Báu vật của đời - Chương 02 - Phần 08 - 02

Mẹ kéo tay chị ngồi xuống ghế. Chính ủy Tưởng móc ra một điếu thuốc lá, gõ gõ đầu thuốc lên móng tay cái rồi lục lọi các túi rõ ràng là tìm diêm. Không thấy! Chị Cả cười nhạt, trong cái rủi có cái may. Anh ta đến bên chiếc đèn, miệng ngậm điếu thuốc, châm phía trên ngọn lửa. Anh ta nheo mắt, hít bập bập. Ngọn lửa kéo dài trong chụp. Đầu điếu thuốc đỏ lên rồi bắt cháy. Anh ta ngẩng lên, gỡ điếu thuốc trên miệng, ngậm miệng lại rồi tuôn khói ra hai lỗ mũi. Bên ngoài thôn vọng lại tiếng mìn nổ cửa kính rung leng keng, những đốm lửa nhảy múa trên không. Tiếng gào khóc, tiếng quát tháo lúc gần lúc xa, lúc rõ mồn một. Chính ủy Tưởng mỉm cười với thái độ khiêu khích, nhìn chị Lai Đệ.

Chị Lai Đệ như ngồi phải gai, nhấp nhổm trên ghế, đến nỗi cái ghế kêu kèn kẹt. Mặt chị trắng nhợt, hai tay bám thành ghế run bần bật.

- Đội kỵ binh của Lữ trưởng Lượng rơi vào trận địa mìn rồi! - Chính ủy Tưởng ra vẻ tiếc rẻ, nói tiếp - Tiếc mấy chục con ngựa quá!

- Các ông... đừng tưởng bở!

Chị Cả vịn ghế đứng dậy. Một loạt tiếng nổ dữ dội hơn, ấn chị ngồi xuống. Chính ủy Tưởng đứng lên, thanh thản gõ gõ tấm ngăn bằng ván gỗ giữa phòng xép với dại sảnh, làm như nói một mình:

- Toàn là thông dầu, ngôi nhà này dùng hết bao nhiêu gỗ? Anh ta ngước nhìn chị Cả, hỏi: - Bà đoán xem, dùng hết bao nhiêu gỗ: dầm xà, cửa ra vào, cửa sổ, sàn, ván thung, bàn ghế.

Chị Cả nhấp nhổm không yên. Phải cả một cánh rừng chứ chả chơi! Chính ủy Tưởng xót xa, làm như cánh rừng bị chặt quang đang trải ra trước mắt anh ta. Sớm muộn phải thanh toán chuyện này! - Nét mặt rầu rầu, rồi quên phắt cánh rừng bị tàn phá, anh ta đi tới trước mặt chị Cả, đứng dạng chân thành hình chữ A, tay phải chống nạnh, khuỷu tay gập lại thành một góc nhọn. - Tất nhiên, chúng tôi cho rằng Sa Nguyệt Lượng có khác với những kẻ cam tâm làm Hán gian. Ông ta có một lịch sử chống Nhật rất vẻ vang. Nếu ông ta quyết tâm sưa chữa sai lầm, chúng tôi vui lòng gọi ông ta là đồng chí. Bà Lượng này, lát nữa chúng tôi bắt được ông ấy, bà nên khuyên răn ông ấy một tí!

Chị Cả ngồi nhũn ra trên ghế, rít lên:

- Các ông không thể bắt được anh ấy! Tưởng bở! Xe Jeep Mỹ nhanh hơn ngựa của các ông!

- Mong rằng như thế.

