Martin Eden - Chương 07 part 2

"Tôi không biết liệu tôi có được cô vui lòng giúp đỡ ý kiến," gã bắt đầu nói, và khi biết nàng sẵn sàng, lòng gã rộn lên. "Cô có còn nhớ lần trước tôi đến đây, tôi đã nói tôi không thể nào nói chuyện về sách vở vì tôi không biết nói thế nào. Vâng, từ hôm ấy, tôi suy nghĩ nhiều lắm. Tôi đến thư viện luôn, nhưng hầu hết những cuốn sách tôi đọc đều vượt quá sự hiểu biết của tôi. Có lẽ tôi nên bắt đầu từ đầu thì hơn. Suốt đời tôi chưa bao giờ có may mắn học tập. Tôi phải làm lụng vất vả từ tấm bé. Từ hôm vào Thư viện tôi nhìn những cuốn sách bằng con mắt khác, và nhìn những cuốn sách mới nữa. Tôi đã phải kết luận rằng từ trước đến nay tôi đã đọc những cuốn sách chẳng ra làm sao? Chắc cô cũng biết sách vở ở những trại chăn nuôi và tàu biển thì không giống với sách vở có trong nhà ta đây, chẳng hạn. Vâng, từ trước đến nay tôi chỉ quen đọc những sách như vậy. Thế mà, không phải tôi nói huênh hoang đâu, tôi khác xa những người tôi cùng chung sống. Không phải tôi hơn gì những người thủy thủ và những người chăn bò, mà tôi đã từng cùng đi lang thang đây đó. Chắc cô biết đấy, có một thời gian ngắn tôi đã làm nghề chăn bò, nhưng bao giờ tôi cũng thích đọc sách, thích đọc tất cả cái gì tôi vớ được. À, vâng, đúng, tôi cho rằng tôi nghĩ khác hầu hết bọn họ. 

Bây giờ, xin đi vào vấn đề. Chưa bao giờ tôi bước chân vào một ngôi nhà thế này. Tuần lễ trước, khi đến đây, được trông thấy tất cả những thứ này, thấy cô, mẹ cô, anh chị em cô, và tất cả... thì... tôi thích lắm. Tôi đã được nghe nói về những cái này, được đọc cái này trong một vài cuốn sách, và khi tôi nhìn chung quanh nhà ta đây, thì tôi thấy sách họ nói sự thật. Nhưng điều tôi nói là tôi thích cái đó. Giờ đây tôi muốn cái đó, tôi muốn có cái đó. Tôi muốn hít thở cùng làn không khí như cô trong tòa nhà này - làn không khí chứa đầy sách vở, tranh ảnh và những thứ đẹp đẽ, nơi mà người ta trò chuyện nhẹ nhàng, nơi mà người ta sống sạch sẽ, tư tưởng người ta trong lành. Cái không khí mà suốt đời tôi hít thở nó lẫn cả mùi bếp núc, dơ dáy, tiền nhà, tiền cửa, chửi rủa, nhậu nhẹt, và chuyện của nó cũng toàn như vậy đó. Cô ạ, khi cô bước vào phòng để hôn bà mẹ cô, tôi nghĩ rằng đó là một điều đẹp đẽ nhất mà tôi chưa từng được trông thấy. Cuộc đời tôi đã biết nhiều và vì lý do này khác, tôi còn biết đời nhiều hơn hầu hết những người bạn cùng chung sống với tôi. Tôi thích nhìn, tôi muốn được nhìn nhiều hơn nữa, và muốn nhìn đời khác đi. 

Nhưng tôi vẫn chưa đi vào vấn đề. Đây, nó thế này. Tôi muốn tiến lên sống một cuộc sống giống của cô trong tòa nhà này. Cuộc đời còn có những cái có ý nghĩa nhiều hơn là những chuyện nhậu nhẹt, làm ăn vất vả và ẩu đả nhau. Vậy làm sao để sống thế được. Tôi phải bấu víu vào đâu để bắt đầu? Tôi sẵn sàng làm việc không công trên tàu để được đi tàu, cô biết đấy. Làm công việc nặng nhọc, tôi có thể làm người khác phát sợ lên. Một khi tôi đã bắt đầu, tôi sẽ làm việc không kể ngày, đêm. Có lẽ tôi hỏi cô những điều đó, cô cho là buồn cười lắm. Tôi biết cô là người tôi không nên hỏi, nhưng tôi không còn biết ai khác để có thể hỏi nữa - trừ Arthur. Có lẽ tôi nên hỏi anh ấy chăng. Nếu tôi... " 

