Tuyển Tập Truyện Ngắn Của Jack London - 10 - Part 1
Mất Mặt
Nguyên tác: Lost Face
Dịch giả: Lê Bá Kông và Võ Hà Lang
Thế
là hết. Subienkow đã trải qua một đoạn đường dài đầy cay đắng và hãi hùng, mong
trở về các thủ đô Âu Châu như một con bồ câu trở về tổ ấm, và tới đây, một nơi
xa xôi hơn bao giờ hết, tại một địa hạt trên Mỹ Châu thuộc Nga, con đường đã
tận cùng. Chàng ngồi trên tuyết, hai tay bị trói dật cánh khủyu sau lưng, chờ
đợi đến lượt bị tra tấn. Gã tò mò chầm chậm nhìn người lính Cossack to lớn nằm
sấp trên tuyết đằng trước mặt; miệng rên rỉ vì đau đớn. Bọn đàn ông đã hành hạ
hắn xong, rồi giao hắn cho đám phụ nữ. Cứ nghe tiếng kêu thét của người Cossack
đó thì rõ. Bọn này còn tàn ác hơn bọn đàn ông nhiều.
Subienkow tiếp tục nhìn và rùng mình vì kinh tởm. Chàng không sợ chết. Chàng đã
dùng đôi tay tự bảo vệ đời mình trên con đường gian nan suốt từ Warsaw đến
Nulato trong một thời gian dài dặc nên cái chết không làm chàng rùng mình được.
Nhưng chàng rất ghét lối tra tấn đó. Nó xúc phạm tâm hồn chàng. Tâm hồn chàng
bất bình không phải vì sự đau đớn chàng phải chịu đựng, mà vì cái cảnh thảm
thương do nỗi đau đớn gây trên thân thể chàng tạo ra. Chàng biết rằng chàng sẽ
cầu khẩn, van xin, lạy lục, như là Hộ Pháp Ivan và các kẻ khác đã làm. Điều này
không đẹp đẽ chút nào. Chết can đảm và đàng hoàng, miệng mỉm cười, diễu cợt..
như thế mới là đúng cách. Còn để mất tự chủ, tâm hồn rối loạn vì đau đớn của
xác thịt, miệng kêu choe choé và rên khừ khừ như con khỉ đột để trở thành thú
vật thật sự - ôi, đó thật là một điều khủng khiếp!
Không còn hy vọng gì thóat thân được. Ngay từ buổi đầu, khi chàng mơ giấc mộng
nồng nhiệt về nền độc lập của Ba Lan, chàng đã trở thành một tên bù nhìn đặt
trong tay của định mệnh. Từ buổi ban đầu, ở Warsaw, ở St. Petersburg, trong
miền hầm mỏ Tây Bá Lợi Á, ở Kamchatka trên những chiếc thuyền ba chìm bảy nổi
của bọn hải tặc chuyên cướp da thú, định mệnh đã xô đẩy gã đến bước đường cùng
này. Hiển nhiên trên nền tảng của thế giới bước đường cùng này cho đời chàng đã
được khắc rồi, một con người tế nhị và đa cảm, mà những dây thần kinh nằm sát
ngay dưới làn da, một người vốn mơ mộng, có tâm hồn thi sỹ, và một nghệ sỹ.
Trước khi mơ tưởng tới gã, tạo hóa đã định rằng cái mớ cảm giác sắc sảo dễ rung
động tạo thành chàng sẽ bị đày đọa trong cảnh dã man khủng khiếp, và bỏ xác tại
mảnh đất xa xôi tối tăm này, ở cái nơi tối âm u này, vượt quá những ranh giới
cuối cùng của thế giới.
Gã thở dài. Vậy ra con người trước mặt gã là Hộ Pháp Ivan - Hộ Pháp Ivan, người
khổng lồ, con người không cảm giác, con người bằng sắt, chàng Cossack quay ra
theo nghề cướp biển, con người lạnh lùng bình thản, với bộ thần kinh hệ chai
tới mức một sự đau đớn đối với người thường chỉ gãi ngứa cho hắn. Phải, cứ tin
ở những tên mọi da đỏ Nulato này đi, hãy xem chúng tìm ra những dây thần kinh
của Hộ Pháp Ivan và theo dõi những dây thần kinh này tới gốc rễ của tâm hồn run
rẩy của hắn. Chắc chắn là chúng đang làm công việc ấy. Người ta không thể tưởng
tượng được là một người lại có thể chịu đựng nhiều đau đớn như thế mà còn sống
được. Hộ Pháp Ivan đang phải trả một giá đắt vì bộ thần kinh chậm xúc cảm của
hắn. Hắn đã sống lâu gấp đôi bất cứ kẻ nào khác.
