Báu vật của đời - Chương 05 - Phần 03 - 02

Ông già quì sụp xuống đất, miệng lẩm bẩm những câu khó hiểu, dập đầu lạy như tế sao, nước mắt nước mũi chảy ràn rụa. Hàn Chim sốt ruột đụng vào ông già một cái, ông già kêu toáng lên như lợn bị chọc tiết rồi bỏ chạy. Hàn Chim kéo ông già lại, ông già cắn Hàn Chim một miếng vào tay. Hàn Chim nổi cơn điên, vó lấy con dao thái rau kề vào cổ ông già, dọa:

- Câm mồm, kêu lên là tôi giết ông?

Ông già im bặt, mắt chớp lia lịa. Hàn Chim nói:

- Anh Đặng này, đã đến nước này thì không thể làm khác, đưa cái của này lên thuyền, dùng dao bắt lão phải chở?

Ba người tìm được dao chẻ củi, gậy gộc, dùng dây ni lông trói ông già lại, rồi vừa đùn vừa đẩy ông ta ra bãi biển. Mặt biển đen kịt, gió gào thét. Nhưng vừa ra khỏi chỗ rẽ thì đã trông thấy một đám đèn đuốc rầm rập chạy tới. Ông già gỡ được dây trói, kêu toáng lên. Lão Đặng nói:

- Anh em, chạy thoát thân đi!

Họ chạy lên núi, buồn đến nỗi không ai nói một câu, ngồi chờ sáng, không biết làm gì. Hàn Chim nói:

- Tại sao cứ phải đi đường biển? Tôi không tin là Nhật Bản không có đất liền với Trung Quốc. Chẳng lẽ bọn lính Nhật đông như kiến cỏ đều lên tàu thủy sang Trung Quốc?

Chú Tốt nói:

- Vậy thì phải bao nhiêu là tàu, làm gì có nhiều tàu như thế?

Hàn Chim nói:

- Ta lần theo bờ biển, thế nào cũng có lúc gặp đường cái, đi vòng thì đi vòng, năm nay chưa gặp thì sang năm, đi miết thế nào cũng về đến Trung Quốc.

Lão Đặng nói:

- Cũng đành vậy thôi. Hồi đốn gỗ ở núi Trắng Bạch, tôi nghe nói Nhật Bản liền với Triều Tiên, chúng ta lên Triều Tiên đã rồi về Trung Quốc, chết bởi tay người Triều Tiên còn sướng hơn chết trong tay bọn Nhật?

Ba người đang trao đổi thì nghe thấy tiếng người ồn ào dưới chân núi, tiếng chó sủa và tiếng thanh la. Hỏng rồi, bọn Nhật lên núi lùng sục rồi! Lão Đặng nói:

- Chúng ta đừng để lạc nhau, một mình là bị chúng tóm đấy!

Nhưng rồi họ cũng bị mỗi người mỗi ngả. Hàn Chim nấp sau một bụi trúc, trông thấy một phụ nữ mặc chiếc áo quân phục cũ của đàn ông, hai tay cầm khẩu súng săn, bên trái bên phải là mấy ông già cầm dao chẻ củi, gậy gộc, theo sau là một bé trai dùng cán xẻng gõ vào chiếc chậu đồng cũ. Mấy con chó gầy nhom chạy phía trước, sủa ăng ăng. Có lẽ để thêm can đảm, người phụ nữ và mấy ông già vừa chạy vừa la hét hoặc đôi khi nổ một phát súng. Một con chó đen đốm trắng chạy đến trước bụi trúc có Hàn Chim nấp thì chững lại, cụp đuôi giữa hai chân sau, vừa giật lùi vừa sủa như điên. Trạng thái khác thường của con chó khiến người phụ nữ chú ý. Chị ta chĩa súng vào bụi trúc quát to, cánh tay khẳng khiu thò ra ngoài ống tay áo rộng, run bần bật. Hàn Chim từ trong bụi trúc nhảy vọt ra, chĩa dao xông thẳng vào người phụ nữ. Bị bất ngờ, chị ta quẳng súng bỏ chạy, Hàn Chim chém một nhát vào đầu chị ta, chiếc nón đội trên đầu bay đi một miếng, lộ ra mớ tóc vàng cháy. Chị ta rú lên một tiếng, ngã lăn ra. Hàn Chim chỉ ba bước nhảy đã khuất sau những lùm cây rậm rạp dưới khe.