Tiếng nói của gã chìm đi. Chỉ mới nghĩ đến việc kinh khủng phải đi hỏi Arthur và như vậy biến thành một trò hề là dự định đã được sắp xếp một cách cương quyết của gã bỗng dưng sựng lại. Ruth không nói ngay. Nàng đang quá mải nghĩ, cố liên hệ những lời nói vấp váo, thô bạo, giản đơn của gã, với những thứ nàng thấy trên nét mặt của gã. Nàng chưa từng thấy trong con mắt nào biểu lộ một sức mạnh lớn hơn. Đó là một con người có thể làm được bất cứ chuyện gì - đó là điều nàng đọc thấy trong đôi mắt ấy, điều đó không phù hợp với sự yếu đuối của những ý nghĩ mà gã vừa nói lên. Và đối với vấn đề này, trí óc nàng khá phức tạp, khá nhạy cảm không thể đánh giá đúng sự giản đơn của nó. Tuy nhiên, nàng cũng thấy được sức mạnh trong chính sự mò mẫn tìm đường của trí óc kia. Đối với nàng, đó là một gã khổng lồ đang quằn quại, đang vùng vẫy khỏi những xiềng xích trói ghì nó xuống. Khi nói, nét mặt nàng đầy thiện cảm. 

"Chính ông cũng biết đây, cái mà ông cần là học vấn. Ông phải quay lại học hết tiểu học, rồi qua trung học đến đại học." 

"Nhưng như thế thì phải tốn tiền," gã ngắt lời. 

"Ồ!" Nàng kêu lên. "Tôi không nghĩ đến điều đó. Nhưng ông hẳn có họ hàng, bà con nào đó có thể giúp đỡ được chứ?" 

Gã lắc đầu: 

"Bố mẹ tôi chết cả rồi. Tôi có một người chị và em gái. Chị tôi đã lấy chồng, còn cô em cũng sắp sửa. Tôi chắc thế. Tôi có một lô anh - tôi là út - nhưng chẳng người nào giúp đỡ được nhau cả. Họ lang bạt khắp nơi, người nào cũng muốn dựng cơ đồ. Anh cả tôi đã chết ở Ấn Độ. Hai anh khác hiện đang ở Nam Phi. Một anh nữa làm nghề săn cá voi còn một người theo đoàn xiếc, chơi đu bay. Tôi nghĩ tôi cũng y như họ thôi. Tôi phải tự lo lấy thân khi mười một tuổi - đó là lúc mẹ tôi chết. Tôi phải tự học, và nghĩ rằng, điều tôi muốn biết là bắt đầu từ đâu?" 

"Tôi muốn nói điều trước tiên là phải kiếm một quyển ngữ pháp. Ngữ pháp của ông thật... " Nàng định nói "kinh khủng" nhưng nàng vội chữa "không được tốt lắm." 

Gã đỏ mặt, toát mồ hôi: 

"Tôi biết. Tôi dùng nhiều tiếng lóng và những chữ mà cô không hiểu được. Nhưng đó là những chữ độc nhất tôi biết để mà nói. Trong óc tôi cũng có nhiều chữ khác nhặt được ở sách vở, nhưng tôi không biết đọc thế nào vì thế tôi không dùng." 

"Vấn đề không phải là ở chỗ ông nói cái gì mà chính là ở chỗ phải nói thế nào. Tôi nói thẳng, ông không để tâm chứ? Tôi không muốn làm phật lòng ông đâu?" 

"Không, không mà," gã kêu lên, thầm cảm ơn lòng tốt của nàng. "Cô cứ nói thẳng đi. Tôi muốn được biết. Nhờ cô mà được biết sớm còn hơn là phải nhờ bất cứ người nào khác!" 

"Vâng, thế này. Đáng lẽ phải nói "you were" ông lại cứ nói là "you was. Đáng lẽ phải nói "I saw" thì ông lại nói "I seen". Và ông hay dùng hai phủ định... " 7

"Hai phủ định là cái gì?" Gã hỏi và rụt rè nói thêm. "Cô thấy đấy, ngay những lời cô giảng, tôi cũng không hiểu." 

"Tôi e rằng tôi chưa giảng điều đó," nàng mỉm cười. "Hai phủ định nghĩa là - để tôi xem nào - à... ông nói "never helped nobody". "Never" là một phủ định, "nobody" cũng là một phủ định. Theo luật ngữ pháp thì hai phủ định có giá trị là một khẳng định "never helped nobody" có nghĩa là "không giúp đỡ không một ai" nghĩa là họ có giúp đỡ một người nào đó." 