Subienkow cảm thấy chàng không thể chịu đựng nổi những cảnh đau đớn của tên
Cossack hơn nữa. Tại sao Ivan lại không chết quách đi? Chàng sẽ nổi điên mất,
nếu những tiếng thét kia không kết thúc. Nhưng khi tiếng thét chấm dứt thì lại
đến lượt chàng. Ngòai ra lại còn tên mọi Yakaga đang chờ chàng nữa, ngay lúc
này hắn đã nhìn chàng mà cười khóai trá. Yakaga, mà tuần trước chàng đã tống cổ
ra khỏi đồn và đã lấy roi đánh chó quất vào mặt nó. Yakaga sẽ ra tay tra tấn
chàng. Chắc chắn Yakaga đang sửa soạn dành cho chàng những cách tra tấn tinh vi
hơn, làm thần kinh đau buốt hơn. Ôi! Cứ nghe cách thức Ivan kêu thét lên cũng
biết là họ vừa dùng một đòn tra tấn tinh vi lắm. Những mụ đàn bà da đỏ bu chung
quanh hắn bước lùi lại, vừa cười vừa vỗ tay. Subienkow trông thấy rõ sự tàn ác
mà họ đã thi hành, chàng phá lên cười như điên dại. Bọn da đỏ nhìn chàng và
ngạc nhiên là tại sao chàng lại còn cười được. Nhưng Subienkow không sao nín được.
Như vậy không chu đâu. Chàng tự kiềm chế, tiếng cười làm rung rinh người chàng
dần dần im bặt. Chàng cố gắng nghĩ tới những điều khác, và bắt đầu hồi tưởng
lại những việc đã xảy ra trong đời chàng. Chàng nhớ tới cha mẹ, nhớ tới con
ngựa nhỏ bé có chấm lốm đốm, tới ông thầy dạy tư người Pháp đã dạy chàng khiêu
vũ và dúi cho chàng cuốn sách cũ nát của triết gia Voltaire. Một lần nữa chàng
thấy Paris, rồi thành phố London ảm đạm, rồi Vienna tưng bừng, và La Mã cổ
kính, và một lần nữa, chàng lại thấy nhóm thanh niên bồng bột mơ tưởng, như
chàng đã mơ tưởng, giấc mơ về một nước Ba Lan độc lập có hoàng đế Ba Lan trên
ngai vàng ở Warsaw. Ôi! đoạn đường dài khởi đầu chính từ đó. Chàng đã sống lâu
nhất. Lần lượt từng người, bắt đầu là hai người bị xử tử ở St. Petersburg,
chàng tiếp tục đếm những con người có tâm hồn can đảm đã mất. Chỗ này một kẻ bị
tên cai ngục đánh đập cho đến chết, rồi chỗ kia, trên con đường loang lổ máu
của những kẻ tù đầy, nơi họ đã đi hàng tháng trời bất tận, đã bị những tên lính
gác người Cossack đánh đập, một kẻ khác đã bị bỏ lại bên đường. Luôn luôn họ bị
đối xử dã man hung bạo như thú vật vậy. Họ đã chết vì bị nóng lạnh trong những
hầm mỏ, dưới ngọn roi da. Hai người cuối cùng đã chết sau khi trốn thóat, trong
cuộc ẩu đả với bọn Cossack, và duy có chàng tới được Kamchatka với những giấy
tờ ăn cắp được và tiền bạc của một du khách mà chàng đã bỏ nằm ngắc ngoải trên
tuyết.
Chỉ toàn là cảnh dã man. Suốt bao năm trường, với tâm hồn gửi vào những phòng
làm việc*, những rạp hát và những triều đình, chàng lại bị bao vây trong cảnh
dã man. Chàng đã mua cuộc đời chàng bằng máu. Người nào cũng đã từng là kẻ sát
nhân. Chàng đã giết người du khách để lấy giấy thông hành. Chàng đã tỏ ra là
một người có can trường qua hai cuộc đấu kiếm với hai sỹ quan Nga cùng trong
một ngày. Chàng phải tỏ ra là người thế nào thì mới dành được một địa vị trong
bọn cướp da thú. Chàng phải dành bằng được chỗ đó. Đằng sau chàng là con đường
đã có từ hàng ngàn năm xuyên qua Siberia và nước Nga, chàng không thể trốn theo
con đường đó được. Con đường duy nhất là tiến về phía trước, vượt qua biển
Bering tối tăm băng giá để tới Alaska. Con đường đó đưa từ cảnh dã man tới cảnh
dã man hơn. Trên những con tàu hôi thúi mùi bệnh họai huyết, thiếu thức ăn,
thiếu nước uống, bị những trận bão bất tận của biển cả quất lên quất xuống, con
người đã trở thành thú vật. Đã ba lần chàng đáp tàu từ Kamchatka đi về phía
đông. Và cả ba lần, sau khi trải qua đủ cảnh gian truân khổ sở, những kẻ sống
sót lại trở về Kamchatka. Ở đó không có lối thóat nào để trốn cả; và chàng lại
không thể trở về đường cũ được, vì hầm mỏ và roi da có buộc cục sắt vẫn chờ đợi
chàng.