Chính ủy Tưởng nói. Anh ta bỏ tay xuống, hai chân cũng đổi thế đứng. Anh ta rút một điếu thuốc dưa cho Lai Đệ. Lai Đệ co người lại theo bản năng, chính ủy Tuởng đưa dấn theo. Lai Đệ vênh mặt quan sát nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt của chính ủy Tưởng. Chị rụt rè giơ tay ra, bàn tay có những ngón ám khói thuốc, dùng hai ngón tay kẹp điếu thuốc. Chính ủy Tưởng vẩy tàn điếu thuốc trên tay, thổi phù một cái cho nó đỏ lên, rồi đưa tới trước mặt chị Cả. Chị Cả lại vênh mặt lên, chính ủy Tưởng vẫn mỉm cười. Chị Cả vội ngậm điếu thuốc, dướn về phía thuốc, châm lửa ở đầu diếu thuốc trên tay chính ủy Tưởng. Tôi nghe rõ tiếng bập môi của chị. Mẹ thẫn thờ nhìn bức tường, chị Sáu và cậu ấm nhà Tư Mã nửa thức nửa ngủ, Sa Tảo Hoa không động cựa. Khói thuốc tỏa ra trên mặt chị Cả. Chị ngửa mặt, người ngả về phía sau, tay buông thõng. Ngón tay kẹp điếu thuốc ướtnhèm y hệt con cá trạch lôi ra khỏi nước. Lứa ở đầu điếu thuốc bén rất nhanh về phía môi chị. Đầu tóc rối bù, những nếp nhăn hằn hai bên mép, mắt thâm quầng. Nụ cười tắt dần trên môi chính ủy Tưởng như giọt nước cạn dần trên tấm thép nóng, từ xung quanh cạn vào giữa, cuối cùng còn như một mũi kim, lóe lên một cái rồi biến mất. Anh ta quẳng mẩu thuốc đã bén sát ngón tay, dùng chân đi cho tắt hẳn, rồi bước những bước dài, đi ra.

Có tiếng hét to từ phòng khách bên cạnh vọng lại:

- Nhất định phải bắt sống Sa Nguyệt Lượng, dù hắn rúc vào hang chuột cũng phải đào mà lôi ra!

Tiếp theo là tiếng đèn pin dằn mạnh xuống bàn.

Mẹ ái ngại nhìn chị Cả đang ngồi nhũn ra trên ghế như bị rút hết xương, buộc tới cầm lấy những ngón tay ám khói thuốc của chị, lắc đầu. Chị Cả tụt từ trên ghế xuống, quì trước mặt mẹ, miệng lập bập như đang mút vú, những tiếng kêu kỳ quặc tuôn ra, lúc đầu tôi tưởng chị cười, nhưng ngay lập tức tôi biết là chị khóc. Chị quệt nước mắt nước mũi vào chân mẹ. Chị nói:

- Mẹ ơi, không có lúc nào là con không nhớ mẹ, nhớ các em...

Mẹ hỏi:

- Hối hận rồi ư?

Chị Cả do dự một thoáng, lắc đầu. Mẹ nói:

- Vậy là tốt, làm gì thì cũng do Chúa sắp dặt, hối hận là trái ý Chúa!

Mẹ trao Sa Tảo Hoa cho chị, nói:

- Ngắm nó một lúc đi!

Chị Cả vuốt nhẹ khuôn mặt đen nhẻm của con bé, nói:

- Mẹ, nếu họ xử bắn con thì mẹ nuôi cháu cho con.

Mẹ nói:

Họ không bắn chết con thì mẹ vẫn nuôi con bé!

Chị Cả định trao lại bé Hoa cho mẹ, mẹ bảo:

- Hãy bế nó một tí, mẹ còn cho Kim Đồng ti sữa.

Mẹ bước tới bên ghế, vén áo lên. Tôi quì trên ghế ti vú mẹ. Mẹ nâng tà áo, khom lưng xuống, nói:

- Bình tâm mà xét, tay Lượng không phải đồ tồi, chỉ riêng chuyện những con thỏ treo trên cây, mẹ cũng phải nhận anh ta là con rể. Nhưng anh ta không làm nên trò trống gì đâu, chỉ chuyện mấy con thỏ, mẹ biết anh ta không làm nên trò trống gì. Gộp cả hai đứa cũng không địch nổi lão Tưởng. Lão là loại thâm hiểm, mát nước thối đá.

Nhớ lại khi trước, những con thỏ treo đầy các cây trong vươn khiến mẹ tức điên lên. Vậy mà trong khoảnh khắc, chính những con thỏ đó lại là lý do để mẹ nhận Sa Nguyệt Lượng là con rể. Và cũng vẫn những con thỏ đó, là cơ sở để mẹ đoán chắc Sa Nguyệt Lượng sẽ thua chính ủy Tưởng.

Vào lúc tranh tối tranh sáng trước bình minh, một đàn chim thước đi bắc cầu trên sông Ngân trở về đậu trên nóc nhà, kêu chiêm chiếp vì mệt mỏi. Lũ chim thước làm tôi thúc giấc. Tôi nhìn thấy mẹ bồng Sa Tảo Hoa ngồi trên ghế, còn tôi thì ngồi trên đầu gối lạnh ngắt của chị Lai Đệ Chị ôm chặt eo tôi bằng hai cánh tay thanh mảnh của chị. Chị Sáu và công tử nhà Tư Mã ngủ gối đầu lên nhau. Chị Tám ngồi tựa bên mẹ như cũ. Cặp mắt mẹ vô cảm, hai mép trễ xuống chúng tỏ đã quá mệt mỏi.

