Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Jack London - 05 - Part 2
"Thưa
thầy, vâng" hắn trả lời, đôi mắt long lanh đầy vẻ hoan hỉ.
"Đấy, anh lại thề rồi." Tôi gắt.
"Miệng tôi nói thì có nghĩa lý gì" hắn bào chữa. "Đó chỉ là
miệng tôi nói, nhưng óc tôi vẫn luôn nghĩ đến Otoo. Mỗi khi tôi nghĩ đến tôi,
tôi lại nghĩ đến thầy, Mỗi khi người ta gọi tên tôi, tôi lại nghĩ đến thầy. Và
sau này, mãi mãi, dù ở trên trời cao, dù trên các vi tinh đẩu, tôi vẫn luôn nhớ
đến thầy là Otoo của tôi. Thầy nghe có được không?"
Tôi dấu một nụ cười và trả lời được.
Chúng tôi chia tay nhau ở Papeete. Tôi nghỉ tại bờ biển để hồi lại sức, còn hắn
đáp một chiếc xuồng máy để về Borabora, sanh quán của hắn. Sáu tuần sau, hắn
trở lại. Tôi ngạc nhiên vì hắn có kể cho tôi nghe về vợ hắn, và hắn bảo là lần
này hắn trở về vui cảnh gia đình không đi biển nữa.
"Thầy đi đâu bây giờ?" hắn hỏi tôi ngay sau khi chào hỏi xong.
Tôi nhún vai. Thật là một câu hỏi hắc búa. "Tôi đi khắp chân trời, góc
biển, đến khắp các hòn đảo trên mặt biển này." Tôi trả lời.
"Tôi sẽ đi với thầy." hắn thản nhiên nói, "Vợ tôi mất
rồi."
Tôi không có anh, nhưng thấy anh em người ta, tôi không chắc cò người em nào
được một người anh tốt với mình bằng Otoo đối với tôi. Hắn đối với tôi như một
người anh, một người cha, một người mẹ vậy. Điều này tôi biết lắm, vì có hắn,
tôi đã sống thành người ngay thẳng hơn, đức hạnh hơn. Tôi thường ít để ý đến
người khác, nhưng đối với Otoo, tôi phải sống cho đúng mực. Vì hắn, tôi phải
giữ gìn, không dám làm gì hại đến danh dự tôi cả. Hắn luyện tôi thành con người
lý tưởng của hắn, điều hoà tính tình tôi bằng tình thương và lòng ngưỡng mộ của
hắn. Có những lúc tôi đã đứng trên bờ vực thẳm và đã sa ngã nếu không có những
ý nghĩ về hắn kìm hãm tôi lại. Sự hãnh diện của hắn về tôi như thâm nhập vào
tôi cho đến khi ý nghĩ không làm điều gì có thể giảm mất cái hãnh diện của hắn
trở thành một điều luật quan trọng trong cách xử thế của tôi.
Dĩ nhiên, tôi không thể biết ngay được hắn đã nghĩ gì về tôi. Hắn không bao giờ
chỉ trích, không bao giờ khiển trách tôi cả, và dần dần tôi thông cảm rằng hắn
quý trọng tôi, tôi mới bắt đầu hiểu sự phiền muộn mà tôi sẽ gây ra cho hắn nếu
tôi làm điều gì hạ nhân phẩm tôi.
Chúng tôi sống với nhau trong 17 năm, và suốt 17 năm ấy, hắn ở bên cạnh tôi,
săn sóc tôi từ giấc ngủ, chăm nom tôi những khi đau ốm hay bị thương tích, và
lại còn đánh nhau đến nổi bị thương tích vì tôi nữa. Hắn trưng mộ phu lên đi
cùng những chuyến tàu với tôi, và chúng tôi cùng ngao du giang hồ với nhau trên
Thái Bình Dương, từ Hạ Uy Di xuống tới thành phố Sydney, từ eo biển Torres qua
quần đảo Galapazos. Chúng tôi đáp những chuyến tàu chở dân phu da đen đi từ
Nouvelle Hebrides đến quần đảo Line ở miền Tây Thái Bình Dương qua dãy
Louisiades, New-Britain, New Ireland và New Hanover. Chúng tôi bị ba lần đắm
tàu, giữa quần đảo Gilbert, trong vùng Santa Cruz và vùng quần đảo Fijis, và
tới chỗ nào thấy kiếm tiền được là hắn lại mua bán ngọc trai, vỏ trai, dừa, hải
sản, vỏ đồi mồi, những bộ phận của tàu đắm trôi dạt vào bờ.