"Khá rõ rồi đấy ạ. Trước đây không bao giờ tôi nghĩ thế. Nhưng thế không có nghĩa là "họ đã phải giúp đỡ một người nào đó" có phải thế không ạ? Với tôi hình như câu: "never helped nobody" tất nhiên không có nghĩa là "họ giúp đỡ một người nào đó" đâu. Trước đây không bao giờ tôi nghĩ thế. Tôi sẽ không bao giờ nói như thế nữa". 

Nàng sung sướng và ngạc nhiên trước nhận thức mau lẹ và chắc chắn của gã một khi gã đã nắm được mấu chốt thì không những gã hiểu ngay mà gã còn có thể chữa được sai lầm của nàng. 

Nàng nói tiếp: 

"Ông sẽ thấy tất cả những cái đó trong sách ngữ pháp. Trong lời nói của ông tôi còn nhận thấy một vài điều khác. Ông nói "don�t" không đúng chỗ, "don�t" là một chữ viết tắt gồm có hai chữ. Ông có biết là hai chữ gì không?" 

Gã nghĩ một lúc rồi trả lời: "Do not." 

Nàng gật đầu nói: "Ông dùng "don�t" khi ý ông muốn nói "does not."" 

Gã bối rối, không thể hiểu ngay được: 

"Xin cô cho một ví dụ." 

"Vâng," nàng nhíu lông mày mím môi lại suy nghĩ trong khi gã đăm đăm nhìn mặt nàng và thấy nó đáng yêu vô cùng. "Thí dụ câu: "It don�t do to be hasty" 8 . Thử đổi "don�t" ra "do not" thì sẽ đọc là: "It do not do to be hasty," như thế hết sức chướng." 

Gã xoay lộn chữ đó trong óc, ngẫm nghĩ. 

Nàng gợi ý: 

"Ông nghe nói thế có chướng tai không?" 

"Càng không thể nói là nó chướng tai được" (Can�t say that is does), gã trả lời có vẻ cân nhắc lắm. 

"Tại sao ông không thể nói "Can�t say that it do"?" Nàng hỏi. 

�"Nghe thế nó sai," gã chậm rãi trả lời "Nói tại sao thì tôi cũng không hiểu được. Tôi nghĩ rằng tai tôi không được tập luyện nghe như cô (I guess my ear ain�t 9 had the trainin� your has).    
"Không có chữ nào là ain�t cả," nàng nói khá nhấn mạnh. 

Martin lại đỏ mặt. 

Nàng nói tiếp: "Đáng lẽ: been, ông lại cứ nói "ben" đáng lẽ "I came" ông lại cứ nói "I come" 10. Và cái lối ngắt âm cuối của ông thật quá lắm." 

"Cô định nói thế nào ạ?" Gã rướn người về đằng trước, cảm thấy như phải quì trước bộ óc kỳ diệu đến như vậy. "Tôi phải ngắt thế nào ạ?" 

"Ông không phát âm hết những âm cuối "and" đánh vần "a-n-d" thì ông chỉ "a-n". "Ing" là "I-n-g" thì ông lại bỏ "g" đi. Ông hay lướt bỏ những âm đầu và nguyên âm đôi. "Them" đánh vần "T-h-e-m" thì ông lại phát âm là... nhưng thôi, chả cần thiết phải kể ra hết làm gì. Cái mà ông cần là ngữ pháp. Tôi sẽ lấy một quyển và chỉ dẫn cho ông nên bắt đầu như thế nào?" 

Lúc nàng đứng dậy, một điều đã đọc được trong những cuốn sách dạy phép xã giao thoáng vụt qua đầu óc gã, gã vụng về đứng lên, băn khoăn không hiểu làm như vậy có đúng không, sợ nàng cho là gã có ý muốn về chăng? 

"À này, nhân thể, ông Eden," lúc sắp bước ra khỏi phòng, nàng còn ngoái lại hỏi. "Nhậu nhẹt là cái gì, ông cứ nói chữ đó luôn, ông biết đấy!" 

"Ồ, nhậu nhẹt," gã cười, "đó là tiếng lóng có nghĩa là whiskey, bia, bất cứ cái gì làm cho "cô" say sưa (make you 11 drunk)." 

"Lại còn điều này nữa," nàng ngoái lại cười. "Đừng dùng "you" trong trường hợp vô nhân xưng, "you" chỉ định một người nào rõ ràng. Ông dùng nó ở đây là không đúng với ý ông định nói đâu." 