Chính ủy Tưởng bước vào đưa mắt nhìn chúng tôi, nói:

- Bà Lượng, có đi thăm ông Lượng một chút không?

Chị Cả đẩy tôi ra, đứng phắt dậy, giọng khản di:

- Ông nói láo?

Chính ủy Tưởng chau mày, nói:

- Láo hả? Vì sao tôi phải nói láo kia chứ? - Anh ta bước tới bên bàn, cúi xuống thổi tắt ngọn đèn. Những tia nắng lập tức ùa vào phòng. Anh ta ngả tay ra, lễ phép - chưa hẳn là lễ phép mời. - Xin mời, vẫn chỉ một câu thôi, chúng tôi không muốn bịt chặt tất cả các ngả đường. Nếu ông Lượng quay lại thì có thể cho ông giữ chức đại đội phó đại đội bộc phá.

Chị Cả bước ra như một cái máy, ra đến cửa, chị quay lại nhìn mẹ. Chính ủy Tưởng nói:

- Bác có thể đi cùng, cả các em bé nữa.

Chúng tôi đi qua rất nhiều lần cửa nhà Tư Mã, qua những sân trong mà sân nào cũng giống sân nào. Đi qua năm lớp sân, chúng tôi nhìn thấy ở sân chính có nhiều thương binh, cô Đường đang băng bó cho một thương binh bị thương ở chân. Chị Năm Phán Đệ đang phụ với cô Đường. Chị chăm chú đến nỗi không phát hiện ra chúng tôi. Mẹ nói nhỏ với chị Cả:

- Đó là em Năm của con.

Chị Cả liếc nhìn chị Năm. Chính ủy Tưởng nói:

- Chúng tôi đã phải trả giá quá đắt! Sân trong thứ sáu có kê một bộ ván trên đặt cái xác, che mặt bằng miếng vải trắng. Chính ủy Tưởng nói:

- Đại đội trưởng Lỗ của chúng tôi đã anh dũng hi sinh, tổn thất không thể lường được.

Anh ta lật miệng vải, chúng tôi trông thấy một khuôn mặt chữ điền, râu quai nón, đầy máu. Anh ta nói:

- Các chiến sĩ chỉ muốn lột da Sa Nguyệt Lượng, nhưng chính sách không cho phép. Bà Lượng này, sự chân thành của chúng tôi có lẽ trời đất quỉ thần cũng phải cảm động chứ nhỉ? Qua sân trong thứ bảy, vòng qua một bức tường làm bình phong, chúng tôi đã đứng ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, trên bậc tam cấp.

Trên đường phố, những binh sĩ của đại đội bộc phá chạy đi chạy lại như kiến vỡ tổ. Mặt người nào người ấy lấm đầy bụi đất. Mười mấy binh sĩ dắt mười mấy con ngựa dọc theo phố đi từ dông sang tây. Có mấy binh sĩ chỉ huy mấy chục người dân, dùng dây thùng kéo một chiếc xe Jeep đi ngược lại từ tây sang đông. Hai tốp gặp nhau ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, hai người có vẻ như tiểu đầu mục cùng chạy lên, cùng đứng nghiêm, cùng giơ tay chào, cùng báo cáo lên chính ủy. Một người báo cáo thu được mười ba con ngựa. Một người báo cáo tịch thu được một chiếc xe Jeep, đáng tiếc là bị vỡ két nước, đành cho trâu kéo về. Chính ủy Tưởng nhiệt liệt biểu dương họ. Trong khi biểu dương, các binh sĩ đứng ưỡn ngực, mắt sáng lên.

Chính ủy Tưởng dẫn chúng tôi đến cổng nhà thờ. Hai bên cổng có mười sáu binh sĩ bồng súng đứng gác. Tưởng giơ tay, đám lính gác đứng nghiêm, bồng súng chào. Đám phụ nữ trẻ con chúng tôi nghiễm nhiên trở thành những vị tướng đi quan sát chiến trường.