Tôi bắt đầu tu tỉnh ngay tại
Papeete, sau khi hắn tuyên bố sẽ theo tôi đi khắp chân trời góc biển, đến các
quần đảo ở giữa đại dương. Hỏi đó tại Papeete có một hội quán, và thợ mò ngọc
trai, lái buôn, những thuyền trưởng và cả bọn giang hồ lưu manh ở Nam Hải
thường về tụ lập. Mọi người cờ bạc ăn thua to, rượu chè say sưa bí tỉ và tôi e
rằng tôi thường ra về khá trễ lúc những người đàng hoàng tử tế đáng lý về đã
lâu rồi. Nhưng mỗi khi tôi rời hội quán là đã có Otoo chực sẵn đó để đưa tôi về
nhà yên ổn
Thoạt đầu tôi còn cười, rồi tôi gắt với hắn. Sau tôi nói thẳng với hắn là tôi
không cần vú em. Sau đó mỗi khi ra về, tôi không thấy hắn đâu nữa. Rồi tình cờ
chừng một tuần lễ sau đó, tôi khám phá ra là hắn vẫn đón tôi về, nhưng âm thầm
đứng ở bên kia đường, trong bóng tối của những cây xoài, để canh chừng tôi. Tôi
phải làm sao bây giờ? Tôi biết tôi đã làm sao.
Tôi bắt đầu đi về có chừng mực hơn. Vào những đêm mưa gió, giữa cái vui tưng
bừng sôi nổi, tôi vẫn cứ nghĩ đến Otoo đang buồn rầu đứng canh chừng tôi, dưới
bóng cây xoài. Thật quả hắn đã làm tôi trở thành một người khá. Nhưng chính hắn
thì lại không có đạo nghĩa gì cả. Và hắn chẳng biết chút gì về đạo đức thông
thường của Thiên Chúa Giáo. Tất cả dân Borabora đều theo đạo Thiên Chúa, nhưng
hắn lại là kẻ tà giáo, kẻ vô tín ngưỡng độc nhất trên đảo, một người hết sức
duy vật, cho rằng chết là hết. Hắn chỉ tin ở sự đối đãi, ăn ở ngay thẳng với
mọi người. Theo hắn những việc tầm thường ở đời cũng quan hệ như một hành động
sát nhân, và tôi tin rằng hắn sẽ kính nể một kẻ sát nhân hơn một kẻ có những cử
chỉ ti tiện bẩn thỉu.
Còn riêng đối với tôi, hắn phản đối mọi hành động có hại cho tôi. Đánh bạc
không sao, Chính hắn đánh bạc rất dữ. Nhưng hắn giải thích là thức khuya có hại
cho sức khỏe sau này. Hắn đã thấy có những kẻ vì không giữ mình nên đã chết vì
bệnh sốt. Hắn không phải người phản đối tứ dổ tường, và hắn cũng nhấm nháp luôn
mỗi khi phải làm việc ướt át trên tàu. Đàng khác, hắn tin vào nguyên tắc điều
độ trong việc rượu chè. Hắn đã từng thấy nhiều người chết hay sa đọa vì rượu
trắng hoặc uýt ki.
Otoo luôn luôn nghỉ đến lợi ích của tôi. Hắn đi trước các ý tưởng của tôi, cân
nhắc, suy tính các chương trình làm việc của tôi và còn lưu tâm đến hơn tôi
nữa. Thoạt tiên, khi tôi chưa biết là hắn rất lưu tâm các công việc của tôi,
hắn còn phải đoán các ý định của tôi. Ví dụ như lúc ở Papeete, khi tôi dự định
công ty với một tên đồng hương gian ngoan trong vụ săn kỳ đà chẳng hạn. Tôi không
biết y là một tên gian manh. Cũng chằng một người da trắng nào biết cả. Otoo
cũng không. Nhưng hắn thấy chúng tôi quá thân nhau, nên mới tìm hiểu kẻ kia dùm
tôi, không cần đợi tôi yêu cầu. Những thủy thủ thổ dân từ khắp bốn phương đổ về
Tahiti, và Otoo trà trộn với họ tìm được đủ mọi bằng cớ chứng minh mối hoài
nghi của mình. Những đìều người ta kể về tên Randolph Waters đó thật là quái
gở. Tôi không thể tin được khi Otoo mới kể cho tôi nghe, nhưng khi tôi hỏi vặn
tên Waters, thì gã im thin thít, không hé răng đáp nửa lời và lên ngay chuyến
tàu đầu tiên bỏ về Auckland
Thú thực, thoạt tiên, tôi không thể không bực mình vì Otoo cứ xen vào công việc
của tôi. Nhưng tôi biết là hắn hoàn toàn vô tư, và sau đó tôi phải công nhận
hắn khôn ngoan và kín đáo lắm. Luôn luôn hắn để ý tìm cho tôi những cơ hội tốt,
mà hắn lại có cặp mắt tinh đời, nhìn xa thấy rộng. Sau đó, hắn trở thành cố vấn
của tôi, cho tới khi hắn biết tỏ tường công việc của tôi hơn chính cả tôi nữa.
