Cô gái mang trái tim đá- Chương 11-P02

Điều cuối cùng cô nói, trước khi rời đi vào sáng sớm, là “Đợi đến Halloween sang năm nhé. Chúng ta sẽ đến một bữa tiệc rất tuyệt vời.”
Việc thu hoạch da của tôi diễn ra thưa dần. Những cuộc phẫu thuật vẫn chiếm vị trí chủ đạo trong cuộc sống của tôi, dĩ nhiên là thế, nhưng những mơ mộng tự sát giờ hầu như đã không còn nữa và tôi đã trở thành học sinh siêu sao của Sayuri. Tôi có thể nói dối rằng đó là vì tính cách mạnh mẽ của tôi, và vì tôi quyết tâm giữ lời với Nan. Tôi có thể nói dối rằng tôi làm việc này vì bản thân. Tôi có thể nói dối rằng tôi làm việc này vì tôi đã nhìn thấy ánh sáng chân lý. Nhưng lý do chính khiến tôi làm việc này là để tạo ấn tượng với Marianne Engel.
THẬT DỄ THƯƠNG LÀM SAO. Con rắn cái khẽ hất đuôi và đánh lưỡi, háo hức mơn trớn tôi từ cả hai phía. TA ĐANG BĂN KHOĂN XEM MỌI CHUYỆN SẼ THẾ NÀO KHI NGƯƠI RỜI BỆNH VIỆN.
Tôi đã tốt nghiệp khóa học lê vài bước một lúc, có sử dụng khung tập đi bằng nhôm. Tôi thấy mình như thằng ngốc, nhưng Sayuri đã trấn an rằng tôi sẽ sớm được chuyển sang dùng gậy buộc vào cẳng tay thôi.
Một thứ đã giúp tôi rất nhiều là đôi giày chỉnh hình được chế tạo riêng cho tôi. Đôi đầu tiên làm chân tôi đau đớn nên các chuyên gia đã chế đôi thứ hai khắc phục mọi nhược điểm. Lợi ích lớn nhất của đôi giày, tuy thế, lại nghiêng về mặt tinh thần nhiều hơn thể chất. Giày là cứu tinh vĩ đại cho một người đàn ông bị mất ngón chân: chúng như những món hóa trang bằng da giúp đôi chân tàn phế trông được bình thường.
Tôi phải thừa nhận Sayuri biết chính xác những gì cô làm. Lúc đầu những bài tập rất chú trọng đến việc kéo giãn cơ để giúp tôi lấy lại cảm giác vận động. Rồi chúng tôi viện đến Thera-Bands, những sợi dây co giãn giúp tạo sức cản, trước khi chuyển sang chương trình luyện tập nâng những vật nhẹ. Sức nặng được tăng dần lên theo mỗi tuần, và thỉnh thoảng tôi còn hỏi Sayuri xem liệu mình có thể nâng những vật nặng hơn so với bài tập đề ra một chút được không.
Vì giờ đã có thể đi được vài bước ra khỏi giường, tôi bắt đầu tập tễnh đi về phía toilet của mình mỗi khi cần tỉnh táo. Bạn có thể nghĩ đây là một bước tiến lớn trong việc tin tưởng bản thân nhưng đây thực sự là một cú đấm tâm lý khi nhận ra mình không còn tiểu đứng được nữa. Tôi thấy tình trạng này khiến tôi giống hoạn quan quá chừng.
Tôi đã vào viện được gần tám tháng và Giáng sinh đang đến gần. Marianne Engel làm tất cả những gì cô có thể, treo các vòng hoa, chơi nhạc của Handel và than vãn vì cô không được phép thắp những cây nến Mùa Vọng trong phòng điều trị bỏng.
Vào đêm ngày mùng sáu tháng Mười hai, Marianne Engel đặt đôi giày chỉnh hình mới của tôi lên bậu cửa sổ và giải thích rằng đêm nay thánh Nicholas sẽ nhét quà vào trong những đôi giày của trẻ nhỏ. Khi tôi nói chúng tôi chưa bao giờ có tập tục này hồi còn ở khu nhà lưu động, cô nhắc tôi nhớ rằng thế giới không hề bắt đầu và kết thúc với những kinh nghiệm của bản thân tôi. Khá hợp lý. Khi tôi chỉ ra rằng tôi không còn là một đứa trẻ nữa, cô chỉ suỵt tôi một cái. “Trong mắt Chúa, chúng ta đều là những đứa trẻ.”