Có khoảng sáu mươi tù binh quân phục xanh chen chúc ở góc dông nam trong sân nhà thờ, trên đầu họ là những tấm liếp bị hư hỏng vì nước mưa, mọc đầy nấm. Trước mặt họ là bốn binh sĩ xếp hàng ngang, tay cầm tiểu liên, tay trái nắm băng đạn cong cong như sừng trâu, tay phải dặt trên báng súng bóng mịn như đùi phụ nữ, ngón tay trỏ lồng vào lẫy cò như chiến lưỡi vịt. Họ quay lưng về phía chúng tôi. Sau lưng họ là một đống thắt lưng bằng da bò trông như những con rắn chết. Các tù binh muốn đi lại, phải hai tay giữ cạp quần.

Một nét cười thoáng qua trên nét mặt chính ủy Tưởng. Anh ta húng hắng ho, có lẽ để gây sự chú ý. Các tù binh uể oải ngẩng đầu nhìn chúng tôi. ánh mắt họ chợt lóe lên, có người chớp một cái, người hai cái, người ba cái, người bốn năm cái, người nhiều nhất không quá chín cái Những ánh mắt lạ lùng đó là do sự có mặt của chị Lai Đệ, nếu như chị đúng như lời chính ủy Tưởng, là một nửa của Sa Nguyệt Lượng trong công tác chỉ huy bộ đội. Không rõ do một tình cảm nào đó chi phối, chị Cả đỏ hoe mắt, mặt trắng nhợt, đầu cúi gập xuống ngực. Những tù binh này khiến tôi phảng phất nhớ lại những con lừa đen của đội Hỏa-mai. Họ tụ tập trong nhà thờ này, và cũng thích cái góc này. Hai mươi tám con lừa ghép thành mười bốn cặp, con nọ gặm yêu mông con kia, chăm sóc cho nhau, yêu mến lẫn nhau, giúp đỡ lân nhau. Một đội lừa đoàn kết thân mật đã bị diệt ở nơi nào? Ai đã diệt đội lừa? Bị diệt ở núi Tai Ngựa bởi đội du kích của Tư Mã Khố, hay ở gò Khuỷu Tay bởi đội Tiện Y Nhật Bản? Trong cái ngày thiêng liêng làm lễ rửa tội cho tôi, mẹ bị cưỡng hiếp. Chúng là những tên lính quân phục xanh của đội Hỏa-mai, là kẻ thù của tôi. Giờ đây, nhân danh Cha, Con và thánh thần, phải trừng phạt chúng, A men!

Chính ủy Tưởng dọn giọng, nói:

- Các anh em lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, đã đói chưa?

Các tù binh lại ngẩng lên, có người định trả lời nhưng không dám, có người không thèm trả lời. Một vệ binh đứng bên cạnh chính ủy Tưởng nói:

- Các ông trẻ, điếc cả rồi hay sao? Chính ủy đại đội hỏi các người đấy!

- Không được mắng người ta!

Chính ủy Tưởng khiển trách nghiêm khắc anh vệ binh. Anh vệ binh đỏ mặt, cúi đầu xuống. Tưởng nói:

- Các anh em, biết anh em vừa đói vừa khát, người nào mắc bệnh dạ dầy chắc đang đau hoa cả mắt, lạnh cả sống lưng. Hãy kiên nhẫn, cơm sắp có rồi. ở đây điều kiện thiếu thốn, chẳng có gì ngon, tạm nấu nồi cháo đậu xanh để anh em ăn cho đỡ đói, đỡ khát. Buổi trưa chúng ta ăn màn thầu bằng bột mì trắng, rau phỉ xào thịt ngựa.

Các tù binh tỏ vẻ vui mừng, vài người còn mạnh dạn nói chuyện riêng với nhau.

Chính ủy Tưởng nói:

- Ngựa chết nhiều lắm, toàn là ngựa tốt, rất tiếc, các anh đã sa vào bãi mìn của chúng tôi! Lát nữa thịt ngựa mà các anh ăn, rất có thể là con ngựa mình cưỡi. Nói rằng lừa ngựa là quân tử, những dù sao vẫn là lừa ngựa, các bạn cứ ăn thỏa thích, con người là chúa tể mà lại!

Đang nói chuyện ngựa thì hai người lính già khênh một thùng to từ ngoài cổng đi vào, vừa đi vừa hò nhường đường. Hai chú lính trẻ bê hai chồng bát to tướng cao đến tận cằm, chệnh choạng bước theo sau.

