Cuộc Săn Cừu Hoang - Phần VI- Chương 18 - Part 2
“Tôi không biết,” tôi nói. “Tôi thậm chí còn không biết là bản thân câu hỏi có nghĩa không nữa?”.
“Một câu trả lời thông minh,” người đàn ông nói,
gập những ngón tay trên lòng. Đầu ngón tay gõ nhẹ một nhịp điệu chậm
rãi. “Cậu biết đấy, tất cả câu chuyện về chung cư này, chỉ để tranh luận
mà thôi. Chính xác hơn, tổ chức chúng tôi có thể được chia làm hai yếu
tố. Bộ phận dịch chuyển lên phía trước và bộ phận chèo lái nó lên phía
trước. Theo tự nhiên, có các bộ phận khác quản lý các chức năng khác.
Tuy nhiên, nếu tạm chia, tổ chức chúng tôi được tạo thành bởi hai bộ
phận này. Các bộ phận khác hầu như không đáng kể. Phần ở phía trước là Ý
chí, và phần hỗ trợ cho phần ở phía trước là Lợi ích. Khi người ta nói
về Ông Chủ, họ chỉ chăm chăm nói về phần Lợi ích của ông. Và sau khi Ông
Chủ chết, chính là phần Lợi ích này sẽ khiến mọi người ầm ĩ lên tranh
nhau chiếm phần. Không ai muốn phần Ý chí, vì không ai hiểu được nó. Ở
đây chúng ta thấy được ý nghĩa thật sự của những gì có thể và không thể
sẻ chia. Ý chí không thể sẻ chia. Nó hoặc sẽ được chuyển giao hoàn toàn,
hoặc mất đi hoàn toàn.”
Ngón tay người đàn ông tiếp tục gõ nhẹ nhịp điệu
chậm rãi ấy trên lòng. Ngoài điều đó ra, mọi thứ ở ông ta vẫn giữ
nguyên không thay đổi từ đầu. Vẫn cái nhìn chằm chằm ấy, vẫn đôi con
ngươi lạnh băng, vẫn bộ mặt nhẵn nhụi, vô cảm ấy. Bộ mặt quay về phía
tôi với cùng góc độ trong suốt quãng thời gian.
“Cái ý chí này là như thế nào?”, tôi hỏi
“Một khái niệm điều khiển thời gian, điều khiển không gian, và điều khiển khả năng.”
“Tôi không hiểu.”
“Tất nhiên, chỉ vài người hiểu. Chỉ có Ông Chủ
là hiểu nó một cách gần như bản năng. Người ta thậm chí có thể nói ông
ấy phủ nhận sự tự nhận thức, do đó ông nhận ra ở cùng một sự việc một
điều gì đó hoàn toàn mang tính cách mạng. Nói đơn giản cho cậu hiểu,
cuộc cách mạng của ông ấy là một cuộc cách mạng lao động sáp nhập tư bản
và tư bản sáp nhập lao động.”
“Một ảo tưởng.”
“Hoàn toàn ngược lại. Chính sự nhận thức mới là
ảo tưởng,” người đàn ông cắt ngang. “Cứ cho là như vậy, mọi điều tôi nói
với cậu bây giờ chỉ đơn thuần là lời nói. Cho dù tôi có sắp xếp và bố
trí lại chúng, tôi sẽ không bao giờ có thể giải thích cho cậu hình thức
của Ý chí mà Ông Chủ sở hữu. Lời giải thích của tôi sẽ chỉ cho thấy mối
liên hệ giữa bản thân tôi và cái ý chí đó thông qua liên hệ trên bình
diện ngôn từ. Sự phủ nhận nhận thức vì thế tỷ lệ với sự phủ nhận ngôn
ngữ. Và khi hai cột trụ của chủ nghĩa nhân văn phương Tây, nhận thức cá
nhân và tính liên tục biến hóa, mất đi ý nghĩa, thì ngôn ngữ mất đi ý
nghĩa. Cá thể như chúng ta vẫn biết sẽ không còn tồn tại, và tất cả trở
nên hỗn độn. Con người ta thôi không còn là một thực thể độc đáo không
thể lặp lại nữa, mà tồn tại đơn thuần như một hỗn độn. Và không chỉ bản
thân mình là sự hỗn độn; sự hỗn độn của người này cũng chính là sự hỗn
độn của người kia. Tóm lại, tồn tại là giao tiếp, và giao tiếp là tồn
tại.”
Bỗng nhiên căn phòng trở nên lạnh, và tôi có cảm
giác không thể diễn tả nổi là một cái giường ấm áp dễ chịu đã được
chuẩn bị sẵn ở một bên cho tôi. Ai đó đang vẫy tay ra hiệu cho tôi dưới
tấm chăn.