Khi Connie lấy đôi giày của tôi xuống vào buổi sáng hôm sau - “Những thứ này làm cái quái gì ở đây vậy?” - cô thấy chúng được ních đầy những tờ một trăm đô la.
Tôi rất cảm động trước việc làm ấy, hơn cả những gì tôi có thể tưởng tượng. Phản ứng của tôi không vì bản thân món tiền này, mà vì những tình cảm Marianne Engel gửi gắm vào hoàn cảnh hiện tại của tôi. Kỳ nghỉ lễ đã đặt tôi vào một tình huống khó xử: làm sao tôi có thể tặng lại những món quà Giáng sinh chứ? Dù đúng là tôi có chút tiền giấu trong nhà băng dưới một cái tên giả nhưng tôi chẳng có cách nào để lấy được nó ra cả. Có lẽ thế, sự thật là, tôi sẽ không bao giờ có thể rút được số tiền đó ra, thậm chí cả khi tôi xuất viện, vì nhân dạng giả mà tôi đã dùng để lập tài khoản được đính một bức ảnh không bao giờ có thể là khuôn mặt của tôi nữa.
Marianne Engel đã nhận ra thứ tôi cần và, thay vì bắt tôi hỏi xin tiền hay mặc kệ tôi, đã tìm ra cách trao quà thật đáng yêu. Một món quà! Từ thánh Nicholas! Và thế là tình thế tiến thoái lưỡng nan của tôi đã được giải quyết. Gần như vậy. Tôi vẫn phải tìm cách đem những món quà từ cửa hàng về bên giường mình, nhưng tôi đã có kế hoạch sẵn rồi.
Tôi yêu cầu Gregor ghé qua vào cuối một buổi tập của tôi với Sayuri. Khi cả hai đã tập trung ở đó, tôi bắt đầu: “Cứ thoải mái nói không nếu muốn, nhưng hai người thực sự có thể giúp được tôi chuyện này. Tôi mong hai người có thể mua sắm hộ tôi.”
Gregor hỏi tại sao tôi lại cần cả hai người. Bởi vì tôi muốn trao cho mỗi người một món quà, tôi giải thích, và tôi hầu như không thể bảo họ tự mua quà cho mình được. Sayuri sẽ mua món quà tôi định tặng Gregor, và Gregor sẽ mua món quà tôi định tặng Sayuri. Những món quà còn lại, hai người có thể đi mua cùng nhau.
“Đừng lo lắng,” Sayuri nói, “Tôi yêu việc mua sắm cho lễ Giáng sinh.”
Nghe thấy thế, Gregor cũng nhanh chóng đồng ý. Tôi đưa cho mỗi người một chiếc phong bì chứa danh mục những thứ tôi muốn họ mua, thay mặt tôi, cho mỗi người. Khi họ rời phòng Gregor liếc lại về phía tôi, một nụ cười lạ lùng thoáng hiện trên khuôn mặt.
Marianne Engel vẫn chưa đọc xong phần Địa ngục cho tôi nghe. Đọc lâu một phần là vì cô chẳng bao giờ đọc quá nhiều liền một lúc, cô có vẻ thích tận hưởng vẻ đẹp của những con chữ hơn, nhưng cũng vì cô cứ luôn nhảy sang đọc bằng tiếng Ý. Tôi chẳng bụng dạ nào mà bắt cô dừng lại mỗi khi cô làm thế vì cô quá chú tâm vào câu chuyện và, hơn nữa, thứ tiếng Ý thốt ra từ miệng cô thật tuyệt. Cuối khổ thơ, tôi phải chỉ cho cô thấy là tôi chả hiểu gì cả, và ngày hôm sau cô sẽ đọc lại đoạn ấy, thường là đọc hết bằng tiếng Anh.
Voltaire viết rằng Dante là một lão điên có quá nhiều kẻ nịnh nọt, và danh tiếng của ông cứ tiếp tục tăng cao chỉ vì hầu như chẳng có ai thực sự đọc hết trường ca Thần khúc. Tôi gợi ý lý do ít người đọc Dante là vì chẳng có ai thực sự thấy cần đọc cả. Trong thế giới Tây phương, Địa ngục là ý niệm của tất cả mọi người về Địa ngục; với tư cách là một tác phẩm văn học, chỉ có Kinh Thánh là thấm sâu vào nhận thức chung của xã hội hơn Địa ngục mà thôi.