Tiếng quát tháo của bọn Nhật, tiếng chó sủa náo động cả khu rừng.

Lão Đặng và chú Tốt bị bắt lại. Thế lại hóa may, sau khi Nhật đầu hàng được một năm, hai người được coi là tù binh, trao trả Trung Quốc. Còn người chạy thoát là Hàn Chim thì sau mười ba năm sống một mình trong rừng sâu, một người đi săn lôi từ trong hang tuyết ra vì tưởng nhầm con gấu ngủ đông mới thoát nạn. Khi mùa đông cuối cùng băng tuyết đầy trời bắt đầu, mái tóc Hàn Chim đã dài hơn một thước. Mấy năm đầu, anh đôi khi cắt ngắn bớt bằng con dao thái rau, nhưng sau vì mài nhiều, con dao hết nước thép, trở thành vô dụng, tóc anh cứ thế mà dài ra. Chiếc tạp đề và chiếc áo cánh phụ nữ đã rách như xơ mướp, anh vắt chúng lên bụi gai, còn anh thì che thân bằng rơm rạ ăn trộm ngoài đồng hoặc bao tải dựng phân hóa học, mỗi bước đi lại kêu sột soạt, chẳng khác quái vật thời khủng long. Giống như thú rừng, anh khoanh lấy lãnh địa của mình. Một bầy sói xám rất nể sợ anh, chưa bao giờ dám chọc tức anh. Anh biết bầy sói này là con cháu của cặp vợ chồng sói già. Mùa đông năm thứ hai, đôi vợ chồng sói này định xơi tái anh, anh cũng rất muốn lột da chúng để làm đệm. Thoạt đầu, hai bên cứ đứng xa mà chiếu tướng nhau. Hai con sói có vẻ sợ anh, nhưng tính kiên trì của loài thú ăn thịt, khiến chúng nằm phục hết đêm này sang đêm khác ở bên kia suối đối diện với hang anh ở.

Chúng ngẩng mặt hú dài dưới ánh trăng lạnh, tiếng hú thê thảm đến nỗi những vì sao run rẩy nhấp nháy liên tục. Về sau, không thể chịu đựng được nữa, anh ăn một lần hai suất rau câu, ăn thêm một đùi thịt nhím, tập trung tinh thần để tiêu hóa những thứ đã ăn, xoa bóp chân tay xương cốt, chuẩn bị xuất kích. Vũ khí chỉ có mỗi con dao thái rau đã sứt mẻ và chiếc gậy gỗ đầu vót nhọn để đào rễ cây. Anh đem theo cả hai, đẩy hòn đá chặn cửa hang, chui ra ngoài. Vợ chồng sói trông thấy một con vật mà chúng chưa bao giờ gặp, một con vật cao to mình đầy vảy vàng kêu loạt soạt, tóc trên đầu dài như làn khói, ánh mắt xanh biếc. Anh vừa quát tháo vừa tiếp cận vợ chồng sói, nhưng khi chỉ còn cách mấy bước, anh ngập ngưng khi nhìn thấy cái miệng rộng, hàm răng trắng nhởn, cái lưỡi đỏ chót của con sói đực, không dám tiến, cũng không dám lui, anh biết rõ bây giờ mà rút lui thì hậu quả sẽ như thế nào. Hai bên trong thế giằng co, con sói hú, anh cũng hú, thậm chí hú dài hơn, thê thảm hơn? Con sói nhe răng, anh cũng nhe răng, lại còn gõ sống dao vào gậy để trợ oai. Con sói nhảy nhót dưới trăng đuổi theo cái bóng của đuôi nó, anh cũng rung rung những thứ khoác trên người, giả vờ vui vẻ nhảy như điên, và quả thật anh rất vui vì trông thấy cái nhìn bè bạn và đầm ấm trong mắt con sói.