Một lần nữa, lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng, chàng đã đáp thuyền đó về
hướng đông. Chàng đã sống chung với những người đầu tiên đầu tiên đã tìm ra
những đảo Hải Cẩu thần kỳ; nhưng chàng không quay lại với họ để chung hưởng
cảnh giàu có phong túc do những tấm da thú mang lại, trong những bữa tiệc đầy
hoan lạc tại Kamchatka. Chàng đã thề rằng không bao giờ quay trở lại. Chàng
biết rằng muốn đặt chân trở lại những thủ đô thân mến ở Âu Châu, chàng phải
tiếp tục tiến. Vì thế mà chàng thấy cần phải chuyển sang tàu khác và ở lại vùng
đất tối tăm đó. Bạn bè của chàng là những thợ săn người Slovania, những tay
giang hồ Nga, người Mông Cổ, người Thát Đát, thổ dân Siberia; họ đã mở đường
máu qua những cảnh hoang dã của Tân Thế Giới. Họ đã tàn sát những làng không
chịu cung phụng da thú; và sau đó đến lượt họ bị những công ty hàng hải tàn
sát. Chàng cùng với một người Phần Lan là hai kẻ còn sống sót. Họ đã trải qua
một mùa đông cô quạnh và đói khát trên hòn đảo chơ vơ Aleutian; một chiếc tàu
chở da thú khác đã cứu họ vào mùa xuân năm ấy, và đó là một chuyện tình cờ quả
thật hãn hữu.
Những khung cảnh man rợ khủng khiếp luôn luôn bao vây chàng. Vì không chịu quay
trở lại, và cứ chuyển tàu này sang tàu khác, chàng đã tới chiếc tàu đến thám
hiểm miền Nam. Suốt dọc bờ biển Alaska, họ toàn gặp những toán người man rợ.
Mỗi lần bỏ neo, dù là ở một hòn đảo cheo leo hay tại những bờ biển lởm chởm đá
của đất liền, là một lần xung đột hoặc một lần gặp bão tố. Hoặc gió thổi mạnh
như muốn phá tan tành chiếc tàu; hoặc thổ dân, miệng hò hét, mặt vẽ sơn khi
xuất trận, chèo những chiếc thuyền ra khơi để thử thách sức tàn sát của thuốc
súng của những tay cướp biển. Họ cứ đi dọc theo bờ biển xuống tận miền Nam, tới
mảnh đất thần bí của vùng California. Người ta nói rằng những kẻ phiêu lưu Tây
Ban Nha đã từ Mexico tiến lên tới đây sau nhiều trận tranh hùng. Chàng nuôi hy
vọng là sẽ gặp được những tay hảo hán Tây Ban Nha đó. Chỉ cần trốn thóat được
để tới gặp họ, là hết khó khăn - một năm hay hai năm, chậm hay nhanh một chút,
nào có quan hệ gì? - chàng sẽ tới Mexico, rồi lên một chiếc tàu, thế là chàng
sẽ về tới Âu Châu. Nhưng họ không gặp người Tây Ban Nha nào. Họ chỉ gặp bức
tường man rợ vững chắc. Bọn thổ dân ở bên lề thế giới, mặt bôi những vết sơn
khi xuất trận, đã đánh lui họ khỏi bờ biển. Sau cùng, khi một chiếc thuyền bị
phá hủy và các người trên thuyền bị giết chết hết, viên thuyền trưởng liền bỏ
giở cuộc thám hiểm rồi cho quay trở về hướng Bắc.
Nhiều năm tháng trôi qua. Chàng đã làm việc dưới quyền của Tebenkoff trong khi
đồn Michaelovski đang được xây cất, và chàng đã sống hai năm tại xứ Kuskowin.