“Anh có biết,” Marianne Engel hỏi, “rằng Địa ngục của Dante được sáng tác dựa trên Ánh sáng trôi chảy của Thượng đế của Mechthild von Magdeburg không?”
“Một trong Ba Vị Chủ Nhân của cô phải không?”
“Phải,” cô đáp.
Tôi thừa nhận, cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, rằng tôi biết rất ít (sự thật là: không chút nào) về người phụ nữ này, vì thế Marianne Engel lại tiếp tục quá trình giáo dục tôi, Mechthild sinh ra tại Saxony vào đầu thế kỷ mười ba và khi còn nhỏ đã thường xuyên được chính Chúa Thánh Thần viếng thăm hằng ngày. Hai mươi tuổi, cô trở thành một Beguine tại Magdeburg, sống cuộc đời cầu nguyện và hành xác đầy ngoan đạo; thật hấp dẫn, khi cô tăng cường độ hành hạ bản thân, những ảo giác của cô cũng ngày càng đến thường xuyên hơn. Khi cô miêu tả lại cho giáo sĩ nghe xưng tội, ông tin chắc về nguồn gốc thần thánh của chúng và bảo cô viết lại.
Das flieBende Licht der Gottheit, tên tiếng Đức của tuyệt tác đó, đã có ảnh hưởng rất lớn đến lớp nhà văn tiếp theo, gồm cả Meister Eckhart và Christina Ebner. Rõ ràng Dante Alighieri cũng đã đọc bản dịch tiếng Latin, và rất nhiều học giả tin ông đã sử dụng trật tự cuộc sống ở thế giới bên kia trong tác phẩm của Mechthild làm nền móng ý tưởng cho Thần khúc: Thiên đường ở trên cùng, Luyện ngục ở ngay dưới, và Địa ngục ở tận đáy. Trong Địa ngục sâu thẳm của Mechthild, Satan bị xích bởi tội lỗi của chính hắn trong khi đau buồn, bệnh tật và đổ nát chảy thẳng ra khỏi trái tim và cái miệng đang bốc cháy của hắn. Điều này giống một cách đáng ngờ với Satan của Dante, một con quái vật có ba bộ mặt bị nhốt trong một tảng băng ở nơi sâu nhất giữa Địa ngục, miệng nhai bộ ba kẻ tội đồ (Judas, Cassius và Brutus) với dòng mủ cứ mãi chảy khỏi ba cái miệng của nó.
“Có những người,” Marianne Engel nói, “tin rằng cô ‘Matilda’ mà Dante đã gặp trong Luyện ngục thực ra chính là Mechthild.”
“Đó có phải những gì cô nghĩ không?” tôi hỏi.
“Tôi tin,” cô khẽ cười, “rằng tác phẩm của Dante thường bị ảnh hưởng bởi các nhà văn khác.”
Khi cô đọc cho tôi nghe câu chuyện về cuộc hành trình của Dante, tôi thấy thật thân thuộc và tôi rất thích dù (hay có lẽ là vì?) nó được đọc giữa phòng điều trị bỏng. Tôi có cảm giác rất thoải mái khi Marianne Engel đọc cho tôi, trong cách cô luồn tay vào những ngón tay tôi khi đọc thơ. Tôi sửng sốt trước sự kết hợp những ngón tay đẹp đẽ và xấu xí của chúng tôi, và tôi muốn cô cứ đọc cho tôi nghe mãi - có lẽ vì tôi sợ rằng khi kết thúc, cô sẽ không còn tiếp tục dẫn tôi, tay trong tay, ra khỏi Địa ngục của chính tôi nữa.
Khi tôi trình bày với Marianne Engel lý thuyết của tôi là chẳng ai cần đọc Địa ngục để biết hình ảnh tượng trưng về Địa ngục cả, cô đã chỉnh tôi ngay. “Dù điều đó có thể đúng với hầu hết mọi người, nhưng anh thì biết rất rõ vì tôi đã đọc cho anh nghe bản dịch tiếng Đức rồi.”
“À há.” Tôi đã không ngờ tới việc đó. “Cô dịch lúc nào vậy?”