Tại buổi báo cáo thứ chín, Hàn Chim đưa thêm cuộc đối thoại giữa người và sói vào đoạn này. Miệng lưỡi anh bây giờ dẻo quẹo vì nói nhiều. Con sói - sói cái chứ không phải sói đực, phụ nữ bao giờ cũng khéo miệng: Hàn đại ca, ta kết bạn với nhau đi! Hàn Chim bĩu môi, nói: Kết thì kết, nhưng tôi nói để các người biết, giặc Nhật tôi còn không sợ, lẽ đâu tôi sợ các người? Sói đực nói: Đánh nhau thật chưa chắc anh đã thắng nổi chúng tôi! Trông kìa, răng anh đã lung lay, hàm anh đã yếu lắm rồi! Sói đực vừa nói vừa ngoạm một phát vào que củi to bằng bắp tay bên bờ suối, que củi gãy đôi. Hàn Chim lạnh cả người, nói: Tao có dao đây! Nói rồi giơ dao chém bay một miếng vỏ trên thân cây. Sói cái nói: Đàn ông các anh chỉ thích đánh nhau. Sói đực nói: Tôi biết anh cũng không phải tay vừa, vậy ta làm hàng xóm với nhau, không ai làm phiền ai, được không? Hàn Chim nghĩ: Mẹ kiếp, mình ở cái thế chẳng đừng, phải hòa giải với chúng, nhưng trong bụng thì sợ, nhưng vẫn phải nói cứng. Tôi nói: Được thôi, hàng xóm thì hàng xóm...

Đoạn đối thoại giữa nói và sói khiến đám đông dưới khán đài không nhịn được cười. Hàn Chim lại càng cao hứng định nói tiếp, khiến người điều khiển chương trình phải đề nghị anh nên chuyển sang chuyện khác. Kim Đồng tin rằng có thể có sự thỏa thuận ngầm giữa Hàn Chim và sói, vì rằng trong khi đánh bạn với động vật cậu vô cùng kinh ngạc về trí thông minh của chúng, chẳng hạn con dê cho cậu sữa thì cậu và nó chỉ thiếu nước nói chuyện với nhau như người.

Hàn Chim biết rất rõ mối quan hệ huyết thống của bầy sói, biết tuổi tác, thứ bậc trong bầy đàn, thậm chí sở thích của chúng. Ngoài bầy sói, ở hẻm núi này còn có một con gấu đực mắc bệnh tâm thần, nó ăn tất cả mọi thứ, rễ cây, lá cây, quả dại, động vật nhỏ. Nó bắt được những con cá vẩy bạc rất to dưới suối, nhai rau ráu, ăn cả vây như ăn củ cải. Một bận vào mùa xuân, nó tha về một cái chân phụ nữ, ăn không hết, nó vứt xuống suối. Ăn no rồi, con gấu không biết làm gì, bèn giải trí bằng cách nhổ cây. Trong lãnh địa của nó, tất cả những cây nhỏ đều bị nó nhổ bật gốc, không còn sót cây nào.

Rồi đến một hôm - trong buổi báo cáo lần thứ hai, Hàn Chim kể, anh ta có một cuộc ác đấu với con gấu. Anh sức yếu, bị con gấu quật ngã. Nó ngồi lên người anh, hai chân trước đấm thùm thụp lên ngực, cất tiếng cười điên dại. Dưới sức nặng của nó, anh có cảm giác xương cốt của mình bị gãy vụn. Trong lúc tuyệt vọng, anh bỗng nảy ra sáng kiến gãi dái con gấu. Nó khoái quá giơ cả hai chân lên. Anh vừa gãi vừa lấy sợi dây trong bọc ra, dùng một tay và miệng thắt thành cái thòng lọng rồi lồng vào cuống dái con gấu thắt lại, còn đầu kia thì buộc vào một gốc cây nhỏ bên cạnh. Sau đó anh luồn ra rồi bỏ chạy. Con gấu chồm lên đuổi theo và nó bị ngất luôn. Hàn Chim nói, cũng là đau nhưng đau ở dái thì kinh khủng, hoàn toàn không như đau ở chỗ khác, đàn ông biết rất rõ chuyện đó, những phụ nữ vô lại cũng biết rõ chuyện đó. Tóm được dái là coi như tóm được tính mạng. Câu chuyện của Hàn Chim khiến những người từng đến Quan Đông ngờ ngợ. Họ có được nghe chuyện như vậy với con gấu, nhưng người làm chuyện đó là một phụ nữ xinh đẹp, mà con gấu thì thuộc loại thích trêu ghẹo phụ nữ. Hàn Chim đang nổi tiếng nên họ đành để bụng, không ai dám bắt bẻ.