Quả thật hắn đã để tâm đến quyền lợi của tôi hơn chính tôi. Tôi có tính hoang
đàng cẩu thả của tuổi trẻ, vì tôi thích lãng mạn hơn tiền, và thích phiêu lưu
mạo hiểm hơn sống cảnh giường êm nệm ấm. Bởi vậy có người lo lắng cho cũng là
điều hay. Bây giờ tôi mới biết rằng nếu hồi ấy không có Otoo, tôi chẳng còn ở
đây hôm nay.
Tôi xin thuật lại một trong muôn vàn thí dụ. Xưa kia, tôi cũng có chút kinh
nghiệm về việc buôn nô lệ da đen trước khi đi buôn ngọc trai ở Paumotus. Tôi và
Otoo đang ở trên bờ Samôa - đang lúc chúng tôi không kiếm nổi một việc trên tàu
nào cả - thì tôi may mắn được nhận làm người đi mộ phu da đen cho một chiếc
thuyền hai buồm đi buôn hắc nô. Otoo đăng tên làm thủy thủ, và trong vòng 6 năm
sau đó, luân chuyển trên các tàu, Otoo và tôi đã đặt gót hải hồ khắp vùng
Mélanésie hoang dại. Otoo luôn luôn thu xếp để được điều khiển những tay chèo
trên thuyền của tôi. Theo tục lệ tuyển lựa nhân công của chúng tôi, người phụ
trách việc tuyển mộ được phái lên bờ để giao dịch. Chiếc xuồng hậu vệ thì phải
sẵn sàng đợi cách bờ vài chục thước, còn xuồng chở người đi mộ cũng phải sẵn
sàng chèo lái chực sẵn ngay trong bờ. Khi tôi buông tay lái xuống để lên bộ,
mang theo các thứ hàng hoá để đổi chác, thì Otoo cũng thôi chèo, và chạy về
phía sau xuồng, chỗ đặt sẵn khẩu súng Winchester phủ dưới tấm vải dày. Đoàn
thủy thủ trên xuồng cũng được võ-trang bằng súng Snider bố trí dưới lằn mép vải
căng dọc quanh mạn xuồng, chỗ có lỗ xỏ mài chèo. Trong khi tôi bận bàn cãi và
thuyết phục bọn ăn thịt người để chúng đi làm ở các đồn điền tại Queensland,
thì Otoo canh chừng cho tôi. Nhiều lần hắn khẽ gọi để báo tôi biết là bọn mọi
có những hành động đáng nghi ngờ hay sắp ra tay làm điều gì hiểm độc. Thỉnh
thoảng, chính khi phát súng bắn vội của hắn nổ rồi, tôi mới biết là có biến. Và
khi tội chạy về xuồng, thì luôn luôn có hắn chia tay kéo tôi lên xuồng. Tôi nhớ
có lần đi chiếc tàu Santa Anna, biến cố vừa xảy ra thì chiếc xuồng mắc cạn.
Chiếc tàu lớn vội chạy tới yểm hộ chúng tôi, nhưng hàng mấy chục tên mọi có lẽ
đã quét sạch chúng tôi trước khi đó, nếu không có Otoo kịp nhảy vút lên bờ, vục
cả hai tay vào đống hàng hoá mà vứt tung ra tứ phía nào thuốc lá, rìu, hạt
trai, dao và vải vóc.
Bọn mọi đen tóc quăn không cưỡng lại nổi sự thèm muốn. Trong khi chúng đổ xô
lại để cướp hàng thì chúng tôi vội vã lên xuống và lẹ làng chuồn ra khỏi bờ
hàng mấy chục thước. Bốn tiếng đồng hồ sau, ở chính bờ biển này, tôi lại mộ
được ba chục tên hắc nô.
Câu chuyện đặc biệt nhất tôi còn nhớ là ở Malaita, hòn đảo man rợ nhất ở miền
đông quần đảo Solomons. Thổ dân ở đây đặc biệt niềm nở, nên chúng tôi làm sao
mà biết được rằng cả làng, từ hơn hai năm nay vẫn chung tiền để treo giải mua
một cái đầu người da trắng? Bọn ăn xin đó toàn là bọn săn đầu người cả, và
chúng đặc biệt đánh giá cao người da trắng. Tên nào lấy được một đầu người da
trắng là lãnh trọn số tiền thưởng. Và như tôi đã nói, chúng tỏ ra rất niềm nở.