Liền hai mùa hạ, vào tháng Sáu, chàng tìm cách để tới mũi eo biển Koizebue. Vào
dịp này các bộ lạc hợp nhau để trao đổi hàng hóa; tại đây người ta thấy những
tấm da hươu sao từ Siberia đem lại, ngà voi của xứ Diomedes, da hải mã từ những
miền duyên hải Bắc Cực, những chiếc đèn bằng đá lạ lùng, được trao đổi từ bộ lạc
này sang bộ lạc khác, nhưng không ai rõ xuất xứ, và có lần cả một con dao chế
tạo tại Anh; Subienkow biết rằng đây là chỗ tiện lợi nhất để tìm hiểu về địa
dư. Vì chàng đã gặp những người Eskimo ở eo biển Norton, Đảo King và đảo St.
Lawrence, Mỏm Hoàng Tử Wales và Mỏm Barrow. Những nơi đó còn có những tên khác
nữa, và khoảng cách phải tính bằng ngày đi đường.
Những người man rợ tới đổi chác hàng hóa tại đây đã từ một vùng rộng bao la
tới, và những cây đèn bằng đá và con dao bằng thép kia lại từ một vùng rộng lớn
hơn nữa tới sau khi được trao đổi qua tay nhiều người. Subienkow đã dùng đủ
cách, hăm dọa, tán tỉnh, đút lót. Chàng gặp tất cả những người đã từng đi xa
hay thuộc những bộ lạc lạ. Chàng được nghe kể nhiều chuyện hiểm nguy không kể
xiết, được nghe người ta kể lại về những thú rừng, những bộ lạc không ưa người
lạ, những khu rừng không sao vào được, những dãy núi cao hùng vĩ; nhưng ngòai
những chuyện đó, chàng còn được nghe đồn đại về những người da trắng, mắt xanh,
tóc vàng, chiến đấu dữ tợn như quỷ và luôn luôn chỉ lo tìm dã thú. Họ ở về phía
đông, tuốt mãi về phía đông xa tắp. Chưa ai gặp họ. Người ta chỉ kháo như vậy
mà thôi.
Thật là một ngôi trường khó học. Người ta không thể hiểu rõ ràng về địa dư qua
những thổ âm kỳ lạ, theo lời nói của những kẻ có đầu óc tối tăm coi chuyện
hoang đường là chuyện thật và đo những khoảng đường xa bằng những "giấc
ngủ" dài ngắn tùy theo đường đi khó hay dễ. Nhưng sau cùng có một câu
chuyện phong thanh làm cho Subienkow phấn khởi. Những người mắt xanh đó sống
tại một vùng ở về phía Đông bên một con sông lớn. Con sông đó tên là Yukon.
Phía Nam đồn Michaelovski cũng có một con sông lớn chảy ra, sông ấy người Nga
mệnh danh là Kwikpak. Theo lời người thuật chuyện thì hai con sông này chỉ là
một.
Subienkow trở lại Michaelovski. Suốt một năm trời, gã hối thúc mở một cuộc thám
hiểm ngược dòng sông Kwikpak. Thế rồi Malakoff, người lai Nga, đứng lên dẫn đầu
những tên man dã và hung bạo nhất trong đám dân lai phiêu lãng từ Kamchatka
tới. Subienkow làm phụ tá. Họ len lỏi qua những con đường ngoằn ngoèo trong
miền trung châu sông Kwikpak, leo lên những quả đồi thấp đầu tiên trên bờ phía
Bắc, và suốt năm trăm dặm, trên những con thuyền độc mộc bọc da chở hàng hóa và
đạn dược đầy đến tận mạn, họ chống cự lại guồng nước chảy xiết của con sông
rộng từ hai đến mười dặm chảy trong một khe sâu hàng mấy sải tay. Malakoff
quyết định xây một đồn trại ở Nulato. Subienkow thúc dục lão tiến xa hơn, nhưng
rồi chàng cũng vội vàng đồng ý ở lại Nulato. Mùa Đông dài dặc sắp tới. Tốt hơn
là hãy chờ. Mùa Hạ tới, khi tuyết tan hết, chàng sẽ trốn đi ngược dòng sông
Kwikpak và tiến tới những trạm mậu dịch của Công ty Vịnh Hudson. Malakoff chưa
từng nghe nói rằng chính Kwikpak là sông Yukon và Subienkow cũng dấu không cho
lão biết chuyện đó.