"Tôi không nhận thấy điều đó!" 

"Đấy, ông vừa mới nói với tôi "whiskey và bia, bất cứ cái gì làm cho (you) say sưa", tức là làm cho tôi say sưa, ông thấy không?" 

"À, thế ạ, thật thế ạ!" 

"Đúng, tất nhiên," nàng mỉm cười, "đừng đưa tôi vào cái chuyện say sưa thì tốt hơn. Thay "you" bằng "one" 12 , và ông thấy như thế nghe hay hơn nhiều chứ." 

Khi nàng quay về phía phòng với cuốn ngữ pháp, nàng kéo một cái ghế đến gần ghế của gã. Gã băn khoăn không biết có nên giúp đỡ nàng làm việc đó không. Nàng ngồi xuống cạnh gã. 

Nàng giở những trang sách, đầu hai người chụm vào nhau. Gã hầu như không thể theo dõi được sự chỉ dẫn của nàng về công việc gã phải làm, sự gần gũi kỳ thú ấy khiến gã bàng hoàng. Nhưng đến khi nàng giảng tới sự quan trọng của cách chia động từ, thì gã như bị huyễn hoặc trong những quy luật của ngôn ngữ. Gã cúi gần hơn xuống trang sách, tóc nàng chạm vào má gã. Đời gã mới chỉ bị ngất có một lần. Gã nghĩ rằng gã sắp sửa bị ngất một lần nữa. Gã hầu như không thở được. Trái tim gã đập nhanh, dồn máu lên cổ làm cho cổ nghẹt lại. Chưa bao giờ nàng hình như là con người có thể đến gần được như lúc này. Trong một lúc cái vực thẳm rộng lớn ngăn cách giữa hai người đã được bắc cầu nối qua. Nhưng tình cảm cao quý của gã đối với nàng không vì thế mà giảm sút. Không phải nàng tự hạ xuống đến với gã. Mà chính gã đã được nâng lên trên những áng mây, đưa tới nàng. Lòng tôn kính của gã đối với nàng lúc này cũng giống như lòng mộ đạo, vừa kính sợ vừa nhiệt thành. Đối với gã, hình như gã đã xâm nhập được vào nơi thiêng liêng; chậm chạp, cẩn thận, gã né đầu tránh sự đụng chạm đã làm gã rung lên như một tia điện giật mà nàng thì vẫn không hay biết.

--------------------------------

1 Ricardo: David Ricardo (1772 - 1823) - một nhà kinh tế học người Anh. 
Adam Smith (1723 - 1790) cũng là một nhà kinh tế học người Anh. Hai ông này là đại biểu cho môn phái kinh tế học cổ điển của giai cấp tư sản. 
John Stuart Mill (1806 - 1873) - một nhà triết học kiêm kinh tế học người Anh.
2 Bà Helena - Detrovna Blavatsky (1831-1891) một nhà thần bí học người Nga.
3 Tác phẩm của nhà kinh tế chính trị học Mỹ Hearl George (1839-1897).
4 Charles Mills Gayley (1858 - 1932) nhà giáo dục học kiêm văn sĩ người Mỹ.
5 Thomas Bullfing (1796 - 1807) văn sĩ người Mỹ chuyên nguyên cứu thần thoại.
6 Ngày xưa các kỵ sĩ khi chịu phong tước, bị người phong tước lấy gươm gõ lên bả vai rồi ôm hôn.
7 "You were": thì quá khứ của ngôi thứ hai, động từ To be, nói "you was" là sai ngữ pháp. Saw là quá khứ của động từ To see. Seen là quá khứ phân từ. Nói I seen là sai... Hai phủ định (double negation) có giá trị khẳng định. Nói phủ định mà lại dùng hai phủ định là sai.
8 Nghĩa là "hấp tấp là không làm nên chuyện gì." Đối với ngôi thứ ba số ít thì phải viết là: It does not (doesn�t) chứ không phải là: it do not (it don�t).
9 Không nói ain�t, phải nói aren�t (are not ). Nói "ain�t had" cũng là sai ngữ pháp.
10 Been: quá khứ phân từ của to be (nghĩa là "là"). Nói ben là sai. 
I came: thì quá khứ của động từ "I come" (đến) 
I come: thì hiện tại của động từ To come. Martin dùng sai thì.
11 You: có thể vừa chỉ nam vừa chỉ nữ (ngôi thứ 2, số ít, số nhiều).
12 Thay "cô" bằng "người ta." "One" là đại từ bất định.