“Tôi đoán là mười hoặc hai mươi năm sau khi Dante viết xong tác phẩm ấy. Thật tốn thời gian. Tôi khá chắc mình là người đầu tiên dịch phần Địa ngục, nhưng anh không bao giờ xác thực được việc đó đâu.”
“Thế cô đã đọc cho tôi nghe lúc nào vậy?” tôi hỏi.
“Khi anh đang hồi phục từ lần bỏng đầu tiên.”
Địa ngục được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1314. Nếu Marianne Engel hoàn thành bản dịch của cô hai mươi năm sau, thì có lẽ đó là năm 1334. Cứ chiếu theo lời tuyên bố của cô khi trước là cô sinh vào năm 1330, thì lúc đó cô cũng hơn ba mươi rồi.
Khi tôi nghiên cứu kỹ về những con số này, tôi không quên nhận ra rằng chúng thật lố bịch và hoàn toàn không có khả năng xảy ra. Tôi chỉ đang chỉ ra rằng, ít nhất thì có những điều rất vô lý đã xảy ra trong một giai đoạn lịch sử rất có lý. Đây là điều làm tôi ngạc nhiên về tình trạng thần kinh của cô: những câu chuyện điên rồ của cô vô cùng nhất quán.
Vì không sống ở thời Trung cổ nên tôi cần phải nghiên cứu rất nhiều trong suốt quá trình viết cuốn sách này để kiểm tra những gì cô nói, hoặc những gì tôi nhớ là cô đã nói, có trái ngược với sự thật không. Điều thú vị ở đây là tất cả những sự kiện cô tuyên bố là sự thật có thể đã diễn ra đúng như những gì cô miêu tả, nếu cô không nói về những sự kiện xảy ra từ thời cổ xưa ấy bằng ngôi thứ nhất.
Dù vẫn phải chịu sự điều khiển của nhà thờ, Engelthal  một thể chế dân chủ với các nữ tu viện trưởng đều được bầu bằng cách bỏ phiếu. Tất cả những hoạt động thường nhật đã được viết rõ trong cuốn Thể chế Giáo hội. Những miêu tả của Marianne Engel về kiến trúc, các bài kinh cầu, các cuốn sách được nghiên cứu, và nghi lễ khi ăn đều chính xác. Christina Ebner đã ở trong tu viện đó và bà đã viết Cuốn sách về các xơ tại Engelthal và Khải huyền. Friedrich Sunder là một giáo sĩ địa phương, làm lễ xưng tội cho các nữ tu, và ông cũng đã viết cuốn Ân điển-cuộc đời. Có một cuốn sách tên là Cuộc đời nữ tu Gertrud tại Engelthal, được viết với sự giúp đỡ của huynh trưởng Heinrich và Cunrat Fridrich.
Mặc dù không có một ghi chép nào về việc Heinrich Seuse đến thăm Engelthal nhưng cũng chẳng có bằng chứng nào ngược lại cả. Nếu ông thực sự có đến vào đầu những năm 1320, như Marianne Engel nói, thì điều này xảy ra khi ông đang trên đường từ Straburg đến Koln để tầm sư Meister Eckhart học đạo. Thế nên ai dám nói là ông đã không đến thăm tu viện từng được coi là trung tâm trọng yếu nhất của Chủ nghĩa Thần bí Đức?
Thế nhưng. Dù có xây dựng quãng đời của cô hay nghiên cứu các hình tượng tôn giáo Đức hoàn hảo đến đâu chăng nữa, Marianne Engel hoặc vẫn bị tâm thần phân liệt, hoặc bị khủng hoảng thần kinh, hoặc cả hai. Tôi không thể quên được điều này. Sáng tạo và điều hành những vũ trụ tưởng tượng là biểu hiện của những bệnh nhân này: không chỉ những gì họ làm, mà còn về họ là ai nữa. Và đã có vài dị biệt trong câu chuyện của Marianne Engel; ví dụ, chẳng có ghi chép nào về một cô xơ tên là Marianne Engel trong bất cứ tài liệu hiện có nào tại Engelthal, cũng như chẳng có gì đề cập đến Die Gertrud Bibel, và tôi đã cố dùng những thiếu sót này để bắt Marianne Engel thừa nhận câu chuyện của cô không có thật.
“Anh siêng học quá nhỉ?” cô nói. “Đừng lo, việc anh không thể tìm được thông tin về tôi hay về cuốn Die Gertrud Bibel cũng có lý do cả thôi. Sẽ đến lúc chúng ta nói về chuyện đó, tôi hứa đấy.”
