Cô gái mang trái tim đá- Chương 25- P02

Nói xong, tất cả chúng ta cùng nâng cốc chúc mừng việc mọi người đều đã thoát khỏi cuộc sống cũ để bước vào một cuộc đời mới tốt đẹp hơn.
Nhưng người ta không bao giờ được phép đếm cua trong lỗ. Ngay ngày hôm sau, trong khi Brandeis đang thu dọn nốt đồ đạc còn lại ở chỗ chúng ta, một người Beguine đã hộc tốc chạy đến. Tôi hiểu đây không phải dấu hiệu tốt lành gì, vì trước đó tôi chưa bao giờ thấy ai trong số họ chạy hết. Cô ấy đặt tay lên đầu gối và thở hổn hển một lúc trước khi đủ sức thốt ra rằng có một toán người - “bọn mọi rợ, nhìn đã biết” - đang tra hỏi quanh chợ để tìm một người đàn ông có nhân dạng giống Brandeis.
Rõ ràng Mainz không rộng lớn như tôi tưởng. Dù chúng ta đã hết sức cẩn thận để giấu tung tích vị khách, ngay cả những người Beguine cũng biết rằng anh ấy đang ở cùng chúng ta. Họ cũng đủ hiểu rằng đưa thông tin này cho những kẻ lạ mặt không phải một việc khôn ngoan gì, nhưng chẳng chóng thì chày ai đó sẽ nói mà không nghĩ đến hậu quả cho coi. Brandeis hỏi vài câu về “bọn mọi rợ”, và những câu trả lời của người Beguine đã khẳng định mọi nghi ngờ. Những gã này rõ ràng là toán truy kích được đội quân condotta phái đến. Cho tới tận hôm nay, tôi vẫn không thể biết tại sao bọn chúng có thể tìm được anh ấy, nhưng bằng cách nào cũng chẳng quan trọng. Điều quan trọng duy nhất là Mainz giờ không còn là nơi an toàn nữa rồi.
Brandeis đề nghị sẽ trốn chạy một mình, để lại dấu vết đủ rõ để bọn truy kích bỏ qua chúng tôi. “Chúng chỉ đi tìm tôi thôi. Anh có một cuộc sống tốt đẹp ở đây, vì thế đừng…”
Anh đã không để anh ấy nói hết câu. Danh dự của anh không cho phép việc đó. Anh nói rằng bọn truy kích kiểu gì cũng tìm được chỗ chúng ta dù chúng ta có làm gì đi nữa, và khi - khi chứ không phải nếu nữa, khi - chúng tìm ra, rất có khả năng một trong số chúng sẽ nhận ra anh. Chúng sẽ sung sướng đến phát điên, nếu cử một đội truy lùng đi tìm một kẻ đào tẩu để rồi cuối cùng bắt về được hai. Điều đó sẽ làm Kuonrat cực kỳ thỏa mãn, và thông điệp sẽ trở nên thật rõ ràng: dù một người lính đã thành công trong việc đào tẩu hàng bao năm và đã bị coi là chết rồi đi nữa thì cuối cùng cũng vẫn sẽ bị lần ra.
Cả anh lẫn Brandeis đều cương quyết không cho tôi theo - vì tôi đã có mang gần đến tháng cuối rồi, vì tôi sẽ cản trở các anh, vì đi lại sẽ làm ảnh hưởng đến đứa trẻ. Tôi bác lại rằng ở lại Mainz còn nguy hiểm hơn, nơi bọn truy đuổi sẽ lùng ra tôi và làm mọi cách để moi cho được thông tin. Tóm lại, tôi nói, tranh luận thế nào đi nữa cũng không quan trọng. Tôi sẽ không ở lại đâu, và nếu các anh không chịu cho tôi đi cùng, tôi cũng vẫn sẽ đi theo thôi. Phải, tôi đang có mang, nhưng tôi vẫn có thể tự đi được và tôi cũng nợ Brandeis nhiều như anh nợ anh ấy thôi. Kết luận, nếu tôi và anh lạc nhau lúc này, chúng ta có thể gặp lại nhau ở đâu được chứ? Việc chúng ta sống ở Mainz đã bị bại lộ và chúng ta không thể trở lại sống như cũ được nữa. Tôi nói rằng chính vì tôi đang mang thai nên tôi càng phải ở với anh, còn hơn là chịu cảnh ly biệt mãi mãi.