- Cháo đây, cháo đây? Người lính già hét to, làm như có ai cản đường không bằng. Chú lính trẻ ôm chồng bát trước bụng, loay hoay tìm chỗ đặt xuống. Hai người lính già cùng nhún thấp xuống, khi cái thùng chạm đất thì họ cũng vừa vặn ngồi xổm. Hai chú lính trẻ vẫn giữ cho thân ở tư thế thẳng đuỗn đồng thời khuỵu hai chân, đặt chồng bát xuống nền nhà, rồi loạng choạng đứng dậy, lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt.

Chính ủy Tưởng cầm lấy chiếc môi lớn bằng gỗ, khuấy cháo cho đều, hỏi người lính già:

- Cho đường đỏ chưa?

Người lính già nói:

- Báo cáo chính ủy, không kiếm được đường đỏ, phải lấy đường trắng của nhà họ Tào. Bà cụ nhà họ Tào tiếc của, cứ ôm chặt cái hũ, không bỏ tay ra...

- Được, chia cháo đi - Chính úy vừa nói vừa đặt cái môi xuống, rồi như chợt nhớ ra, quay lại sốt sắng hỏi chúng tôi: - Nên chăng mỗi người làm một bát?

Chị Cả lạnh nhạt:

- Ông chính ủy mời chúng tôi đến đây, chắc không phải đến để ăn cháo?

Mẹ nói:

- Sao lại không ăn? Bác Trưởng, cho mẹ con chúng tôi mấy bát!

Chị Cả nói:

- Mẹ cẩn thận thuốc độc!

Chính ủy Tưởng cười lớn, nói:

- Bà Lượng tưởng tượng phong phú quá đấy?

Anh ta múc một môi đầy giơ lên rồi từ từ rót xuống để mọi người thấy cháo ngon như thế nào. Mùi thơm tỏa ra xung quanh. Anh ta đặt cái môi xuống, nói:

- Cháo này đã bỏ vào hai gói thạch tín, hai gói thuốc chuột, ăn vào bụng, đi năm bước đứt ruột đứt gan, đi bảy bước thất khiếu chảy máu, có ai dám ăn không nào?

Mẹ bước tới cầm bát lên, dùng ống tay áo lau sạch bụi đất, rồi cầm môi múc đầy bát cháo, đưa cho chị Cả. Chị Cả không cầm. Mẹ nói:

- Vậy mẹ ăn bát này.

Mẹ thổi phù phù, húp thử một ít, rồi húp nhiều hon. Mẹ múc ba bát nữa, đưa cho chị Sáu chị Tám và cậu ấm nhà Tư Mã.

Các tù binh nói:

- Múc cho chúng tôi, múc cho chúng tôi, độc hay không độc cũng xin ba bát.

Hai lính già cầm môi, hai lính trẻ đưa bát, bát nọ tiếp bát kia. Những chú lính cầm súng đứng dạt sang một bên, chênh chếch với chúng tôi. Chúng tôi nhìn được mắt họ. Mắt họ chỉ nhìn đám tù binh. Cái tù binh đứng cả dậy, tự động xếp thành hàng, một tay giữ quần, một tay buông thõng, đợi đến lượt. Người nào đã có bát cháo trong tay thì hết sức thận trọng, sợ ngón tay bị bỏng. Các tù binh, người nọ tiếp người kia, tay giữ quần, tay bê bát cháo đi vòng xuống phía sau, ngồi xuống, bê cháo bằng cả hai tay, vừa thổi vòng quanh vừa húp. Người nào có kinh nghiệm thì húp từng người nhỏ, húp người to là bỏng miệng. Cậu ấm nhà Tư Mã chưa có kinh nghiệm, húp ngay một người to, nhổ ra không được, nuốt vào không trôi, bỏng đến nỗi nước mắt ràn rụa. Một tù binh khi đưa tay ra nhận bát cháo, khẽ gọi:

- Chú dượng ơi!

Người lính già cầm môi ngẩng lên nhìn.

- Chú dượng không nhận ra cháu sao? Cháu là Xương đây mà!

Người lính già đập cái môi vào mu bàn tay chú tù binh, mắng:

- Ai là chú dượng của mày? Lầm rồi! Ta không có thằng cháu nào làm Hán gian, mặc quân phục xanh cả!

Tù binh Xương ái một tiếng, bát cháo đổ ụp xuống bàn chân, anh ta lại ái một tiếng nữa, vội bỏ tay giữ quần để xoa chân bị bỏng, cái quần tụt xuống đến đầu gối, để lộ chiếc quần lót đen bẩn, anh ta lại ối một tiếng, hai tay xốc quần lên. Khi anh ta đứng thẳng người lên, hai mắt đã mọng nước.