Những người hát mừng Giáng sinh an lành ghé qua để hát về những đêm tĩnh lặng, đêm thánh. Một cô Noel Sally Ann đã mang bánh quy và sách đến. Các đồ trang trí treo khắp hành lang.
Cảm giác mong đợi mùa Giáng sinh mới lạ lùng làm sao. Thường thì tôi luôn ghét Giáng sinh; nó luôn để lại trong miệng tôi dư vị của một cái bánh hoa quả mốc. (Tôi nói điều này không có ý ám chỉ một bà cô già người Nhật nào đâu.) Suốt thời thơ ấu, những Giáng sinh của tôi luôn gắn liền với việc nhà Grace đốt hết tiền mua quà cho tôi vào ma túy tổng hợp; đến lúc trưởng thành, Giáng sinh có nghĩa là vui vẻ với một người phụ nữ đội mũ phớt đỏ.
Tôi vẫn tập tành, vẫn trải qua các ca trị liệu định kỳ, nhưng sự kiện hấp dẫn nhất là cuộc gặp gỡ với những người phụ nữ quan trọng trong đời tôi: Nan, Sayuri và Marianne Engel. Tôi không biết gì về lịch điều trị, và lạ lùng thay, chẳng ai muốn nói cho tôi biết cả. Trong trái tim bé nhỏ luôn coi mình là cái rốn vũ trụ, tôi tưởng tượng đó sẽ là một bữa tiệc đầy bất ngờ. Tôi đã không thể sai lầm hơn.
Sayuri đến đầu tiên. Tôi đã nói từ trước là cô dường như lúc nào cũng vác cơ thể bé nhỏ của mình theo sau một nụ cười rạng rỡ, nhưng vào ngày hôm ấy, chỉ có cái cơ thể bé nhỏ của cô là có mặt thôi. Khi tôi hỏi liệu mọi việc có ổn không, cô trả lời ổn một cách chẳng mấy thuyết phục. Thay vì tiếp tục chủ đề, tôi hỏi xem cô đã mua quà của tôi cho Gregor chưa. Cô bảo rồi và ít nhất, tôi có thể tin cô. Tôi đang định hỏi thêm vài câu nữa thì Marianne Engel và Nan bước vào phòng như những con ngựa tranh nhau phi về đích. Marianne Engel nhìn thẳng vào tôi và nói luôn: “Khi ra khỏi đây, anh sẽ về với tôi.”
“Không nhanh thế chứ,” Nan nghiêm giọng nói, trước khi chuyển sự chú ý sang tôi. “Như anh cũng biết, anh sẽ được ra viện trong vài tháng tới…”
“… và sau đó anh sẽ đến sống ở nhà tôi.” Sự mất kiên nhẫn trong giọng Marianne Engel đã để lộ ra rằng cô nghĩ cuộc nói chuyện này chẳng cần thiết tí nào.
“Bình tĩnh.” Nan giơ tay lên trước khi ném cho Marianne Engel một cái nhìn tức tối. “Đó không phải quyết định của cô.”
“Anh ấy chẳng có nơi nào khác để đi cả.”
Nan phản đòn. “Tôi đã sắp xếp một chỗ ở Phoenix Hall rồi.”
“Anh ấy không muốn đến sống ở đó.” Điều này thì rất đúng, tôi không muốn, nhưng bác sĩ Edwards từ lâu đã khuyên tôi đến đó vì nơi ấy có những nhân viên được đào tạo với tay nghề cao, những chương trình giới thiệu việc làm và nguồn cung ứng y tế dồi dào. Thêm nữa, ở đó còn có các tư vấn viên, không kể đến các bệnh nhân bỏng khác cũng cùng phải đối mặt với những vấn đề như tôi.
“Tôi có làm việc với những bệnh nhân ở Phoenix,” Sayuri nói, “thế nên nếu anh đến đó, chúng ta vẫn có thể tiếp tục những bài tập vận động cho anh.”
“Tôi sẽ thuê cô,” Marianne Engel nói. “Tiền không thành vấn đề. Cô có thể làm việc đó ở nhà tôi.”
Lời gợi ý này làm Sayuri nhìn bác sĩ Edwards với vẻ mặt khó xử. “Tôi không biết quy định của bệnh viện về vấn đề này thế nào.”
Nan trả lời rằng bên cạnh vấn đề quy định, Phoenix Hall có cả một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, tất cả đều rất sẵn sàng làm hết sức mình. Marianne Engel đáp lại rằng cô sẽ cung cấp cho tôi tất cả những gì tôi cần. “Nếu cô Mizumoto quá bận rộn, chúng tôi sẽ thuê người khác. Nhưng chúng tôi mong có được cô ấy, vì chúng tôi thích cô ấy.”
Cô xoay người nhìn thẳng vào tôi, và cuối cùng cũng chịu hỏi xem tôi muốn gì. “Anh có muốn đến chỗ Phoenix Hall này không?”
“Không.”
“Anh có muốn đến nhà tôi không?”
“Có.”
Marianne Engel lại hướng sự chú ý của mình về phía bác sĩ Edwards. “Đấy. Thảo luận xong.”
Nói tôi cần thời gian để suy nghĩ thì nghe có vẻ thận trọng. Sau rốt, tôi đã chọn Marianne Engel chứ không phải các bác sĩ đã giúp tôi hồi phục trong suốt bao tháng trời. Câu trả lời vội vã của tôi, nói một cách nhẹ nhàng nhất, rất phi logic.
Tuy nhiên, nếu có một điều gì đó mà tôi có thể chắc chắn, thì đó là việc tất cả mọi người trong căn phòng ấy đều một lòng mong những điều tốt đẹp nhất cho tôi. Tôi không biết rằng Marianne Engel và Nan đã tranh luận về việc sắp xếp chỗ ở cho tôi hàng tuần liền; vì tôi hầu như ngày nào cũng thấy cả hai người bọn họ nên điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ cùng nhau giấu chuyện để giảm thiểu căng thẳng cho tôi.
“Vẫn còn nhiều thời gian trước khi đưa ra quyết định chính thức,” Nan nói, ám chỉ cuộc đối thoại này đã đến hồi kết thúc. Chẳng ai không cảm nhận được sức nặng của từ chính thức mà bà nói ra cả.
Có rất nhiều mối quan ngại khá thực tế mà tôi không thể lờ đi khi tính đến chuyện sống với Marianne Engel. Một trong những vấn đề đó là, dù cô nói mình có nhiều tiền, cô có lẽ cũng không thể chu cấp cho tôi được.
Cưu mang một người bị bỏng là chuyện hết sức tốn kém. Ngoài phí tổn điều trị của tôi - tiền trả cho Sayuri, tiền thuốc, thiết bị tập luyện - thì còn có cả chi phí sinh hoạt nữa. Thức ăn. Quần áo. Giải trí. Vật dụng cá nhân. Cô sẽ phải trả phí tổn cho cuộc sống của tôi, vừa là một bệnh nhân, vừa là một người đàn ông. Mặc dù những chương trình hay tổ chức từ thiện của chính phủ có thể đóng góp phần nào cho việc chăm sóc nhưng tôi rất nghi ngờ việc Marianne Engel lại chịu hỏi xin sự trợ giúp của họ; tính cách của cô luôn như thế, tôi đoán chắc là sự kiêu hãnh, các thủ tục giấy tờ và các vấn đề riêng tư sẽ làm cô chẳng buồn ngó ngàng đến chuyện đó. Cô tuyên bố mình có đủ khả năng tài chính để nuôi sống tôi, nhưng tôi rất khó lòng chấp nhận điều đó là sự thật được - một tập tiền một trăm đô nhét đầy trong chiếc giày không đủ để thuyết phục tôi tin vào của cải của cô. Liệu chỗ tiền này có phải chỉ là một điều huyễn hoặc như hầu hết các góc cạnh khác trong cuộc sống của cô không? Liệu tôi có phải tin rằng cô đã dành dụm tiền của trong suốt bảy trăm năm hay không?
Việc đến sống với cô không chỉ gặp vấn đề về tài chính, mà còn có cả vấn đề đạo đức nữa. Vì lời đề nghị của cô xuất phát từ niềm tin “trái tim cuối cùng” của cô là dành cho tôi, tôi rõ ràng đang lợi dụng, đang lừa dối một phụ nữ rối loạn tâm thần. Là người còn tỉnh táo, tôi không chỉ biết rõ hơn, tôi còn phải hành động theo đúng cái thực tế mà tôi biết rõ kia nữa. Và bất luận thế nào, tại sao tôi lại phải đặt mình vào tình trạng phụ thuộc một người phụ nữ đầu óc không bình thường mà tôi cũng chẳng quen thân gì cho cam? Dù tình cảnh của tôi giờ đã thay đổi và thể chất của tôi cũng yếu hơn so với trước kia, nhưng từ hồi niên thiếu tôi đã luôn sống tự lập. Thậm chí cả trước đó nữa: dù mang vai trò giám hộ, nhà Grace chỉ giỏi mỗi việc quản lý bộ sưu tập ma túy của họ mà thôi. Trên thực tế, tôi đã phải tự chăm sóc bản thân ngay từ khi sáu tuổi.
Vậy là tôi sai lầm trong việc chấp nhận lời đề nghị của Marianne Engel, và Nan đã đúng. Tôi sẽ thay đổi quyết định nóng vội của mình và cuối cùng cũng đến Phoenix Hall thôi.
Chiều đó khi Gregor đến để đưa quà của Sayuri, ông ta chúc mừng quyết định chuyển đến sống cùng Marianne Engel của tôi. Khi tôi thông báo với ông ta mình đã thay đổi quyết định, ông ta giật nẩy người nói rằng tôi đã đưa ra quyết định đúng đắn duy nhất rồi. “Tôi nghĩ sự tiến bộ của anh dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Edwards thật đáng ngạc nhiên. Tôi rất ngưỡng mộ bà ấy.”
Tôi biết quá rõ Gregor để có thể nói được khi nào thì ông ta không nói hết những gì mình nghĩ. Đây là một trong những lúc đó. “Nhưng…?”
Gregor nhìn trái, rồi lại nhìn phải, để chắc chắn không có ai xung quanh. “Nhưng mà thậm chí khỉ cũng còn có thể rơi khỏi cây mà.”
Tôi chả hiểu câu này có ý nghĩa gì cả, thế là Gregor giải thích: Thậm chí cả các chuyên gia cũng có thể mắc sai lầm. “Dù tiến sĩ Edwards là bác sĩ điều trị cho anh, và là một người tài giỏi,thích tôi cũng không nghĩ rằng anh nên đánh giá thấp ảnh hưởng của Marianne Engel tới sự hồi phục của mình. Cô ấy đến đây hằng ngày, cô ấy giúp anh tập luyện, và hiển nhiên là cô ấy rất quan tâm đến anh. Chúa mới hiểu tại sao. Nhưng tôi sẽ không nói cho anh bất cứ chuyện gì mà anh không biết đâu.”
ÔNG TA NGHĨ CÔ BẠN GÁI HÂM DỞ CỦA NGƯƠI THỰC SỰ CÓ TÌNH CẢM VỚI NGƯƠI ĐẤY.
Câm miệng lại, đồ khốn. Tôi chỉnh Gregor. “Cô ấy có hơi ảo tưởng.”
“Cứ việc phủ nhận điều đó,” ông ta nói, “nhưng rõ là cô ấy thích anh.”
THẬT DỄ THƯƠNG.
Tôi không định tiếp tục tranh luận về vấn đề đó. Tôi không có hứng. “Thế ông sẽ làm gì?”
“Là tôi thì tôi cũng sẽ lo lắng về việc sống với Marianne Engel,” ông ta nói, “nhưng anh cũng có phải tay khá khẩm đâu cơ chứ. Nếu hai người có thể chịu nổi nhau, tôi nghĩ anh nên làm thế.”
“Dù cô ấy thích tôi - tôi không nói rằng cô ấy thích tôi đâu nhé - tôi không thực sự hiểu rõ cảm giác của mình với cô ấy.” Tôi ngừng lại. “Tôi không biết.”
“Nếu anh không chấp nhận lời đề nghị của cô ấy, anh sẽ là thằng ngu nhất trần đời,” Gregor nói, “ngoài việc là một kẻ nói dối trắng trợn nữa.”
Khi cứ nằm lì trên một cái giường trong bệnh viện, bạn sẽ bắt đầu có cả một danh mục trong đầu về tất cả những tiếp xúc giữa người với người. Tôi chạm vào mu bàn tay của Gregor, lần đầu tiên chúng tôi chạm vào nhau, và nói, “Cám ơn ông vì đã mang quà của Sayuri đến.”
MỘT KHOẢNH KHẮC CẢM ĐỘNG…