Tôi bác tất cả ý kiến của các anh đi và thắng thế vì chẳng còn thời gian đâu mà tranh luận. Vì thế chúng ta nhanh chóng sắp dọn đồ đạc, chỉ những thứ đáng giá nhất, và chuẩn bị rời đi càng sớm càng tốt.
Tôi gói cuốn Địa ngục cùng cuốn kinh cầu nguyện của Paolo, và khi anh không chú ý tôi đã luồn vội bức tượng Morgengabe vào túi của tôi. Anh chắc chắn sẽ không cho phép mang một vật nặng như thế, nhưng tôi quá trân trọng nó đến nỗi không nỡ bỏ nó lại. Tôi cũng xếp cả bộ quần áo nữ tu của mình vào nữa, vì tôi đã nhận ra rằng nó có thể dùng làm đồ cải trang rất tốt. Chúng ta cầm theo tất cả số tiền dành dụm cho một ngôi nhà chúng ta đã không bao giờ mua, và anh cùng Brandeis đi mua ba con ngựa tốt. Tôi bán tất cả chỗ gia vị và sách cho bất cứ ai muốn mua, dù do quá gấp gáp nên tôi gần như không thu được gì. Chỉ vài giờ sau khi người Beguine tới nhà, chúng ta đã lên đường rời khỏi Mainz. Tôi đeo cái túi, trong khi hai người các anh chỉ mang theo cung tên và quần áo. Cuộc sống chúng ta bỏ hàng bao năm gây dựng đã kết thúc, chỉ đơn giản như thế.
Ngay cả khi khỏe mạnh tôi cũng không phải người cưỡi ngựa giỏi và việc thai nghén làm tôi càng khó xoay xở. Cả khi chúng ta đã ra khỏi thành phố, anh vẫn không ngừng khuyên tôi nên đi theo lối khác. Ba dấu chân ngựa đi theo cùng một hướng sẽ dễ bị phát hiện hơn những dấu chân đi theo hướng ngược nhau, anh lý luận thế. Tôi chẳng chịu nghe và vặc lại rằng điều tốt nhất chúng ta có thể làm bây giờ là chạy càng xa càng tốt.
Chúng ta đã chạy liên tục cho tới khi những con ngựa kiệt sức không thể đi tiếp được nữa. Lưng tôi đau nhói, những cơn đau chạy dọc suốt sống lưng tôi theo mỗi tiếng vó ngựa, rồi lan khắp bụng dưới. Nhưng tôi kiên quyết không phàn nàn, vì tôi được ở bên anh.
Chúng ta tìm được một nhà trọ nhỏ và tôi được cử đi thương thuyết với người chủ trọ, vì các anh càng ít bị nhìn thấy bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Trước khi chúng ta đi ngủ trong cái đêm trốn chạy đầu tiên ấy, tôi có hỏi rằng chúng ta sẽ đi về đâu. Brandeis trả lời, “Không có đích đến thì tốt hơn. Nếu chúng ta biết mình định đi về đâu, những kẻ truy kích cũng sẽ biết.” Tôi không hiểu tại sao chuyện đó có thể là thật được, nhưng tôi đã quá mệt mỏi để tiếp tục tranh luận rồi.
Trong những ngày tiếp theo chúng ta sẽ cưỡi ngựa đi càng xa càng tốt miễn là tôi vẫn chịu được và rồi sẽ kiếm một phòng trọ, không ai trong số chúng ta dám mạo hiểm ra ngoài trừ lúc tôi đi tìm thức ăn. Chẳng mấy chốc chuyến đi đã khiến tôi kiệt quệ. Ngực tôi đau nhói và chứng chuột rút ở chân ngày càng nặng thêm, cơ nơi lồng ngực của tôi căng ra làm tôi đau như xé. Tôi biết tôi đang làm chúng ta chậm lại, tất cả chúng ta đều thấy vậy, và chuyện này càng đổ thêm dầu vào những cuộc tranh luận càng lúc càng thường xuyên hơn giữa chúng ta. Anh chỉ ra rằng việc tôi cứ chốc chốc lại đi vệ sinh không những làm chúng ta chậm lại, mà còn giúp bọn chúng dễ lần theo. Anh thậm chí còn dọa sẽ bỏ tôi lại nhưng, dĩ nhiên, anh nào dám làm thế.
Chúng ta đi tắt qua những thung lũng sau lưng các thành phố và trong cơn bấn loạn chúng ta bắt ngựa chạy băng qua những dòng suối băng giá và những vùng đất đá lởm chởm lồi lõm. Những con ngựa cuối cùng đã không thể tiếp tục giữ tốc độ chúng tôi cần, chúng đã hoạt động quá sức mà không được nghỉ ngơi đầy đủ. Khi chúng kiệt sức, chúng ta bán chúng lấy những con ngựa mới. Những kẻ truy kích cũng sẽ buộc phải làm như thế hoặc bị bỏ lại đằng sau thôi.
Dù luôn ngoái lại đằng sau, tôi không bao giờ thấy bọn truy kích. Tôi muốn tin rằng chúng ta đã bỏ xa bọn chúng. Nói thật, tôi nghĩ bọn chúng chẳng thể tiếp tục lần theo dấu của chúng ta, với tất cả những mánh lới chúng ta đã sử dụng trên đường. Nhưng nghĩ lại, chúng đã tìm ra Brandeis ở Mainz. Tôi thực sự không hiểu được khả năng của chúng nhưng hai người các anh đã từng sống với loại người này, vì thế tôi buộc phải tin nỗi sợ của các anh là thật. Các anh cứ không ngừng thúc bản thân và tôi tiến về phía trước với một tốc độ khủng khiếp.
Mỗi ngày trôi qua lại làm tăng thêm nỗi sợ của tôi rằng chuyến đi sẽ ảnh hưởng xấu đến con chúng ta - liệu nó có làm em bé ra đời sớm quá không? Tôi luôn phải tự thuyết phục bản thân, hết giờ này đến giờ khác, rằng việc thoát khỏi bọn truy lùng xứng đáng với bất cứ sự mạo hiểm nào. Trong những giây phút hiếm hoi tôi không lo lắng quá về đứa trẻ, tôi củng cố niềm tin của mình bằng việc nhớ lại cách anh mua cho chúng ta một chỗ ngồi trên chiếc xe chở lợn khi chúng ta mới vừa rời khỏi Engelthal. Tôi cố gắng thuyết phục bản thân rằng tình trạng hiện tại của chúng ta chỉ là một thử thách nữa chúng ta phải vượt qua để được sống một cách trọn vẹn, và ít ra thì cũng không có mùi hôi của lợn.
Nhưng sau một tuần, tôi đã không thể đi thêm được nữa. Anh và Brandeis vẫn chịu đựng được, nhưng tôi cầu xin được nghỉ. Chúng ta đã đi nhiều dặm đến nỗi chắc chắn là nghỉ một ngày cũng không sao. Anh đồng ý. Không phải vì đã an toàn, mà vì đã đến lúc phải lập một kế hoạch. Tôi không quan tâm là tại sao. Tôi sẽ nghỉ với bất cứ lý do gì.
Chúng ta đã đi đường vòng để làm rối bọn bám đuôi nhưng kết quả không như mong đợi, chúng ta chưa đi được bao xa khỏi nơi khởi hành. Chúng ta thấy rằng mình đã gần đến Nürnberg, đó là một điều khá thuận lợi bởi thành phố đó đủ lớn để chúng ta có thể trốn thêm vài giờ nữa.
Chúng ta tìm một quán trọ và hai người các anh lại ngồi xuống để bàn bạc bước tiếp theo. Có lẽ chúng ta sẽ đi lên phía Bắc, tới Hamburg, hoặc có lẽ đi ra phía Đông sẽ an toàn hơn, đến Bohemia hoặc Carinthia. Thậm chí còn bàn cả về việc sẽ đến Ý nữa. Các anh biết vài câu tiếng Ý căn bản, và tôi có thể làm phiên dịch cho hai người. Bọn truy đuổi chúng ta sẽ khó mà đoán ra nơi đó và thậm chí nếu có đoán ra được, Kuonrat cũng sẽ phải bỏ một nguồn nhân lực và vật lực lâu dài nếu muốn tiếp tục săn đuổi chúng ta tới tận một nước khác.