Theo lời Hàn Chim kể thì mùa đông cuối cùng anh sống trên một vách núi trông ra biển. Anh nói rằng, mười mấy năm nay, chỗ ở mùa đông của anh cứ nhích dần về đây. Anh đào một cái hang trên vách núi, cửa hang trông xuống một làng nhỏ dưới khe. Anh trữ trong hang một bó rau câu, một bó cá khô và hơn chục cân đậu ván. Sáng sớm và chiều tối mỗi ngày anh ngồi trong hang, hai tay thu trong bẹn, nhìn những cuộn khói bốc lên mà như ngây như dại, những mẩu hồi ức lướt qua trong đầu nhưng chỉ là những mảnh vụn, không sao ghép được một chuyện hoàn chỉnh, kể cả một khuôn mặt. Tất cả đều bập bềnh như trên mặt nước, thoắt cái đã thay đổi, không sao nắm bắt được. Khi tuyết đã phủ kín, người trong làng rất ít khi ra ngoài. Một con chó đi trên đường cũng để lại những dấu chân đen sì. Các ống khói trong làng ngày đêm tỏa khói. Bầy quạ cãi nhau suốt ngày trong rừng cây đầu thôn. Trên bãi cát có mấy chiếc thuyền cũ. Sát mép nước có một lớp băng mỏng, luôn luôn bị thủy triều ngày hai lần phá vỡ. Hàn Chim cứ ngồi thu lu như thế cả một mùa đông, đói quá thì nhấm nháp mấy cọng rau câu, khát thì nhai tuyết, chập chờn lúc ngủ lúc thức, đại tiện thì dùng tay bốc phân vứt ra ngoài hang. Một mùa đông chỉ đi đại tiện hơn chục lần.

Sang xuân tuyết tan, nước thấm xuống nóc hang. Khi anh ra ngoài hang vứt phân, đã trông thấy những mảng màu nâu của mái nhà, nước biển cũng chuyển màu xanh, nhưng trên núi thì vẫn trắng xóa. Một hôm, anh đoán khi đó là giữa trưa, bên ngoài hang có tiếng chân giẫm trên tuyết lạo xạo. Tiếng chân đi vòng quanh rồi lên trên nóc hang. Anh ngồi co rúm trong hang, hai tay không ôm bẹn nữa, mà ghì chặt chiếc xẻng đã mòn vẹt, sợ đến mụ người đi, mỏ hôi tay ướt đẫm, cứ tuột khỏi chiếc xẻng. Trên đầu có tiếng đào đất bình bịch, rồi đất vụn rơi lả tả, một luồng ánh sáng dọi thẳng xuống. Theo bản năng, anh nép sang một bên, mắt nhìn không chớp tia nắng. Phía trên vẫn tiếp tục đào, đất cục lẫn với tuyết lại trút xuống, rồi đầu nòng khẩu súng săn thò xuống nổ một phát, đất bắn tung tóe, mùi thuốc súng nghẹt thở. Anh úp mặt vào giữa hai đầu gối, không dám ho. Sau khi nổ phát súng, người kia chừng như yên tâm nên đi đứng không cẩn thận, thụt luôn một chân xuống lỗ thủng. Khi trông thấy cái chân bọc bằng một miếng da thú, Hàn Chim không kịp suy nghĩ gì nữa, cầm xẻng vụt luôn. Người kia kêu thét lên bỏ chạy, tiếng chân trên tuyết lạo xạo dội vào trong hang. Anh nghĩ, người này thể nào cũng gọi người tới, không để họ bắt sống. Anh cố thoát ra khỏi tình trạng mụ mẫm, suy nghĩ mạch lạc hơn. Phải chạy đi nơi khác. Anh gỡ tấm ván chặn cửa hang, vớ lấy một nắm rau câu, một miếng vải buồm nhặt được ở sân phơi của một gia đình người Nhật từ mùa thu năm ngoái, rồi chui ra khỏi hang. Anh cảm thấy lạnh buốt toàn thân, mắt đau nhói dưới ánh sáng gay gắt, ngã lăn ra như một cây gỗ mục. Anh cố đứng dậy, nhưng lại lập tức ngã lăn ra. Anh đau xót nghĩ thầm: Thế là hết, mình không còn đi đứng được nữa rồi. Anh không dám mở mắt, hễ mở mắt là đau buốt không chịu được Bản năng muốn sống đã mách anh phải theo sườn dốc mà bò xuống. Anh nhớ mang máng rằng, phía bên phải dưới chân dốc có một vạt rùng nhỏ. Anh cảm thấy mình bò đã lâu rồi, đáng lẽ đã đến vạt rùng ấy rồi, nhưng khi mở mắt ra mới biết chưa được năm mươi thước.