Bữa đó, tôi lên bộ đi cách xa xuồng tới ngót trăm thước Otoo đã dặn dò tôi phải
cẩn thận, và như thường lệ, hễ tôi không nghe lời hắn, y như là gặp chuyện rầy
rà.
Đầu tiên một loạt giáo mác từ các lùm bụi phóng ra tua tủa về phía tôi. Ít ra
cũng có hơn mười mũi găm vào tôi. Tôi bỏ chạy nhưng vấp phải một mũi giáo găm
chặt vào bắp chân, và vì thế tôi ngã xoải ra. Bọn tóc xoăn liền hè nhau chạy
đến bắt tôi, đứa nào cũng cầm rìu dài cán để chặt đầu tôi. Chúng ham lãnh tiền
thưởng đến nổi xô cả vào nhau. Trong lúc lộn xộn ấy, tôi đã tránh được nhiều
lưỡi rìu bổ xuống bằng cách lăn sang phải, sang trái trên bãi cát.
Rồi Otoo chạy tới - cái anh chàng đó tay không địch được trăm người. Hắn loay
hoay thế nào mà đoạt ngay được một cái trùy nặng; những lúc đánh giáp lá cà,
cây trùy lại là thứ võ khí lợi hại hơn cả súng trường. Hắn xông ngay vào giữa
đám đông, làm cho chúng không thể dùng dao đâm được, mà sử dụng rìu lại càng
khó nữa. Otoo chiến đấu để bảo vệ tôi, và hắn lồng lộn như một con thú dữ. Cách
dùng cây trùy của hắn thật là tài tình. Đầu bọn kia cứ vỡ nát như trái cam chín
mùi. Đến khi đánh tan bọn chúng, hắn vực tôi lên và cắm đầu chạy về xuồng, hắn
mới bị vết thương đầu tiên. Khi về đến xuồng hắn đã bị đâm bốn mũi giáo, nhưng
hắn lấy khẩu Winchester ra, và mỗi phát đạn là hạ được một tên. Rồi chúng tôi
chèo xuồng về thuyền và được điều trị lành vết thương.
Chúng tôi ở với nhau được 17 năm. Hắn đã đào tạo tôi. Nếu không có hắn, chắc
ngày nay, tôi hoặc đang quản đốc hàng hoá trên một tàu nào đó, hoặc vẫn đi mộ
phu, hoặc đã chết từ lâu rồi cũng nên.
Một hôm, hắn bảo tôi "Anh cứ làm đến đâu là tiêu đến đó. Bây giờ anh dễ
kiếm tiền lắm. Nhưng khi về già, anh tiêu hết tiền rồi, anh không thể đi kiếm
được nữa đâu. Tôi biết lắm. Tôi đã quan sát lối sống của người da trắng. Dọc
theo các bờ biển, có rất nhiều người già xưa kia đã có một thời thanh xuân kiếm
ra tiền như anh bây giờ. Nay họ về già, tay trắng, nên phải ngồi chầu chực bọn
trẻ như anh lên bờ để xin vài ly rượu."
"Người da đen làm nô lệ trong các đồn điền, lương bổng hàng năm có 20
mỹ-kim, mà phải làm việc cực nhọc. Còn bọn chủ nhân thì an nhàn; cưỡi ngựa đi
trông coi phu làm việc mà lương hàng năm lại tới 1200 mỹ-kim. Tôi là một thủy
thủ trên thuyền buồm, mỗi tháng được 15 đồng. Đấy là tôi thủy thủ hạng giỏi, và
tôi làm việc cực nhọc. Còn thuyền trưởng có lều hai mái che khỏi nắng, uống
rượu bia trong chai dài ngon lành. Chưa hề bao giờ tôi thấy ông ta cuốn một sợi
dây thừng hay sờ tới cái mái chèo cả; vậy mà ông ta ăn những 150 đồng một
tháng. Đấy vì tôi chỉ là thủy thủ còn ông ta thì lại là nhà hàng hải. Thầy à,
tôi thiết tưởng thầy nên biết thêm về hàng hải thì hơn".
Otoo thúc giục tôi. Rồi hắn trở thành phụ tá của tôi trên chiếc thuyền buồm đầu
tiên của tôi. Hắn còn hãnh diện hơn chính tôi về tài chỉ huy của tôi. Về sau,
hắn lại nói: