Cô gái mang trái tim đá- Chương 05-P02

Bác sĩ Hnatiuk cứ vài ngày lại đến phòng tôi một lần để đưa sách tâm lý học. Tôi bắt đầu thấy thích ông ta. Tôi chẳng biết mình thay đổi thái độ với ông ta từ khi nào vì tôi chưa từng phun ra câu: “Này, rốt cuộc sóc chuột cũng không đến nỗi tệ lắm đâu nhỉ.” Ông ta cứ âm thầm tiếp cận tôi. Quan trọng nhất là ông ta đã không lôi cái quan hệ bác sĩ-bệnh nhân ra áp dụng với tôi nữa, mà cứ để cuộc trò chuyện diễn ra tự nhiên. Một điều quan trọng khác là ông ta cũng thích cái gargoyle Marianne Engel tặng tôi, trong khi Beth lại gọi nó là “thứ đồ nhỏ thó xấu xí”. Tuy nhiên, điều thực sự làm tôi thấy có hứng thú với Gregor là, trái ngược với vẻ ngoài nhu nhược, ông ta là người sống đam mê và tận tâm với công việc. Một chiều nọ, ông ta kể tràng giang đại hải về những tên luật sư mà theo ông ta là kẻ thù lớn nhất của tâm lý trị liệu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông ta kể tôi nghe bọn họ đã đấu tranh cho quyền lợi của bệnh nhân như thế nào - đúng là đáng hoan nghênh - nhưng lại còn lên đến mức mặc kệ bệnh nhân ăn phân của mình nữa chứ. “Cứ mặc kệ bọn luật sư biến phân thành thức ăn dinh dưỡng.”
Vài tuần trôi qua, Gregor bất ngờ thay đổi ngoại hình. Ông ta đã vứt đôi giày moca cùng chiếc quần nhung tăm siêu phản cảm và bắt đầu mặc những bộ quần áo dường như hợp với mình hơn. Dù chúng không thể được coi là “phong cách”, nhưng nói chung cũng tạm chấp nhận được. Ông ta cũng chăm chỉ luyện tập thể thao đến độ đôi gò má hồng hào trông không còn giống như hậu quả của việc phi lên cầu thang nữa, và ông cũng đã giảm được chút mỡ thừa quanh bụng.
Gregor chẳng bao giờ hỏi vì sao tôi đọc sách tâm lý, nhưng ông ta luôn sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của tôi về bệnh tâm thần phân liệt. Dù tôi chưa bao giờ đả động đến tên cô trong bất cứ cuộc nói chuyện nào, một ngày tôi đã nói hớ ra (thực ra cũng không hẳn là lỡ miệng cho lắm) rằng tôi thực hiện những nghiên cứu này vì sợ một người bạn của tôi CÔ TA KHÔNG PHẢI BẠN NGƯƠI có thể mắc chứng này. CÔ TA CHỈ LÀ MỘT CON ĐIÊN.
“Tôi biết rồi,” Gregor nói. “Marianne Engel.”
Gregor có vẻ thỏa mãn vì đã chứng tỏ bản thân mình hơn tôi một bậc, nhưng tôi đoán chắc ông ta cũng đã được thông báo về việc này khi bác sĩ Edwards cố thuyết phục tôi hạn chế các cuộc viếng thăm của cô. Gregor đúng là có điều trị cho cô vài lần, ông ta nói, là người cuối cùng chữa cho cô khi cô phải nhập viện vì đã “nói chuyện với các hồn ma” nơi công cộng. “THẤY CHƯA?” Tôi hỏi sao ông ta lại không nói chuyện này với tôi từ trước. Ông ta dẫn lại lời thề Hypocrate, và chua thêm là sẽ không đả động đến cô nữa ngoài những điều đã nói.
“Vả lại,” ông ta nói. “Tôi cũng sẽ không khẳng định hay phủ nhận đấy có phải một ca tâm thần phân liệt hay không.”
Gregor cũng bảo rằng ông ta chưa bao giờ hé lộ nội dung những cuộc trò chuyện giữa tôi và ông ta cho bất kỳ ai. Tôi nói ông ta thích buôn gì thì buôn, vì tôi không phải bệnh nhân của ông ta. Đáp lại, ông ta bảo rằng chúng tôi vẫn đang ở trong bệnh viện mà tôi là bệnh nhân còn ông ta là bác sĩ, vì thế ông ta coi lý do này là đủ cho việc bảo mật thông tin rồi. Tôi bày tỏ suy nghĩ rằng các bác sĩ tâm thần nhìn chung đều vô tích sự và rằng tôi thực sự chẳng quan tâm đến những gì họ (ám chỉ ông ta) nghĩ về tôi.
“Ồ, có lẽ đúng là rất nhiều người trong chúng tôi đáng ra có thể làm tốt hơn thế,” Gregor thừa nhận, “nhưng chúng tôi cũng có lúc xuất thần đấy. Ví dụ nhé, trong số những vấn đề nhân cách của anh, tôi có thể chẩn đoán được vấn đề lớn nhất.”
“Thế đó là gì vậy?”
“Anh nghĩ mình thông minh hơn hết thảy những người khác.”
Trừ quãng thời gian Marianne Engel biến mất gần cả tuần liền, giờ cô đến phòng điều trị bỏng gần như hằng ngày. Cô giúp tôi tập luyện, đặt hai tay dưới lòng bàn chân của cái chân còn lành lặn của tôi và giúp tạo độ cản khi tôi cố đạp như anh chàng cua rơ một chân.
“Tôi đã nói chuyện với bác sĩ Edwards,” cô nói. “Bà ấy đã cho phép tôi mang cho anh chút thức ăn.”
Vì giờ cô đã nói chuyện với bác sĩ của tôi, tôi hỏi liệu cô có cho phép tôi được nói về ca của cô với một trong những bác sĩ đã điều trị cho cô không. Nói rõ ra là, bác sĩ Hnatiuk.
Cô trả lời là không muốn tôi bàn luận về vấn đề của cô với bất cứ ai, và cảm thấy bị xúc phạm khi tôi dám đề nghị việc ấy. Trong tất cả mọi người, cô nói, lẽ ra tôi phải là người biết chắc cô không bị điên.
Có một khoảng lặng lúng túng giữa chúng tôi, cho tới khi Marianne Engel phá tan nó, “Paracelsus(20) đã kê một đơn thuốc điều trị bỏng gồm mỡ lợn rừng, dòi bò trong sọ một người đàn ông bị treo cổ và một phần xác ướp. Cả đống đó được nướng chín lên.” Rồi cô bắt đầu giảng cho tôi nghe về lịch sử ghép da, suốt từ thời khởi thủy với những người Hindu cổ đại cho tới thời hiện đại. Tôi kéo một dải băng quấn trên chân tôi lên cho cô thấy những miếng da ghép hiện tại của mình, gồm cả mấy mảng da của người da màu nữa. Vì các bác sĩ đã dùng một chiếc máy nghiền ép chỗ da này thành một tấm lưới có thể trải rộng trên bề mặt lớn hơn, sản phẩm cuối cùng trông không khác gì một bàn cờ biến dạng.
“Nếu anh là kẻ phân biệt chủng tộc,” cô nói, lướt ngón tay trên tấm thân bàn cờ của tôi, “chắc anh thấy việc này khó chịu lắm.”
Những ngón tay của cô nhẹ nhàng nấn ná trên vùng hoang địa ấy. Chúng lướt từ thân trên tới cổ tôi, ngừng lại nơi bả vai để uốn theo những đường cong. “Cảm giác khoác lên mình tấm da của người khác thì như thế nào vậy?”
“Tôi không có đáp án hay ho cho câu hỏi đó đâu,” tôi trả lời. “Đau lắm.”
“Anh có thể nhớ những câu chuyện của họ không? Anh có thể cảm nhận được tình yêu mà họ đã cảm nhận không?”
Thỉnh thoảng tôi cũng gặp khó khăn trong việc đoán xem liệu Marianne Engel có chờ câu trả lời thật không hay chỉ đang trêu tôi thôi. “Cô có nghiêm túc không đấy?”
“Điều đó làm tôi nghĩ về chúng ta,” cô tiếp tục nói. “Điều đó làm tôi muốn khâu mình vào anh như những tấm da kia vậy.”
Tôi đằng hắng.
“Anh có biết là,” cô hỏi, “da của tôi cũng bị đóng dấu không?”
Tôi cũng phần nào nắm được ý cô. Khi cô mặc áo phông, tôi không thể không để ý đến những cụm từ Latin được xăm quanh bắp tay cô. Trên cánh tay trái là dòng chữ Certum est quia impossibile est. Khi tôi hỏi nó có nghĩa gì thì cô dịch ra là “Điều đó hiển nhiên vì điều đó không thể xảy ra.” Trên cánh tay phải là dòng chữ Quod me nutrit, me destruit. Câu này, cô bảo, có nghĩa là, “Thứ nuôi dưỡng tôi cũng sẽ hủy diệt tôi.”
“Tôi không hiểu,” tôi thú thật.
Cô cười, “Ồ, đó là vì anh vẫn chưa nhìn thấy tôi tạc tượng thôi.”
Rồi Marianne Engel thực hiện cái hành động nhỏ nhặt này. Cô chạm vào khuôn mặt tôi.
Thật là chuyện nhỏ nhặt, được ai đó chạm vào mặt ấy, đúng không? Nhưng hãy nghĩ đến những con quái vật bị lửa thiêu, bị hắt hủi trên thế giới này. Nghĩ đến những con người mà da họ không còn nhớ được xúc cảm yêu thương. Ngón tay cô nhẹ lướt trên khuôn mặt hoang tàn của tôi, luồn xuống dưới những dải băng để chạm vào đống tàn tích của mặt tôi. Những ngón tay ấy trìu mến du ngoạn lên đôi má băng bó của tôi, vất vả chạm đến môi tôi. Chúng dịu dàng nghỉ lại đó, trong giây lát. Tôi khép mí mắt cháy rụi của mình lại, những vết sẹo nhỏ túm tụm tại những nơi mà vài tuần trước các vết thương đã được khâu kín. Trái tim tôi đập loạn xạ trong lồng ngực và, cùng lúc, những lỗ chân lông bị bít chặt của tôi thi nhau làm việc quá tải, mà không giọt mồ hôi nào nhỏ ra cả.
“Khuôn mặt tôi thế nào?”
“Như hoang mạc sau trận bão.”
Tôi có một thôi thúc mãnh liệt muốn nói với cô rằng trước vụ tai nạn tôi rất đẹp, nhưng tôi không nói gì. Để làm gì chứ? Và rồi, tôi chạm vào má cô bằng bàn tay lành lặn của mình. Cô không hề lùi lại: không. Không hề lùi lại.
“Có nhiều điều tốt lành đang đến.” Marianne Engel thì thầm, trước khi cô đứng dậy đi tới các góc phòng để nói chuyện với Ba Vị Chủ Nhân vô hình. Có vẻ như, dù bằng tiếng Latin, cô đang xin phép làm gì đó. “Jube, Domine benedicere.”
Khi trở lại bên giường tôi, cô nở nụ cười chứng tỏ lời khẩn cầu của mình đã được chấp nhận. “Anh có muốn xem những hình xăm khác của tôi không?”
Tôi gật đầu, và cô bắt đầu bằng việc túm gọn mớ tóc rối bù của mình rồi búi lên cao để lộ gáy. Một hình thập tự nhỏ được xăm ở đó, là sự kết nối của ba sợi thừng không có điểm dừng. Cô bảo tôi chạm vào nó. Tôi làm theo. Tôi lướt tay theo chiều dài hình xăm, rồi chiều rộng; đóng dấu chữ thập trên da cô.
Cô cởi giày ra. Xung quanh mắt cá chân trái là hình một chuỗi tràng hạt, được xăm sao cho cây thập tự nằm ngang cổ chân cô. Bằng cách này, cô nói, cô sẽ luôn sẵn sàng sám hối. Nhưng cô lại mỉm cười, và rõ ràng cả cô cũng không quá coi trọng vấn đề này.
Tiếp theo, cô cởi quần ra - một hành động tôi hoàn toàn không ngờ tới, vì chẳng hiểu sao phim ảnh đã đóng đinh vào đầu tôi quan niệm phụ nữ luôn cởi đồ từ trên xuống. Cô không mặc đồ lót, nên thứ còn lại trên người cô chỉ là chiếc áo phông hình Beethoven đang say bí tỉ. (Chú thích? “Bản giao hưởng thứ chín của Beethoven.”)
Hình xăm con rắn trải dài hết chân phải của cô, ở đúng chỗ con rồng thêu trên quần. Nó quấn quanh cô, đúng như cách Kinh Thánh thể hiện hình ảnh con rắn quấn quanh thân cây Trí tuệ của Thiện và Ác. Marianne Engel đứng đối diện tôi, và tôi có thể thấy thân con rắn xuất hiện đầu tiên ở đầu gối, bò dần lên và quấn hai vòng quanh đùi cô, với cái đầu hình thoi ngả vào xương chậu của cô, xiên về phía âm đạo.
Mắt cô dán chặt vào tôi. Cô cởi chiếc áo hình Beethoven ra, dù phải vật vã mới kéo được nó ra khỏi đầu, cho tới khi cô trần như nhộng đứng giữa phòng tôi, trừ cái vòng cổ hình đầu mũi tên đang lủng lẳng trên cổ.
Tôi đã có những giây phút bị kích thích trong phòng điều trị bỏng. Maddy đã cố hết sức trêu chọc tôi với cặp mông nhún nhảy của cô, và thỉnh thoảng cô còn ngoẹo cổ lại kiểm tra xem có xi nhê gì không nữa. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi thấy mình bị kích thích giới tính một cách trọn vẹn. Về mặt tâm thần, ít nhất cũng là thế; cơ thể tôi vẫn sản xuất hoóc môn dồn máu tạo sự cương cứng. Tôi chỉ không có chỗ cho dòng máu ấy đổ vào thôi. Tôi tưởng tượng máu đang tụ lại chỗ ấy, làm vùng háng của tôi đỏ bừng lên.
Có một hình thập tự nữa, lớn hơn nhiều so với hình xăm trên gáy cô, nằm trên bụng. Nó được xăm theo kiểu chữ thập Celtic, với bốn cạnh tụ lại điểm nút tròn ở trung tâm. Toàn bộ hình thập tự được bao quanh bởi một hình ô van, dài và hẹp, phủ từ đỉnh xương chậu cho tới tận đáy lồng ngực của cô. Ba chữ cái in hoa lớn - “IHS” - được viết ngay chóp đường cong trên của hình ô van.
Trên ngực trái của cô là một hình xăm Trái tim Thiêng liêng lớn, đỏ rực và được bao quanh bởi vòng hoa mão gai. Trái tim bị nuốt chửng trong biển lửa vàng rực bùng cháy, lan tận lên vai cô.
Cô đi về phía giường, để tôi có thể quan sát thân thể đầy hình xăm của cô được rõ hơn, và bảo tôi chạm vào hình xăm tên Chúa. Tôi chạm vào, da gà cô nổi lên dưới bàn tay còn lành lặn của tôi.
Cô quay người lại, ngồi lên mép giường, quay lưng về phía tôi. Đôi cánh thiên thần trải dài từ vai cô cho tới mông, nơi đầu nhọn của chiếc cánh đáp xuống. Đôi cánh phủ kín lưng cô và tôi không thể không giơ tay về phía chúng. Như thể tôi nghĩ mình có quyền chạm vào da cô, như thể tôi có quyền chạm vào vì nó là của tôi. Mất một thoáng tôi mới nhận ra là không phải thế - không thể làm thế được, thế là tay tôi dừng lại giữa không trung. Nó cứ lơ lửng ở đó bối rối một hồi cho tới khi Marianne Engel nói, không hề quay lại: “Tôi muốn anh chạm vào tôi.”
Thế là tôi đi nốt phần còn lại của quãng đường, lướt ngón tay lên những đường nét của hình xăm đôi cánh. Chúng là sự kết hợp hoàn hảo của những nét kim xăm vừa mạnh mẽ vừa rất đỗi tinh tế, chi tiết đến nỗi người ta tưởng là lông thật. Giờ đây lưng của cô đang rung lên, và trái tim tôi cũng vậy.
Một lúc sau, cô ngượng ngùng nhìn tôi qua vai. Cô cười - hồi hộp, phấn khích - và tôi ngừng lại, phá vỡ mối liên kết qua những đầu ngón tay giữa hai người. Cô đứng dậy rồi mặc quần áo vào. Chúng tôi không nói một lời nào. Khi mặc quần áo xong, cô rời khỏi phòng luôn.
Không có tài liệu đủ sức thuyết phục nào chỉ ra đâu là thời điểm tốt nhất để tháo băng cho bệnh nhân bỏng, do việc teo cơ làm cho tình hình không thể tránh khỏi phức tạp. Cuối cùng, bác sĩ Edwards quyết định mạo hiểm chọn ngẫu nhiên một ngày để tháo lũ nhện máy ra khỏi chân tôi.
Việc tháo băng làm Sayuri, vốn luôn nóng lòng kéo tôi ra khỏi giường, sung sướng vô vàn. Cô vỗ tay hai lần trong trạng thái vô cùng phấn khích. “Anh đã sẵn sàng chưa? Anh đã genki(21) chưa? Đã đến lúc rồi!”
Maddy và Beth đứng sẵn sàng giúp đỡ, với đồng phục xanh da trời và đôi găng tay màu vàng to sụ. Họ kéo giãn cơ của tôi trong vài phút trước khi giúp tôi đạp chân để làm giảm sự cứng cơ chân. Rồi mỗi y tá quàng một tay ra sau lưng tôi để đỡ tôi đứng dậy, giữ cho đến khi tôi đỡ chóng mặt. Từng chút một, họ thả lỏng tay ra cho tới khi tự tôi phải chống đỡ sức nặng của chính mình.
Lần đầu tiên từ khi bị tai nạn, tôi đang đứng. Sayuri oang oang đếm giây - “sáu… bảy… tám!” - trước khi chân tôi chuyển từ spaghetti chưa chín thành spaghetti chín. Ngay lập tức, máu dồn xuống người tôi như vừa nhớ ra trọng lực có tác dụng gì và ộc ra khỏi những vùng da bị lóc của tôi. Những dải băng quấn chân tôi nhuốm đỏ, xấu hổ vì sự vô dụng của mình; thời điểm tôi bất tỉnh đã tới.
Cánh phụ nữ đặt tôi trở lại giường và hân hoan với những nỗ lực của tôi. Khi đầu óc tôi đã bình tĩnh lại sau cú nâng thẳng vừa xong, tôi nhìn thấy bác sĩ Edwards đang đứng ở cửa phòng, nụ cười nở trên môi.
Trước khi cố đứng vững, đáng ra tôi sẽ nói - với thái độ trượng phu, hợm hĩnh nhất có thể - là kết quả thế quái nào chẳng được. Đứng là một hành động ngu ngốc mà trẻ con cũng không thèm chơi. Nếu bạn cho phép mình quan tâm đến việc mình đứng được hay không, ai biết bạn sẽ còn quan tâm đến cái gì nữa? Dù không muốn vui vẻ vì những trò vỗ tay reo hò, nhưng tôi thấy chúng có vẻ rất thật. Những người phụ nữ tự hào về tôi và, trái với phán xét có vẻ đúng đắn hơn của mình, tôi cũng tự hào về bản thân mình.
Thay vì phủi sạch thành quả của mình, tôi trở thành một thằng ngốc cười nhăn nhở. Tôi cám ơn mọi người vì đã giúp đỡ và điều duy nhất khiến tôi nuối tiếc là Marianne Engel không ở đó để nhìn thấy những gì tôi làm được.