Cuộc Săn Cừu Hoang - Phần VI- Chương 20
Chương 20: Cuối Hè, Đầu Thu
Vào
lúc chiếc xe limousine tới nơi, màu nhàn nhạt của buổi chạng vạng đã
lan tỏa trên thành phố. Một làn gió nhẹ thổi giữa các tòa nhà báo hiệu
sự kết thúc của mùa hè, làm váy của đám đàn bà con gái trên đường đi làm
về kêu sột soạt. Tôi lên trên tầng thượng của khách sạn cao tầng, vào
một quầy bar rộng thênh thang, gọi một chai Heineken. Phải mất mười phút
bia mới được mang tới. Trong lúc đó tôi chống khuỷu lên tay vịn ghế,
tựa đầu lên tay và nhắm mắt lại. Không suy nghĩ gì hết. Mắt nhắm nghiền,
tôi có thể nghe hàng trăm con tiểu yêu đang dùng những chiếc chổi bé tí
xíu quét dọn trong tâm trí tôi. Chúng cứ tiếp tục quét mãi, quét mãi.
Không một con nào có ý nghĩ dùng xẻng hót rác cả.
Khi bia cuối cùng cũng được mang tới, tôi làm
hai ngụm hết sạch. Rồi tôi ăn hết cả đĩa lạc để nhắm với bia. Tiếng chổi
quét vẫn không dừng lại.
Tôi đi lại quầy điện thoại cạnh bàn tiếp tân và
thử gọi cho cô bạn gái tôi, người có đôi tai tuyệt đẹp. Nhưng cô không ở
nhà cô mà cũng không ở nhà tôi. Có lẽ cô đã ra ngoài đi ăn. Cô không
bao giờ ăn ở nhà.
Tiếp đến tôi thử gọi cho vợ cũ. Tôi nghĩ lại và
dập máy sau hồi chuông thứ hai. Xét cho cùng thì tôi chẳng có gì để nói
với cô ta, và tôi không muốn gây cho cô ta cảm giác tôi là một thằng
đểu.
Sau hai người đó, chẳng còn ai để mà gọi. Ở ngay
giữa một thành phố với hàng triệu người đi trên phố mà không có ai để
chuyện trò. Tôi từ bỏ ý định gọi điện, đút túi đồng mười yên, rời buồng
điện thoại. Sau đó tôi gọi một người hầu bàn đang chạy ngang qua, bảo
mang cho hai chai Heineken nữa.
Và thế là kết thúc một ngày. Một ngày không thể
vô nghĩa hơn. Ngày cuối cùng của mùa hè, và ngày đó có gì tốt đẹp đây?
Bên ngoài, bóng tối của mùa thu sớm đã bao trùm lên mọi thứ. Từng dãy
đèn đường nhỏ xíu màu vàng xâu chuỗi phía dưới. Nhìn từ trên này, chúng
trông như sẵn sàng để người ta giẫm đạp lên.
Bia được mang tới. Tôi uống cạn một chai rồi đổ
đĩa lạc vào lòng bàn tay và bắt đầu nhấm nháp, từng tí một. Bốn người
phụ nữ trung niên vừa kết thúc buổi học bơi ở bể khách sạn, ngồi bàn bên
cạnh chuyện trò bên mấy ly cocktail nhiệt đới sặc sỡ. Một người hầu bàn
khác giải thích thực đơn cho một cặp vợ chồng trung niên người Mỹ. Sau
đĩa lạc, tôi uống nốt chai Heineken thứ ba. Uống hết rồi, tôi không biết
làm gì với tay mình nữa.
Tôi móc chiếc phong bì nơi sau túi quần hiệu
Levi’s ra, bóc dấu niêm phong và bắt đầu xếp tiền mười ngàn yên. Trông
nó giống như một xấp bài hơn là một cọc tiền mới được xếp chặt. Được nửa
chừng, ngón tay tôi bắt đầu mỏi. Đếm đến tờ chín mươi sáu, một người
hầu bàn đứng tuổi đến dọn mấy cái chai rỗng, hỏi xem có mang thêm chai
khác không. Tôi gật đầu và tiếp tục đếm. Ông ta có vẻ như chẳng thèm
đoái hoài gì đến việc tôi đang làm.