Chúng ta chỉ định ở lại Nürnberg một ngày thôi, nhưng sức khỏe của tôi không cho phép. Trong ba ngày liền, tôi quá đau đớn nên không thể tiếp tục cuộc hành trình. Tim tôi đập thình thịch liên hồi và tôi luôn bị hụt hơi. Tôi thèm ăn đến không thể kiềm chế nổi. Tôi thèm ngủ, nhưng trí óc tôi đã mê man trước cả khi kịp mắt nhắm. Tôi bị động thai và cuối cùng, một cách miễn cưỡng, tôi phải thừa nhận rằng anh đã đúng: tôi quá yếu để có thể tiếp tục. Quyết định được đưa ra; tôi sẽ được đặt vào bàn tay chăm sóc của nhà thờ gần đấy. Anh đưa cho tôi một nắm tiền, đủ để trả cho việc chăm sóc tôi cho đến lúc sinh nở, và khi anh tin rằng mình đã đào thoát thành công, anh sẽ quay lại đón tôi. Kế hoạch đã được lập; anh cho tôi ngủ thêm một đêm nữa trước khi bắt tay vào hành động. Tôi hỏi anh sẽ đi đâu sau khi để tôi ở lại, nhưng thậm chí cả điều này anh cũng không nói với tôi. “Không biết đích đến thì tốt hơn…” Tôi khóc suốt cho tới khi ngủ thiếp đi vào tối hôm đó, với anh ở bên vuốt tóc tôi và an ủi tôi rằng mọi việc rồi sẽ tốt đẹp cả thôi.
Định mệnh, tuy nhiên, lại có một kế hoạch khác. Đến nửa đêm thì có hàng loạt tiếng đập thình thịch vào cánh cửa nhà trọ của chúng ta, làm đống đồ đạc anh dùng để chặn cửa rung lên bần bật, và ngay lập tức mọi thứ trở nên rõ ràng, chúng ta đã bị phát hiện. Đường thoát duy nhất là qua cửa sổ, dù chúng ta đang ở trên tầng hai, cách mặt đất khoảng năm mét.
Tôi cố gắng nâng mình ra khỏi giường nhưng không thể, và anh phải dùng cả hai tay để xốc tôi dậy. Khi tôi đã thở lại bình thường, Brandeis thu dọn chỗ túi xách; anh nghển cổ ngó ra ngoài khung cửa sổ để xem có kẻ nào bên dưới không, và hất tay cảnh báo mọi người lùi lại. “Cung,” anh ra lệnh.
Brandeis chộp lấy cây cung và lắp tên sẵn vào cho anh. Ngay khi sợi dây đã được kéo căng, anh ấy đặt nó vào tay anh và anh bắn thẳng mũi tên qua cánh cửa sổ. Tiếng tên xé gió bay vụt đi và rít lên khi nó đâm vào một vật cứng. Anh lại đưa tay ra hiệu rằng đường đã thông và nhảy khỏi cửa sổ trước. Không phải do anh thiếu lịch thiệp, mà vì phải có người đỡ tôi xuống. Phía sau chúng ta, tiếng cánh cửa vỡ ra dưới những nhát rìu.
Dù nguy hiểm đã cận kề ngay trước mặt, tôi vẫn đông cứng lại trước cái cửa sổ. Cú rơi là quá sức của tôi, quá nguy hiểm cho đứa bé. Brandeis đứng giữa tôi và cánh cửa ra vào, thét gọi tôi nhảy xuống. Nhưng tôi cứ đứng yên bất động, nhìn xuống cánh tay dang rộng ở phía dưới của anh, cho tới khi tôi nghe thấy giọng Brandeis vang lên từ phía sau - “Marianne, tôi xin lỗi” - khi anh ấy đẩy tôi qua khung cửa sổ mở toang.
Tôi ôm bụng rơi xuống và anh hứng toàn bộ sức nặng từ cú rơi của tôi bằng cách lăn xuống tuyết khi anh bắt được tôi. Tôi nghe thấy tiếng quát tháo phía trên; vài giây sau, Brandeis bắn ra khỏi cửa sổ.
Cách anh ấy rơi có gì đó rất lạ, nhưng hầu hết tất cả sự chú ý của tôi đều tập trung vào tên lính nằm chết ngắc trên đường. Mặt hắn bị vùi trong một vũng tuyết bẩn, cổ thì ngoẹo thành một góc quái dị vì bị mũi tên cắm xuyên qua. Rồi tôi nhận ra rằng tuyết không hề bẩn, mà đỏ quạch vì dòng máu nóng vẫn còn đang ọc ra từ cổ hắn.
Anh đẩy tôi về phía lũ ngựa và điều tôi biết tiếp theo, chúng ta đang phóng ngựa vụt qua những con phố của Nürnberg. Anh và Brandeis ở bên cạnh tôi, điều khiển ngựa của tôi và quyết định đường đi của tôi. Kiệt sức và sốc trước vụ tấn công, tôi gần như vô dụng.
Tôi nhìn con ngựa của mình vừa thở phì phò vừa hùng hục chạy, suốt dọc đường cứ nghĩ mãi về người đàn ông nằm trên đường không bao giờ có thể hít thở được nữa. Cái cách hắn chết làm tôi cảm thấy bối rối, cái cách anh giết hắn không cần suy nghĩ, không cần ngần ngại. Tôi đã nhìn vào khuôn mặt anh khi anh bắn mũi tên đó, và tôi đã không mảy may nghĩ rằng mục tiêu lại là một con người. Môi anh mím chặt, mắt anh nhíu lại, và những ngón tay của anh không chút do dự. Anh hít nhanh một hơi trước khi kéo dây cung nhưng không phải để vững tinh thần, chỉ để vững tay anh thôi. Tất cả chỉ xảy ra trong... bao lâu nhỉ? Một giây? Ít hơn? Đây thực sự có phải là thời gian vừa đủ để giết một người không?
Chúng ta vừa đến ranh giới thành phố thì tôi để ý đến phía sau lưng con ngựa của Brandeis. Con ngựa thực ra không có vẻ gì là đang hất anh ấy xuống cả; đúng hơn, Brandeis chỉ đang ngồi lệch về phía sau mà thôi. Con vật phì ra một tiếng rên rỉ và cứ xoay đi xoay lại, như thể nó bị mất phương hướng vì người cưỡi không còn ở đó nữa. Máu ở khắp mọi nơi, trên tuyết, ở hai bên sườn con ngựa, dọc suốt chân của Brandeis. Quần anh ấy bị rách toạc một mảnh và có một vết thương ngoác miệng ở phía đùi trên nơi da toác ra như nụ cười của một con quỷ, miệng ngập ngụa máu. Mặt anh ấy tái xanh lại, môi run lên. “Một tên trong bọn chúng ném rìu. Nó trúng vào chân tôi khi tôi đang nhảy ra khỏi cửa. Tôi xin lỗi.”
Tôi đặt tay mình lên trán anh ấy, nó lạnh quá, ướt quá. Tôi không thể hiểu nổi vì sao anh ấy có thể ngồi lâu trên lưng ngựa được đến như thế. Anh rửa vết thương bằng một nắm tuyết, và một vũng nước hồng hồng dần bám xung quanh miệng vết thương đang sủi bọt. Anh bảo lấy ít vải, vì thế tôi lấy ra cái đầu tiên tôi tìm được trong chiếc túi xách của mình. Bộ quần áo nữ tu của tôi. Lẽ ra tôi phải tìm một thứ gì đó khác nhưng tôi đang quá sốc, tôi nghĩ thế, mà nó thì ở trên cùng. Anh xé nó thành một dải vải đủ để băng bó và buộc vết thương.
Anh đuổi con ngựa của Brandeis về hướng ngược lại bằng cánh đánh cho nó một phát, hy vọng rằng nó có thể làm mồi nhử, và nhấc Brandeis ra khỏi đống tuyết. Anh nhắc tôi nhớ rằng bọn truy kích vẫn còn ở phía sau, nhưng giờ chắc chúng đang tức giận lắm, rồi anh kéo Brandeis đặt lên ngựa của anh và để anh ấy tựa vào lưng anh. Anh quàng tay anh ấy vào người mình và buộc hai bàn tay anh ấy quanh eo mình. “Engelthal không còn xa nữa. Cả lính đánh thuê cũng phải kính trọng ngôi nhà của Chúa.”