Một ảo ảnh, tất nhiên rồi. Giờ vẫn còn là tháng chín. Bên ngoài, hàng ngàn con ve sầu không đếm xuể đang kêu ra rả.
“Việc mở rộng nhận thức mà thế hệ cậu trải qua
hoặc ít nhất mong muốn trải qua vào cuối thập kỷ sáu mươi kết thúc thất
bại một cách trọn vẹn và hoàn toàn bởi vì nó vẫn còn bắt rễ chặt ở cá
nhân. Nghĩa là, nếu chỉ cố gắng mở rộng riêng nhận thức mà thôi, không
tính đến bất kỳ thay đổi nào về lượng cũng như về chất ở cá nhân, rốt
cuộc tất phải thất bại. Tôi nói tầm thường là muốn nói về cái đấy. Làm
sao tôi có thể khiến cậu hiểu được điều này? Không phải là tôi đặc biệt
mong cậu hiểu. Chỉ là tôi đang cố gắng nói chuyện một cách thành thật…
“Về bức tranh tôi đưa cậu xem lúc trước,” người
đàn ông nói. “Đó là bản copy một bức tranh từ hồ sơ bệnh án bệnh viện
quân y Mỹ. Nó đề ngày 27 tháng Bảy, năm 1946. Bức tranh do Ông Chủ chính
tay vẽ theo yêu cầu của bác sĩ. Như một mắt xích trong quá trình chứng
minh bằng tư liệu các trải nghiệm ảo giác. Trên thực tế theo hồ sơ bệnh
án, con cừu này xuất hiện với tần suất cao đáng kể trong ảo giác của Ông
Chủ. Nói về mặt con số, con cừu xuất hiện xấp xỉ khoảng tám mươi phần
trăm trong ảo giác của ông ấy, hay bốn lần trong số năm ảo giác. Mà
không phải bất kỳ con cừu nào. Chính là con cừu có màu hạt dẻ với hình
ngôi sao trên lưng.
“Vậy là Ông Chủ bắt đầu sử dụng con cừu này, nó
được khắc trên bật lửa, như gia huy cá nhân từ năm 1936 trở đi. Tôi tin
là cậu để ý thấy con cừu này giống hệt con cừu trong hồ sơ bệnh án. Mà
cũng lại chính là con cừu trong bức ảnh của cậu. Kỳ lạ vô cùng, cậu có
nghĩ thế không?”
“Trùng lặp đơn thuần thôi,” tôi nói vội. Tôi cố ý làm cho mình nghe có vẻ ngầu, nhưng không hoàn toàn thành công.
“Còn nữa,” người đàn ông tiếp tục. “Ông Chủ là
một nhà sưu tập nhiệt thành tất cả các tư liệu tra cứu có thể liên quan
đến cừu, trong nước hay nước ngoài. Mỗi tuần một lần, ông xem xét kỹ các
bài báo cắt ra liên quan đến cừu được thu nhặt từ mọi tờ báo và tạp chí
xuất bản tuần đó ở Nhật. Tôi luôn giúp ông một tay trong chuyện này.
Ông Chủ nhấn mạnh tầm quan trọng của các bài báo ấy. Cứ như thể ông đang
tìm kiếm một điều gì đó. Và kể từ khi Ông Chủ lâm bệnh, tôi tiếp tục cố
gắng này trên bình diện cá nhân. Tôi thực tế đã rất quan tâm đến việc
này. Ai biết được điều gì sẽ được làm sáng tỏ? Đó là cách cậu liên quan
đến sự việc. Cậu và con cừu của cậu. Dù có nhìn nhận vấn đề dưới góc độ
nào thì đây cũng không phải là một sự tình cờ.”
Tôi giữ bật lửa thằng bằng trong tay. Cảm giác
ấy thật tuyệt vời. Không quá nặng; không quá nhẹ. Thử nghĩ mà xem trên
đời lại có một trọng lượng hoàn hảo như vậy.
“Cậu nghĩ tại sao Ông Chủ cứ kiên quyết đi tìm con cừu đó? Co ý kiến gì không?”
“Không có ý kiến gì hết,” tôi nói. “Hỏi Ông Chủ sẽ nhanh hơn.”
