba Phàn đứt đôi vành tai sờ sờ ra đấy! Những người trong thôn không ai muốn dằn mặt anh ta. Với lại, chị Ba nói, người ta đã phải trả giá bằng cái chết của bà mẹ rồi.

Từ đó, dân ngụ cư và dân trong thôn chung sống hòa bình với nhau, tuy bằng mặt chẳng bằng lòng. Chị Ba và Hàn Chim hầu như mỗi ngày đều gặp nhau ở nơi lần đầu họ gặp nhau, tặng gà gô cho nhau, lúc đầu làm ra vẻ ngẫu nhiên, sau đó trở thành hẹn ước nơi điền dã, chưa gặp mặt thì chưa về. Hai bàn chân chị Ba đã biến nơi hẹn hò thành một mảnh đất trống trơn, không cỏ nào mọc được. Mỗi lần gặp, Hàn Chim đều không nói gì, chỉ bỏ chim lại rồi đi, lúc thì đôi chim gáy, lúc con vịt trời.

Một bận, anh ta bỏ lại một con chim cực lớn, dễ đến ba mươi cân, chị Ba vất vả lắm mới vác được nó về nhà. Ngay cả ông Ba Phàn là người hiểu rộng biết nhiều cũng không biết nó là chim gì. Tôi chỉ biết rằng thịt nó cực ngon, tất nhiên là tôi cảm nhận mùi vị ấy qua sữa của mẹ.

Ông Ba Phàn cậy vào mối quan hệ thân mật với gia đình tôi, đặc biệt lưu ý mẹ tôi về mối quan hệ giữa chị Ba với Hàn Chim. Những lời ông nói rất kém giá trị, thối tha nữa là khác:

- Cô cháu đâu này, con đĩ nhà mình với thằng bắt chim ấy mà... Hừm, bại hoại luân thường! Mọi người thấy chướng mắt lắm!

Mẹ nói:

- Nhưng nó còn nhỏ mà?

Ông Ba Phàn nói:

- Con gái nhà chị khác con nhà người ta!

Mẹ vặc lại một câu:

- Cái bọn rỗi hơi ấy cho chúng nó xuống địa ngục!

Tuy mẹ cãi lại ông Ba Phàn, nhưng khi chị Ba lễ mễ vác con sếu đầu đỏ về nhà, mẹ đã nói chuyện nghiêm chỉnh với chị:

- Lãnh Đệ! - Mẹ nói - nhà mình không ăn thịt chim của người ta nữa?

Chị Ba nhướng mắt hỏi:

- Sao thế, mẹ? Anh ấy bắt chim còn dễ hơn mình bắt rận ở trên người?

Mẹ nói:

- Dễ mấy cũng là người khác bắt, con không hiểu câu há miệng mắc quai hay sao?

Chị Ba nói:

- Sau này ta sẽ trả nợ anh ấy?

Mẹ hỏi:

- Lấy gì để trả?

Chị Ba nhẹ như không:

- Con lấy anh ấy.

Mẹ nghiêm sắc mặt:

- Lãnh Đệ, hai chị con đã đủ cho nhà Thượng Quan xấu hổ rồi, đến lượt con, nói gì thì mẹ cũng không chịu đâu?

Chị Ba vùng vằng:

- Mẹ nói hay nhỉ! Nếu không có anh ấy, liệu nó có được như vậy không?

Chị Ba chỉ vào tôi, lại chỉ vào thằng khốn nhà Tư Mã:

- Và cả nó nữa!

Mẹ nhìn khuôn mặt hồng hào của tôi và khuôn mặt hồng hồng của thằng nước nhà Tư Mã, không nói lại được câu nào. Lặng đi một lúc, mẹ nói:

- Lãnh Đệ, từ nay trở đi không thèm ăn thịt chim của nó nữa!

Hôm sau, chị Ba xách về một xâu chim cu ngói, giận dỗi quẳng dưới chân mẹ.

Thấm thoát đã sang tháng Tám, từng đàn chim nhạn từ phương xa bay về, đậu trên vùng đầm phía tây nam thôn tôi. Người trong thôn và dân ngụ cư dùng lưỡi câu, dùng lưới - những phương thức cổ lỗ - để bắt chim nhạn. Lúc đầu bắt được rất nhiều, đến nỗi chỗ nào cũng có lông nhạn, nhưng rồi những con nhạn tinh khôn ra, không đỗ ở những nơi rất sâu trong đầm lầy, ngay cả những con cáo cũng không thể đặt chân tới, khiến những mánh lới của mọi người đều đã tràng xe cát, chỉ có chị Ba mỗi ngày đem về một con nhạn khi còn sống, lúc đã chết, có trời mới biết Hàn Chim làm thế nào để bắt được chúng.

Trước sự thực đó, mẹ đành thỏa hiệp, vì rằng nếu không ăn thịt chim của Hàn Chim cho, chúng tôi sẽ thiếu dinh dưỡng; sẽ như phần lớn số người trong thôn, phù thũng, thở nặng nhọc, hai mắt đỏ như lửa cứ nháy liên tục. Mà nhận chim của Hàn Chim thì chắc chắn là có một con rể chuyên gia về săn bắt chim tiếp theo rể đội trưởng Đội Hỏa mai và rể chuyên gia phá cầu.

Buổi sáng ngày mười sáu tháng Tám, chị Ba lại ra chỗ cũ để lấy chim. Chúng tôi ngồi đợi ở nhà. Mọi người đã ngán ăn thịt nhạn có vị có xanh, hi vọng Hàn Chim đổi khẩu vị, cho chúng tôi loại chim khác. Chúng tôi không dám mơ ước chị Ba lại đem về một con chim cực lớn, thịt thơm ngon như ngày nào, nhưng rất có thể chị đem về đại loại như vịt trời, chim cút, cu gáy, ngỗng trời chăng hạn.

Chị Ba trở về tay không, hai mắt đỏ như hạt đào vì khóc. Mẹ hỏi nguyên do, chị nói:

- Hàn Chim đã bị một bọn mặc quân phục đen, đeo súng trường, cưỡi xe đạp bắt đi rồi... Cùng bị bắt là mười mấy thanh niên trai tráng. Họ bị trói thành một xâu. Hàn Chim cố vùng ra, bắp thịt ở vai gồng lên như những quả bóng nhỏ. Bọn lính dùng báng súng nện vào mông vào lưng, đá vào chân Hàn Chim. Anh ta vằn mắt lên, đỏ quạch như sắp bật máu hoặc sắp tóe lửa. - Các ông bắt tôi vì tội gì - Hàn Chim gào lên. Một tên tiểu đầu mục bốc một nắm bùn ném vào mặt Hàn Chim bịt kín cả hai mắt. anh ta gầm thét như con thú cùng đường. Chị Ba chạy vượt lên gọi to: Anh Hàn Chim... Dừng lại! Chị gọi nữa: - Anh Hàn Chim. Bọn lính nhìn chị, cười đểu cáng. Cuối cùng, chị Ba nói: - Hàn Chim, em đợi anh! Hàn Chim quát to: Cút mẹ cô đi, ai cần cô đợi?