Bụng tôi quặn lại vì tôi không hề muốn trở về Engelthal. Nhưng tôi cũng hiểu tình hình nguy ngập đến thế nào và tôi cố nuốt hết mọi câu phản đối có thể tuôn ra khỏi miệng. Brandeis cần phải được chữa trị ngay lập tức, vì thế chúng tôi vội vã chạy về hướng tu viện.
Anh ấy vắt vẻo sau lưng anh như một con bù nhìn bị nhồi quá tay rồi ném ra cánh đồng đuổi quạ. Ngựa của anh khổ sở vì phải chở nặng nên chúng ta không thể đi nhanh được, nhưng anh cố hết sức thúc nó đi càng nhanh càng tốt. Chúng ta bỏ đường vòng và chọn đường chính dẫn thẳng đến tu viện, vì chẳng còn thời gian mà lén lút nữa. Chúng ta không thể dừng lại kiểm tra vết thương của Brandeis và tôi vẫn phải chống chọi với quả tim đang đập thình thịch trong ngực mình. Trong khi cưỡi ngựa, tôi hỏi anh câu hỏi mà tôi không thể đừng được nữa. “Làm sao anh bắn trúng được người đó vậy? Xuyên thẳng qua cuống họng?”
“Anh đã ngắm vào ngực hắn ta.” Cách anh nói mới bàng quan làm sao, và giọng anh khiến tôi hiểu rõ rằng cuộc nói chuyện đến đây là kết thúc.
Khi bắt đầu nhận ra đường cũ, tôi chỉ cho anh con đường dễ đi nhất. Đến cổng Engelthal, tôi khó nhọc xuống ngựa và gọi cửa. Thành khẩn xin vào có vẻ tốt hơn cho chúng ta, hơn nữa, để tháo Brandeis ra khỏi người anh cũng mất rất nhiều thời gian.
Xơ Constantia là người ra mở cửa, và ánh mắt bối rối lập tức hiện lên trên khuôn mặt cô. “Xơ Marianne?”
Tôi giải thích tình thế của chúng ta cho cô ấy và tôi có thể thấy cô cứ chốc lại liếc anh, nhận ra rằng anh chính là người lính bị bỏng cô đã chăm sóc nhiều năm về trước. Khi cuối cùng cũng cất tiếng được, xơ Constantia nói, “Bình thường thì… bình thường thì, tôi sẽ để mọi người vào… chuyện này chẳng bình thường chút nào.” Ánh mắt cô chúi xuống, gần như là xấu hổ, nhìn vào cái bụng căng phồng của tôi.
Tôi không thể hiểu nổi sự do dự đó là vì sao. Dù người ta có đồn đại gì đi nữa về sự biến mất của tôi, chúng ta cũng phải cần được che chở nếu không Brandeis sẽ chết mất. Tôi ra hiệu về phía anh ấy để thêm phần thuyết phục. Tôi thấy xơ Constantia đã nhận ra đống vải đầy máu buộc xung quanh chân anh ấy là những phần còn lại của bộ áo nữ tu của tôi.
“Nếu chị không thể để chúng tôi vào,” tôi nài nỉ, “hãy gọi mẹ Christina. Bà sẽ không để người đàn ông này phải chết đâu.”
“Tu viện trưởng đang ở Nürnberg và sẽ không quay trở lại chóng vậy đâu. Xơ Agletrudis đang làm quyền tu viện trưởng thay bà. Tôi sẽ gọi xơ ấy.” Trước khi quay vào trong tu viện, xơ Constantia nói thêm một điều nữa. “Nhưng xơ ấy vẫn chưa tha thứ cho việc cô phá hoại phòng viết đâu.”
Tôi chẳng hiểu xơ Constantia nói thế là có ý gì, nhưng tôi có thể chắc chắn rằng mình sẽ biết điều đó khi Agletrudis đến.