Lúc trời gần tối, anh bò đến vạt rừng. Lúc này mắt anh đã quen dần với ánh sáng, dù vẫn còn buốt và chảy nước mắt. Anh vịn vào một cây thông nhỏ, đứng lên, nhìn về cửa hang cách đó khoảng một trăm thước. Trên tuyết còn lưu lại vết tích của anh đã bò qua. Cái làng nhỏ bên dưới có tiếng gà kêu chó cắn, khói lam bốc lên từ những mái nhà đầy vẻ thanh bình. Anh nhìn lại mình, rách như tổ đỉa, đầu gối và bụng rớm máu, những ngón chân lở loét bốc mùi khăn khẳn. Một cảm giác thù hận bỗng lóe lên trong anh, như có tiếng gọi từ trên cao vọng xuống: Hàn Chim, Hàn Chim, người là thằng đàn ông, không được để bọn Nhật bắt lại!

Anh từ gốc cây này bám sang gốc cây kia, rồi cứ như thế anh lần vào rừng sâu. Đêm hôm ấy lại có một trận tuyết rất to. Anh ngồi xổm dưới một gốc cây nhỏ, lắng nghe tiếng gầm gào của biển cả và tiếng hú của bầy sói, rồi lại rơi vào trạng thái mụ mẫm. Tuyết lấp kín anh, xóa sạch dấu vết chiều hôm trước anh để lại.

Sáng sớm hôm sau, anh trông thấy ánh nắng ban mai trải màu ngọc bích lên mặt tuyết. Từ bên kia sườn núi, từ chỗ cái hang cũ vọng lại tiếng người ồn ào, tiếng chó sủa. Anh ngồi yên, lắng nghe những tiếng động ấy như từ một nơi xa xôi vọng tới..

Rồi một quầng lửa bùng lên, ngọn lửa không một tiếng động, mềm mại như lụa dập dòn nhảy múa. Giữa quầng lửa là một thiếu nữ mặc quần trắng, ánh mắt như mắt chim, xa vắng và đơn độc. Anh đội tuyết chồm tới và ngã lăn bất tỉnh.

Những con chó săn đánh hơi rất thính, dẫn theo những người thợ săn đến chỗ Hàn Chim. Anh chống hai tay trên tuyết, ngước nhìn những họng súng đen ngòm. Anh cất tiếng chửi nhưng lại sủa như chó sói. Những người thợ săn nhìn anh ngạc nhiên, còn lũ chó thì hốt hoảng lùi lại

Một người thợ săn bước tới cầm cánh tay lôi anh dậy. Anh cảm thấy lồng ngực như muốn vỡ, vận hết sức tàn còn lại ôm chặt lấy người thợ săn cắn vào mặt anh ta bằng hai hàm răng không còn một chút sức lực rồi ngã lăn ra. Người kia cũng ngã theo. Anh không hề chống cự mặc cho những người thợ săn gỡ từng ngón tay cong cong như móc câu của anh, và hoảng hốt khi thấy người ta kéo anh như kéo một xác chết về làng.

Trong một quán tạp hóa nhỏ, anh bị cơn đau rất khó diễn tả làm cho tỉnh dậy. Anh nghe thấy lửa réo ù ù trong ống khói bằng sắt tây, khắp mình đau buốt như kim châm. Anh giãy giụa, gào thét tránh xa bếp lửa. Những người thợ săn chợt hiếu ra, khênh anh sang một gian để những thứ lặt vặt, gian này không có bếp lò. Người phụ nữ chủ hiệu tạp hóa chăm sóc anh rất chu đáo. Khi anh húp thìa nước đường đầu tiên, nước mắt tự nhiên ứa ra.

Ba hôm sau, những người thợ săn cuốn anh trong một tấm chăn chiên, khênh anh đến một nơi có những người ăn mặc đàng hoàng, hỏi anh gì đó bằng tiếng Nhật. Lưỡi anh ngọng cứng, không nói được thành lời. Sau đó, anh kể lại:

- Họ đem đến một chiếc bảng đen, ừ phấn viết, để tôi viết viết gì nhỉ ừ, ngón tay tôi co quắp như vuốt chim ưng, ừ, cầm phấn mà cổ tay đau buốt, cầm không chặt, viết gì nhỉ, tôi nghĩ, nghĩ mãi, à, nghĩ ra rồi, ừ, Trung Quốc, ừ, Trung Quốc, hai chữ Trung Quốc, tôi viết lên bảng đen hai chữ, Trung Quốc xiên xẹo, hai chữ thật to: Trung Quốc.