- Lão Trương, phải có kỷ luật chứ - Chính ủy Tưởng nổi giận - Ai cho phép lão đánh tù binh? Báo cho quân pháp, phạt giam ba ngày bây giờ?

Lão Trương lầu bầu:

- Nó dám bảo tôi là chú dượng nó!...

Chính ủy Tưởng nói:

- Lão đúng là chú dượng nó, úp mở mà làm gì?

Động viên nó tham gia đội bộc phá của ta! Chú em, bỏng ra sao? Lát nữa y tá đến, bôi tí thuốc mỡ 202 là khỏi. Cho chú ta bát khác, thêm ít đậu vào! Chú lính rủi ro được bát cháo ưu đãi, tập tễnh lui về phía sau. Những người khác nhích lên.

Giờ đây, tất cả tù binh đều đang ăn cháo, tiếng húp soạn soạt vang lên đây đó. Hai người lính già và hai chú lính trẻ tạm thời không có việc làm. Chú lính trẻ liếm môi, chú kia nhìn chúng tôi chằm chằm. Bác lính già dùng môi vét đáy thùng vì không biết làm gì, còn bác kia thì lấy túi thuốc và tẩu ra định hút thuốc. Tôi lợm giọng đẩy bát cháo ra. Cái miệng của tôi không quen với bất cứ thứ gì, trừ bầu vú của mẹ.

Chị Cả hừ lên một tiếng bằng giọng mũi, chính ủy Tưởng nhìn chị, nét mặt chị cũng biểu lộ sự khinh miệt cực dộ. Chị nói:

- Tôi cũng nên húp một bát chứ nhỉ?

Chính ủy Tưởng nói:

- Nên quá đi chứ, bà nhìn lại khuôn mặt bà xem, như một quả cà héo! Lão Trương, múc cho bà Lượng một bát, đặc đặc vào!

Chị Cả nói:

- Tôi thích loãng.

Chính ủy Tưởng nói:

- Loãng đấy!

Chị Cả bê bát cháo, húp một ngụm, nói:

- Có đường thật, chính ủy Tưởng, tôi khuyên ông cũng nên húp một bát, ông nói nhiều thế chắc khô cả cổ?

Chính ủy Tưởng nắn nắn cổ họng, nói:

- Đúng là hơi khát. lão Trương, cho tôi một bát, loãng thôi nhé!

Chính ủy Tưởng bưng bát cháo, cùng chị Cả thảo luận về các loại đậu. Anh ta kể rằng, ở quê anh ta có giống đậu xanh, đun sôi lên là nhuyễn thành bột, không như đậu xanh ở đây, phải ninh đủ hai tiếng đồng hồ mới nhuyễn. Hết chuyện đậu xanh lại bàn sang đậu vàng. Con người này như một chuyên gia về đậu. Hết tất cả các loại đậu chính ủy Tưởng chuyển sang bàn về lạc, nhưng vừa chuyển đê tài, chị Cả quăng cái bát xuống đất, hỏi:

- Anh Tưởng, anh chơi cái trò gì vậy?

Tưởng mỉm cười, nói:

- Bà Lượng, bà đa nghi quá! Ông nhà chắc sốt ruột vì chờ đợi rồi!

- Anh ấy ở đâu? - Chị Cả hỏi mỉa.

Tưởng nói:

- Tất nhiên là ở nơi mà các vị không thể quên!

Trước cổng nhà tôi, lính đứng gác còn nhiều hơn ở nhà thờ.

Ngay ở của vào chái đông còn một trạm gác nữa. Người trực gác là Tôn Bất Ngôn. Hắn ngồi trên khúc gỗ tròn dưới chân tường đùa nghịch thanh đao trong tay, Tiên Chim ngồi vắt vẻo trên chạc cây đào, tay cầm quả dưa chuột gặm từng tí một.

- Vào đi - Chính ủy Tưởng bảo chị Cả - Cố gắng khuyên ông ta, chúng tôi mong rằng, ông ta sẽ trở về với chính nghĩa.

Chị Cả bước vào trong chái đông, rú lên một tiếng. Chúng tôi chạy ùa vào: Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng loáng. Trong trí nhớ của tôi anh ta không cao lắm, nhưng giờ đây trông anh ta dài thượt.