Tổng cộng có một trăm năm mươi tờ. Tôi cất chúng
vào trong phong bì và nhét vào túi quần sau đúng lúc chai bia mới được
mang ra. Tôi lại ăn hết cả đĩa lạc, và chính lúc đó tôi mới chợt nhận ra
mình thấy đói. Nhưng tại sao tôi lại đói bụng đến thế? Tôi chỉ ăn một
lát bánh hoa quả kể từ sáng đến giờ.
Tôi kêu người hầu bàn, gọi một bánh kẹp pho mát
và dưa chuột. Không khoai tây rán, cho gấp đôi dưa chuột muối. Không
biết họ có kéo cắt móng tay không? Tất nhiên rồi, họ có kéo cắt móng
tay. Quầy bar khách sạn thật sự có tất cả mọi thứ người ta có thể cần
tới. Một chỗ còn có cả từ điển Pháp-Nhật khi tôi cần.
Tôi nhấm nha nhấm nháp chai bia còn lại, ngắm
khung cảnh buổi đêm thật lâu, thong thả cắt móng tay trên chiếc gạt tàn.
Tôi quay qua ngắm khung cảnh, sau đó giũa móng. Và cứ thế đến hết đêm.
Tôi đang trên đường trở thành cao thủ về chuyện giết thời gian nơi đô
thị.
Một chiếc loa âm trầm gọi tên tôi. Ban đầu nghe
có vẻ như không phải tên của tôi. Phải mất vài giây sau khi loa thông
báo xong tôi mới nhận thức được tôi vừa nghe những âm tiết đặc biệt của
tên mình, và rồi dần dần nhận ra đó chính là tên tôi thật.
Người phục vụ đem ra bàn một chiếc điện thoại không dây.
“Kế hoạch có một thay đổi nhỏ,” giọng nói mà tôi
biết vang lên từ một nơi nào đó. “Tình trạng của Ông Chủ đột nhiên diễn
biến theo chiều hướng xấu. Tôi sợ là không còn mấy thời gian nữa. Vì
thế chúng tôi phải giảm thời gian tối đa của cậu.”
“Tôi còn bao lâu?”
“Một tháng. Chúng tôi không thể đợi lâu hơn nữa.
Nếu sau một tháng cậu không tìm ra con cừu đó, cậu coi như xong. Cậu sẽ
không còn nơi nào để quay trở lại nữa.”
Một tháng. Tôi suy nghĩ kỹ. Nhưng đầu tôi không
có khả năng xử lý khái niệm thời gian. Một tháng, hai tháng, có sự khác
biệt thật sự nào không? Hơn nữa đã có ai có bất kỳ ý kiến gì, bất kỳ
tiêu chuẩn nào, về việc cần bao nhiêu thời gian để tìm ra một con cừu cơ
chứ?
“Làm sao ông biết tìm tôi ở đây?” tôi hỏi.
“Chúng tôi kiểm soát được hầu hết mọi thứ,” người đàn ông nói.
“Trừ chỗ ở của một con cừu,” tôi nói.
“Đúng như vậy,” người đàn ông nói. “Dù sao thì,
vào việc đi, cậu để phí quá nhiều thời gian đấy. Cậu nên xem xét đến vị
thế hiện tại của cậu. Cậu chỉ có thể đổ lỗi cho chính mình về việc cậu
đã dồn bản thân vào chân tường.”
Ông ta nói có lý. Tôi dùng tờ bạc mười ngàn yên
đầu tiên trong phong bì để trả hóa đơn. Dưới kia trên mặt đất người ta
vẫn đi lại trên hai chân, nhưng cảnh tượng không còn an ủi tôi được mấy
nữa.