Công cuộc xây đồn lũy bắt đầu. Đồn đó xây bằng lao công cưỡng bách. Những lớp
tường bằng gỗ được dựng lên trong những tiếng thở dài và rên xiết của dân da đỏ
Nulato. Lưng họ hứng chịu những ngọn roi da, và những ngọn roi đó do bàn tay
sắt của quân cướp biển quất lên họ. Có một vài thổ dân da đỏ bỏ trốn, và khi bị
bắt, họ bị đem về và căng nọc trước đồn, rồi họ và những dân trong bộ lạc được
nếm mùi hiệu lực của chiếc roi da đầu buộc cục sắt. Hai người chết dưới ngọn
roi đó; nhiều kẻ khác phải mang thương tích suốt đời, những người còn lại nhớ
đời bài học đó và không còn dám trốn đi nữa. Tuyết bay tả tơi trước khi pháo
đài được hoàn thành, thấm thóat tới mùa kiếm da thú. Các bộ lạc được lệnh phải
cống hiến một số lớn da thú. Dân bộ lạc tiếp tục bị đánh đập, bị roi quất lên
lưng; và để buộc họ phải cống hiến, đàn bà và con trẻ bị giữ làm con tin và bị
đối xử rất dã man mà chỉ riêng có bọn cướp da thú mới biết làm mà thôi.
Ở đời ác giả ác báo, gieo gió thì gặt bão. Những kẻ đã gieo máu thì bây giờ lại
phải gặt kết quả bằng máu. Đồn bị thiêu hủy. Trong khi đồn cháy, bọn cướp da
thú đã bị sát hại hết một nửa. Nửa sống sót kia đã chết dần mòn vì tra tấn. Chỉ
còn sót có Subienkow, hoặc Subienkow và gã Hộ pháp Ivan, nếu cái hình thù đang
ngắc ngỏai rên xiết nằm trên tuyết kia còn có thể gọi là Hộ pháp Ivan.
Subienkow bắt gặp Yakaga đang nhe răng cười với chàng. Nói với Yakaga cũng
chẳng ăn thua gì. Vết roi hãy còn in hằn trên mặt hắn. Nói cho cùng, Subienkow
chẳng thể trách hắn được, nhưng chàng không thích nghĩ tới những cách thức mà
Yakaga sẽ áp dụng để tra tấn chàng. Chàng nghĩ tới giải pháp van xin tên Chúa
tể Makamuk; nhưng suy đi nghĩ lại, chàng thấy là van xin cũng vô ích. Chàng còn
nghĩ tới chuyện dứt đứt dây trói để được chết trong khi xung đột. Chết như thế
sẽ mau chóng. Nhưng chàng không thể dứt dây trói được. Dây da hươu khoẻ hơn
chàng. Đang suy mưu tính kế thì một ý nghĩ khác chợt hiện trong óc chàng. Chàng
ra hiệu gọi Makamuk, và làm hiệu để cho gọi một người thông ngôn biết thổ âm
miền Duyên Hải.
"Này, Makamuk", chàng nói: "Ta không định chết đâu. Ta là một
siêu nhân, ta không điên rồ gì mà chết. Thật thế, ta sẽ không chết. Ta không
giống những cái xác hèn kém này đâu."
Gã nhìn cái đống thịt đang rên rỉ mà trước kia là Hộ pháp Ivan, rồi lấy ngón
chân hất nhẹ một cách khinh bỉ.
"Ta quá khôn nên không chết được. Nghe này, ta có một môn thuốc thần bí
truyền không ai biết. Vì ta không chết, nên ta sẽ đổi môn thần dược này cho
mi."
"Thuốc đó là thuốc gì?" Makamuk nói.
"Nó là một môn thuốc kỳ lạ."
Subienkow tần ngần suy nghĩ một lát làm như tiếc rẻ không muốn lộ bí
quyết.
"Ta sẽ bảo mi. Một chút thuốc đó xoa lên da sẽ làm cho da cứng như đá,
cứng như sắt, đến nỗi không có khí giới nào cắt đứt được. Một võ khí dù chém
mạnh đến đâu cũng không ăn thua gì cả. Một con dao bằng xương đối với nó cũng
chỉ là cục bùn, thuốc này sẽ làm cho những con dao sắt của bọn ta mang tới đây
phải cong lưỡi. Mi sẽ cho ta gì để đổi lấy cái bí quyết của môn thuốc
này?"
"Ta sẽ để cho mi sống." Makamuk trả lời qua tên thông ngôn.
Subienkow phá lên cười với một giọng khinh bỉ.
"Và mi sẽ làm nô lệ trong nhà ta cho đến chết."
Người Ba Lan cười bằng giọng khinh bỉ hơn.