“Nếu tôi có thể hỏi ông, tôi đã hỏi rồi. Ông Chủ
đang trong trạng thái hôn mê đã hai tuần qua. Rất có thể ông sẽ không
bao giờ tỉnh lại. Và nếu Ông Chủ chết, bí ẩn về con cừu với ngôi sao
trên lưng sẽ bị chôn vùi cùng ông mãi mãi. Chắc chắn tôi sẽ không đứng
nhìn và để diều đó xảy ra. Không phải vì lý do mất mát cá nhân, mà là
cho lợi ích lớn hơn của mọi người.”
Tôi nghiêng mở nắp bật lửa, đánh lửa, rồi đóng nắp lại.
“Tôi chắc chắn cậu nghĩ rằng tất cả những điều
tôi đang nói là một mớ vô nghĩa. Và có lẽ đúng thế. Có thể chúng đúng là
hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng hãy thử nghĩ coi, đây có thể là toàn bộ những
gì còn sót lại cho chúng tôi. Ông Chủ sẽ chết. Cái ý chí ấy sẽ chết.
Rồi mọi thứ quanh cái ý chí ấy sẽ tàn lụi. Tất cả những gì còn lại sẽ là
những gì có thể cân đo đong đếm. Không còn sót lại gì nữa. Đó là lý do
tại sao tôi muốn tìm con cừu đó.”
Lần đầu tiên ông ta nhắm mắt lại vài giây, không
nói gì trong chốc lát. Rồi: “Nếu tôi có thể đưa ra giả thuyết của mình –
một giả thuyết và không có gì hơn, hãy quên là tôi từng nói nó nếu nó
không có ý nghĩa gì với cậu – tôi không thể không cảm thấy rằng con cừu
của chúng ta ở đây đã tạo nên cái khung cơ bản của Ý chí của Ông Chủ.”
“Nghe cứ như là bánh quy hình thú vật,” tôi nói.
Người đàn ông không thèm để ý đến lời bình luận của tôi.
“Rất có thể con cừu đã tìm được cách nhập vào
người Ông Chủ. Đó hẳn là năm 1936. Và trong khoảng 40 năm sau đó, con
cừu vẫn tiếp tục trú bên trong Ông Chủ. Bên trong đó, nó chắc đã tìm
được một đồng cỏ, một rừng cây bu lô. Giống như trong bức ảnh. Cậu nghĩ
sao?”
“Nột giả thuyết cực kỳ thú vị,” tôi đáp.
“Nó là một con cừu đặc biệt. Một con cừu rất đặc biệt. Tôi muốn tìm nó và vì thế cần sự giúp đỡ của cậu.”
“Vậy ông định làm gì với nó một khi ông đã tìm được nó?”
“Không làm gì cả. Có lẽ tôi không thể làm gì.
Quy mô mọi chuyện quá lớn lao để tôi có thể làm bất cứ điều gì. Mong ước
duy nhất của tôi là cuối cùng được tận mắt nhìn thấy nó. Và nếu con cừu
đó mong muốn bất cứ thứ gì, tôi sẽ làm cho nó trong tất cả quyền hạn
của mình để tuân theo ý nó. Dù thế nào đi nữa, một khi Ông Chủ qua đời,
đời tôi sẽ mất đi hầu hết mọi ý nghĩa.”
Đến đó ông ta lặng thinh. Tôi cũng im lặng. Chỉ
có lũ ve sầu là vẫn tiếp tục kêu. Ve sầu và lá cây trong vườn xào xạc
trong làm gió lúc chạng vạng. Bản thân ngôi nhà yên lặng một cách đau
đớn. Như thể mầm chết đang lơ lửng đâu đây trong sự lây lan không thể
ngăn chặn nổi. Tôi cố hình dung cánh đồng cỏ trong đầu Ông Chủ. Một đồng
cỏ hoang vắng và bị bỏ bê, cỏ héo úa, tất cả cừu đều bỏ đi mất.
“Tôi sẽ hỏi cậu một lần nữa: nói cho tôi nghe bằng cách nào cậu có được bức ảnh,” người đàn ông nói.
“Tôi không thể nói được,” tôi nói.
Người đàn ông thốt ra một tiếng thở dài. “Tôi đã
cố nói chuyện với cậu một cách thành thật. Vì thế tôi cứ hy vọng cậu
cũng sẽ nói chuyện với tôi một cách thành thật.”
“Tôi không ở vào vị thế có thể nói được. Nếu tôi nói ra có thể gây rắc rối cho người cung cấp ảnh.”
“Điều đó có nghĩa là,” người đàn ông ngắt lời,
“cậu có cơ sở hợp lý để tin rằng một số rắc rối có thể sẽ đến với cái
người có liên hệ với con cừu.”
“Không có cơ sở nào hết. Tôi chỉ linh cảm thôi.
Nhất định phải có một cái bẫy. Tôi cảm thấy điều đó trong suốt thời gian
nói chuyện với ông. Giống như có một cái cạm bẫy ở đâu đó. Gọi đó là
giác quan thứ sáu.”
“Và vì thế cậu không thể nói.”
“Đúng thế,” tôi nói. Suy nghĩ thêm về tình thế,
tôi tiếp tục. “Tôi thuộc loại chuyên gia gây rắc rối. Có thể nói tôi
không kém cạnh ai trong cung cách và cách thức tạo nên rắc rối cho người
khác. Tôi sống cả đời cố gắng hết sức tránh mọi thứ xảy đến như thế.
Vậy mà rốt cuộc chỉ tạo thêm nhiều rắc rối hơn. Kết quả giống nhau cả
thôi. Mọi thứ cứ đi xuống theo cách ấy. Tuy thế, dù tôi biết rồi sẽ
giống nhau cả thôi thì vẫn không có gì thay đổi. Không gì trở thành như
thế ngay từ đầu. Nó chỉ là cái cớ thoái thác.”
“Tôi không chắc tôi hiểu ý cậu.”
“Ý tôi là sự tầm thường có nhiều khuôn dạng.”
Tôi cho một điếu thuốc lên môi, châm thuốc bằng chiếc bật lửa trên tay và nhả một hơi ngắn. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn chút ít.
“Cậu không phải nói nếu cậu không muốn,” người
đàn ông nói. “Thay vào đó, tôi sẽ cử cậu đi tìm con cừu. Đây là điều
khoản cuối cùng giữa chúng ta. Nếu trong vòng hai tháng kể từ bây giờ
cậu tìm được con cừu, chúng tôi sẵn sàng thưởng công cậu bất cứ thứ gì
cậu muốn. Nhưng nếu cậu không tìm được nó, sẽ là chấm hết cho cậu và
công ty của cậu. Đồng ý chứ?”
“Tôi có lựa chọn nào khác không?” tôi hỏi. “Và
điều gì sẽ xảy ra nếu ngay từ đầu con cừu với ngôi sao trên lưng chưa
bao giờ tồn tại?”
“Vẫn thế thôi. Đối với cậu và tôi, chỉ có một
câu hỏi: liệu cậu có tìm ra con cừu hay không. Không có khoản nửa nọ nửa
kia. Xin lỗi phải nói như thế này, nhưng như tôi nói chúng tôi sẽ chấp
nhận đề xuất của cậu. Cậu có bóng, cậu nên cố ghi bàn vào khung thành.
Thậm chí ngay cả khi hóa ra không có khung thành nào.”
“Vậy quan điểm hiện tại là thế?”
Người đàn ông lôi từ trong túi ra một chiếc
phong bì dày cộp đặt trước mặt tôi. “Hãy dùng số tiền này mà chi tiêu.
Nếu hết tiền, gọi cho chúng tôi. Còn nhiều hơn từ nguồn tiền này. Cậu
hỏi gì không?”
“Không hỏi gì, chỉ nhận xét thôi.”
“Gì vậy?”
“Toàn bộ câu chuyện này chắc là chuyện nực cười
nhất, khó tin nhất mà tôi từng nghe. Khi thốt ra từ miệng ông, nó có vẻ
thật, nhưng tôi ngờ rằng chẳng ai tin tôi nếu tôi nói cho họ biết những
gì xảy ra hôm nay.”
Người đàn ông nhếch mép rất nhẹ, hầu như không
thể nhận thấy. Có thể hiểu là ông ta đang mỉm cười. “Kể từ ngày mai, cậu
bắt đầu vào việc. Như tôi đã nói, cậu có hai tháng kể từ hôm nay.”
“Công việc hóc búa đấy. Hai tháng có thể không
đủ. Tôi muốn nói là ông đang đòi hỏi tôi tìm một con cừu từ khắp các
vùng thôn quê kia đấy.”
Người đàn ông nhìn chằm chằm vào mặt tôi mà
không nói gì. Khiến tôi cảm thấy như mình là một hồ bơi trống vắng. Một
hồ bơi bẩn thỉu, vỡ rạn, trống vắng mà có lẽ sẽ không được sử dụng thêm
một năm nào nữa. Ông ta nhìn tôi không chớp mắt suốt ba mươi giây đồng
hồ. Rồi ông ta chậm rãi mở miệng.
“Đã đến lúc cậu phải lên đường,” ông ta nói.
Quả có vẻ như thế thật.
Chú thích
[1] Lâu đài trong thần thoại Bắc Âu, nơi vị thần tối cao Odin tiếp đãi linh hồn của những anh hùng tử trận.